intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

15
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An" làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội vận chuyển hành cấm trên địa bàn huyện Đức Hoà, tỉnh Long An, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh đối với tội phạm này trên địa bàn huyện Đức Hòa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MẠNH SỸ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MẠNH SỸ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN \ Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn thạc sĩ luật học “Tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình bày trong luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực và cam đoan luận văn này chưa từng được ai công bố trước đây. TÁC GIẢ LUẬN VĂN TRẦN MẠNH SỸ
  4. MỤC LỤC Trang Mở đầu ............................................................................................................... 01 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM………………………………………………………...6 1.1. Những vấn đề lý luận về tội vận chuyển hàng cấm ..................................... ..6 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vận chuyển hàng cấm..... 16 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN…………………31 2.1. Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội vận chuyển hàng cấm ................ 31 2.2. Kết quả áp dụng quy định về tội vận chuyển hàng cấm ............................................................................................................................. 35 2.3. Những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng pháp luật về tội vận chuyển hàng cấm và nguyên nhân…………………………………………………….. 41 Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM 3.1. Những yếu tố tác động đến chất lượng áp dụng pháp luật về tội vận chuyển hàng cấm ............................................................................................... 47 3.1.1. Yếu tố pháp luật và bảo đảm hướng dẫn áp dụng pháp luật..................... 47 3.1.2. Yếu tố năng lực người áp dụng pháp luật (trình độ chuyên môn, đạo đức, kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp…) ............................................................... 47 3.1.3. Các yếu tố bảo đảm hoạt động áp dụng pháp luật .................................... 48 3.2. Các yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật ............................. 50 3.2.1. Yêu cầu phù hợp pháp luật với cơ chế kinh tế thị trường......................... 50 3.2.2. Yêu cầu Cải cách tư pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp ..................................................................................................................... 51 3.2.3. Yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa, giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù của Cải cách tư pháp ..................................................................................................................... 51 3.2.4. Yêu cầu bảo vệ quyền con người… .......................................................... 54 3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật về tội vận chuyển hàng cấm ............................................................................................................ 54
  5. 3.3.1. Hoàn thiện quy định về tội vận chuyển hàng cấm ............................... 54 3.3.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết thực tiễn, ban hành án lệ về tội vận chuyển hàng cấm ............................................................................ 57 3.3.3. Nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng .............................................. 57 3.3.4. Tăng cường các biện pháp bảo đảm cho cơ quan, người tiến hành tố tụng ............................................................................................................................. 60 KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS KSV BLTTHS TAND BLTTHSVN THQCT
  6. TNHS Bộ luật hình sự năm 2015 TTHS Bộ luật tố tụng hình sự VAHS Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam VKS Kiểm sát viên VKSND Tòa án nhân dân Thực hành quyền công tố Trách nhiệm hình sự Tố tụng hình sự Vụ án hình sự Viện kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC BẢNG BIỂU
  7. Bảng 2.1. Thống kê thụ lý điều tra VAHS về tội vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ 2015-2019…………………………..29 Bảng 2.2. Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội vận chuyển hàng cấm của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An từ 2015 - 2019………………....30 Bảng 2.3. Thực trạng áp dụng hình phạt đối với tội vận chuyển hàng cấm từ 2015 - 2019……………………………………………………………………….33 Bảng 2.4. Thống kê thực trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với tội vận chuyển hàng cấm của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà từ 2015 - 2019……35 Bảng 2.5. Thống kê thực trạng áp dụng hình phạt bổ sung đối với tội vận chuyển hàng cấm của Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An từ 2015- 2019………………………………………………………………………………36 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những bước phát triển quan trọng; đưa nước ta từ một nước nghèo trở thành nước có chất lượng kinh tế trung bình và từng và từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, quá trình phát triển của kinh tế cũng xuất hiện nhiều hành vi phạm tội xảy ra, trong đó các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội thường dùng thủ đoạn lợi dụng những hạn chế trong quản lý kinh tế để thực hiện hành vi phạm tội. Điển hình trong các loại tội phạm này chính là tội vận chuyển hàng cấm. Huyện Đức Hòa, tỉnh Long An là huyện có nhiều điều kiện tự nhiên lợi cho phát triển kinh tế xã hội và có nhiều tuyến đường giao thông nối với Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì tình hình tội phạm về vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện thời gian qua cũng diễn biến hết sức phức tạp. Theo số liệu thống kê trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, các cơ quan tố tụng trên địa bàn huyện Đức Hòa khởi tố, xét xử 74 vụ/87 bị cáo về tội này. Tuy nhiên, trên thực tế quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm về vận chuyển hàng cấm của các cơ quan tố tụng trên địa bàn huyện Đức Hòa, còn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại đặc biệt là công tác định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội này, nên việc nghiên cứu để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội vận chuyển hàng cấm để từ đó đưa ra giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm này là cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “ Tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, với mong muốn thông qua việc phân tích đánh giá thực tiễn việc định tội danh và áp dụng hình phạt trong điều tra, truy tố, xét xử và đưa ra đề xuất, kiến nghị tháo gỡ khó khăn trong việc xét xử đối với tội này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu về tình hình tội phạm trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tội phạm về sản xuất, buôn bán, tàng trữ và vận 8
  9. chuyển hàng cấm nói riêng. Điển hình như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Huyền Trang (2016) về tội “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh”; tác giả Lâm Văn Tuân về tội“Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lan Phương về “Tội vận chuyển, tàng trữ hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (năm 2018)”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Bích Liên về tội “ Buôn bán hàng cấm từ tiễn tỉnh Long An”. Ngoài ra, còn có hệ thống các bài viết, đề tài khoa học như: “ Chính sách pháp luật hình sự đối với đồng phạm trong phát triển đất nước” của tác giả Phí Thành Trung đăng trên Tạp chí Tòa án số 09 (2020); “Truy cứu Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội” của tác giả Bạch Ngọc Du đăng trên Tạp chí Tòa án; “Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí kiểm sát số 16/2018; “Hoàn thiện các quy định về hình phạt đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình sự” của tác giả Huỳnh Trung Hậu, đăng trên Tạp chí KHGD -CSND số 99. Tuy nhiên, những đề tài trên mới chỉ nghiên cứu các tội trong cùng một điều luật mà chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một loại tội phạm cụ thể. Vì vậy, đề tài “ Tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” là đề tài mới được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua nghiên cứu để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội vận chuyển hành cấm trên địa bàn huyện Đức Hoà, tỉnh Long An, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh đối với tội phạm này trên địa bàn huyện Đức Hòa. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
  10. Để thực hiện mục đích nghiên cứu như ở trên, Luận văn đặt ra những nhiệm vụ như sau: - Nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật hình sự về tội vận chuyển hàng cấm. - Khảo sát và đánh giá thực tiễn về việc áp dụng quy định pháp luật và định tội danh đối với tội vận chuyển hàng cấm, trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. - Đưa ra yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật tội vận chuyển hàng cấm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu của tác giả là những vấn đề lý luận về pháp luật, thực tiễn định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội vận chuyển hàng cấm từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả, tác giả xác định phạm vi nghiên cứu của Luận văn là tội vận chuyển hàng cấm theo của BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Đồng thời, đánh giá những tồn tại, vướng mắc trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội này trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Để triển khai việc nghiên cứu Luận văn, tác giả dựa trên nền tảng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như quan điểm của Đảng về phòng và chống tội phạm nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để đánh giá đúng tình hình thực tế giải quyết, thuận lợi khó khăn, tác giả sử dụng phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự là: Phương pháp thống kê, 10
  11. phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn và nêu vụ việc điển hình dựa trên những bản án, thống kê, báo cáo tổng kết của cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Toà án huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn Đồng thời, thông qua việc đánh giá nguyên nhân chủ quan, khách quan, diễn biến tình hình tội phạm và thực tiễn việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội vận chuyển hàng cấm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tố tụng trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, từ đó tác giả đưa ra những đánh giá, nhận định về kết quả đạt được trên thực tế. Qua đó, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong việc định tội danh, quyết định hình phạt và đưa ra kiến nghị, giải pháp để vận dụng vào thực tiễn trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục tài liệu viết tắt thì Luận văn được chia thành 03 Chương, gồm: Chương 1 là: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội vận chuyển hàng cấm. Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định về tội vận chuyển hàng cấm tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Chương 3 là: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật về tội vận chuyển hàng cấm. 11
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM 1.1. Những vấn đề lý luận về tội vận chuyển hành cấm 1.1.1. Khái niệm tội vận chuyển hàng cấm Đến nay, trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có khái niệm về tội vận chuyển hàng cấm. Vì vậy, để đưa ra được khái niệm về tội này, cần phải tìm hiểu khái niệm của từng cụm từ về “Hàng hoá, hàng cấm, vận chuyển, tội phạm” rồi tổng hợp lại thành khái niệm hoàn chỉnh. Trong các cụm từ trên, duy nhất chỉ có cụm từ “tội phạm” được đưa ra khái niệm tại Điều 8 BLHS năm 2015, “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Ngoài quy định trong luật hình sự thì khái niệm về “tội phạm” còn được khái quát trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam như sau “Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi”. [6, tr. 105]. Phân tích 02 khái niệm về tội phạm nêu trên cho thấy: Mọi tội phạm cụ thể đều được cấu thành từ 04 yếu tố là: (1) hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội; (2) tính trái pháp luật hình sự; (3) tính có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và (4) tính có lỗi. Đối với các cụm từ “Hàng hóa, hàng cấm, vận chuyển” mặc dù những cụm từ này chưa có khái niệm cụ thể nhưng được giải thích trong từ điển Tiếng Việt như sau: “Hàng hóa” là sản phẩm do lao động làm ra được mua bán trên thị 12
  13. trường; “Hàng cấm” là hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh; “Vận chuyển” là việc chuyển người hoặc hàng hóa từ nơi này đến nơi khác với nhiều hình thức, phương tiện, loại hình giao thông khác nhau như đường bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không. . .[27, tr 110] Như vậy, xuất phát từ bản chất của tội phạm là hành vi có thể đưa ra định nghĩa về tội vận chuyển hàng cấm là: “Hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc pháp nhân thương mại cố ý vận chuyển những hàng hóa mà Nhà nước cấm sản xuất, buôn bán, tàng trữ, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được quy định trong Bộ luật hình sự và hành vi này xâm phạm quan hệ xã hội về trật tự quản lý kinh tế”. Với việc phân tích dấu hiệu pháp lý và đưa ra khái nhiệm về tội vận chuyển hàng cấm có thấy việc tội phạm hóa đối với hành vi phạm tội này là cần thiết và phải dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở lý luận, thực tiễn sau: 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vận chuyển hàng cấm Giống như cấu trúc của tội phạm nói chung thì tội vận chuyển hàng cấm cũng được tạo thành từ 04 yếu tố, gồm: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm. 1.1.2.1. Khách thể, đối tượng của tội vận chuyển hàng cấm Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cơ bản cấu thành tội phạm và việc xác định đúng khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Với ý nghĩa như trên khách thể của tội phạm nói chung được khái quát là “Quan hệ xã hội bị xâm phạm và được luật hình sự bảo vệ và những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được xác định trong Điều 8 BLHS năm 2015” [37, tr 66] Như vậy, khi chủ thể của tội phạm xâm phạm đến một khách thể bao giờ cũng tác động đến một đối tượng nhất định. Vì vậy, có thể thấy khách thể và đối tượng có quan hệ gần gũi với nhau nhưng khách thể và đối tượng tác động lại tồn tại độc lập. Bởi vì, đối tượng tác động của tội phạm là những phần trong khách thể của tội 13
  14. phạm mà khi tác động đến chủ thể thực hiện hành vi phạm tội có thể gây thiệt hại cho khách thể. Từ phân tích nêu trên, có thể hiểu khách thể của tội vận chuyển hàng cấm là “trật tự quản lý kinh tế và chế độ độc quyền trong quản lý một số hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam”. Đối tượng của tội vận chuyển hàng cấm là: Các hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng; thuốc lá điếu nhập lậu; pháo nổ; thuốc bảo vệ thực vật mà nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế không phải tất cả các mặt hàng nêu trên đều là đối tượng của tội vận chuyển hàng cấm. Bởi vì, hàng hóa Nhà nước cấm gồm có nhiều loại. Trong đó, có những hàng hóa được coi là hàng cấm, nhưng lại được quy định là đối tượng của tội phạm khác như: Tội buôn bán ma tuý, tội buôn lậu . . . nên để xác định hàng cấm có phải là đối tượng của tội vận chuyển hàng cấm hay không thì ngoài căn cứ vào quy định về tội “ Vận chuyển hàng cấm” tại Điều 191 BLHS năm 2015, còn phải căn cứ vào quy định của Luật Thương mại, Luật Đầu tư và Nghị định số 94/2017 NĐ - CP ngày 10/8/2017 của Chính phủ quy định hàng cấm. Theo đó đối tượng tác động của tội vận chuyển hàng cấm, gồm: - Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng; - Thuốc lá điếu nhập lậu; Pháo nổ; - Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng (như vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân; chất cháy, chất độc); - Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam - Các chất ma túy (45 loại) theo quy định tại Phụ lục 1 của Luật Đầu tư; 14
  15. - Các loại hóa chất (gồm 08 loại hóa chất độc), tiền chất (gồm 04 loại) và khoáng vật (01 loại) quy định tại Phụ lục 2 của Luật Đầu tư; - Mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; - Mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên (gồm 19 loài thực vật và 90 loài động vật) theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật Đầu tư; - Mại dâm; - Người, mô, bộ phận cơ thể người; - Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người; - Vật liệu nổ công nghiệp; - Pháo hoa; - Hàng hóa thuộc danh mục dự trữ quốc gia; Tóm lại: Khách thể của tội vận chuyển hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế được nhà nước bảo vệ, còn đối tượng tác động của tội này là những hàng hóa được quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 và các quy định của Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Nghị định số 94/2017/NĐ-CP ngày 10/8/2017 của Chính phủ. Tuy nhiên, khi xác định đối tượng tác động của tội này, cần chú ý đến một số hàng cấm được thống kê ở trên nhưng đã được quy định của một điều luật khác thì không phải là đối tượng tác động của tội vận chuyển hàng cấm. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội vận chuyển hàng cấm Cùng với khách thể của tội phạm thì mặt khách quan của tội phạm cũng là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm; Mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh. Vì vậy, nắm vững và hiểu đúng khái niệm về mặt khác quan của tội phạm sẽ phân biệt được tội vận chuyển hàng cấm với các tội phạm khác. Luật hình sự Việt Nam định nghĩa mặt khách quan của tội phạm là “Những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài của tội phạm” [38, tr 161]. 15
  16. Từ phân tích nêu trên, có thể khái niệm mặt khách quan của tội vận chuyển hàng cấm “Là hành vi dùng các loại phương tiện khách nhau để chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào”. Ví dụ: Dùng xe ô tô, tàu hỏa để vận chuyển hàng cấm, lợi dụng trẻ em, thương binh…để phục vụ việc vận chuyển. Mặc dù, dấu hiệu về mặt khách quan của tội vận chuyển hàng cấm đã được thể hiện như phân tích ở trên nhưng việc truy cứu TNHS về tội phạm này còn phải đáp ứng dấu hiệu về điều kiện để cấu thành cơ bản như là hàng cấm có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn. Ngoài ra, đối với trường hợp hàng cấm không phải là có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn thì cần phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; tàng trữ, vận chuyển hàng giả; tàng trữ, vận chuyển hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; kinh doanh trái phép; trốn thuế hoặc đã bị kết án về các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm về hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. 1.1.2.3. Chủ thể của tội vận chuyển hàng cấm Hiện nay, tình hình tội phạm vận chuyển hàng cấm ngày càng gia tăng, hoạt động ngày càng tinh vi và có diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc xác định chủ thể của tội phạm có vai trò quan trọng trong việc xử lý đối với tội này. Như đã phân tích ỏ trên tội phạm là: “Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Như vậy, có thể thấy chủ thể của tội phạm không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân thương mại. 16
  17. - Chủ thể của tội phạm là cá nhân: Trong trường hợp này thì chủ thể phải là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định. Về năng lực TNHS được hiểu là khả năng nhận thức của cá nhân về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển hành vi, điều đó có nghĩa là họ có thể lựa chọn hành vi nguy hiểm hay không nguy hiểm cho xã hội và người có năng lực TNHS trước hết phải đạt đến độ tuổi nhất định để có thể nhân thức được tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của mình gây ra cho xã hội và có khả năng điều khiển hành vi của mình. Theo quy định của BLHS năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm trừ tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 172, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS. Như vậy, căn cứ vào quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở trên thì chủ thể của tội vận chuyển hàng cầm là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 Điều 2, Điều 76 và Điều 191 BLHS năm 2015 thì pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội này. Tuy nhiên, pháp nhân thương mại chỉ chở thành chủ thể của tội phạm này khi có đủ các điều kiện sau: “(a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; (b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; (c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; (d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”. [54, tr 47]. Tóm lại: Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào hoặc pháp nhân thương mại có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, với lỗi có ý xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế trong việc vận chuyển hàng cấm được luật hình sự bảo vệ và có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. 1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội vận chuyển hàng cấm 17
  18. Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm, được thể hiện thông qua các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm là dấu hiệu về lỗi, động cơ, và mục đích phạm tội. Trong đó, “Lỗi” là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. “Động cơ” là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội; “Mục đích” là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội”.[ 33, 14, tr.122]. Theo đó, mặt chủ quan của tội vận chuyển hàng cấm cũng được thể hiện là lỗi cố ý trực tiếp; người thực hiện hành vi biết rõ vận chuyển hàng cấm là trái pháp luật và rất nguy hiểm cho xã hội và bị pháp luật cấm những vẫn cố tình thực hiện vì mục đích kinh tế là tiền công vận chuyển. Qua nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội vận chuyển hàng cấm, cho thấy: Chủ thể của tội vận chuyển hàng cấm là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại có năng lực TNHS thực hiện xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, việc nắm vững các dấu hiệu cấu thành của tội có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội này. 1.2. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về tội vận chuyển hàng cấm. Tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015, được tách từ Điều 155 BLHS năm 1999 và điều luật được chia thành 05 khoản với nhiều quy định mới, tiến bộ trong quy định về tội phạm và hình phạt, cụ thể: 1.2.1. Quy định về tội phạm Như đã phân tích ở trên, tội phạm là “Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của 18
  19. công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Tuy nhiên, cũng cần chú ý những hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Qua phân tích khái niệm về tội phạm nói chung và đối chiếu với quy định về tội phạm vận chuyển hàng cấm quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015, thì chủ thể tội phạm gồm có cá nhân và pháp nhân thương mại. Theo đó, cá nhân khi thực hiện hành vi phạm tội và được coi là tội phạm thì phải đủ các điều kiện sau: Người thực hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12 BLHS năm 2015 quy định như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 đến 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như đã nêu ở trên còn khoản 1 của Điều luật quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm nên đối từ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về tội vận chuyển hàng cấm quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015, đây là điểm mới và cũng thể hiện tính nhân văn của BLHS năm 2015. Ví dụ: T 15 tuổi 09 tháng có hành vi vận chuyển 13.500 bao thuốc lá nhập lậu cho 01 đối tượng không rõ lai lịch từ biên giới vương quốc Campuchia về địa bàn huyện Đức Hoà, tỉnh Long An, thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ. Tuy nhiên, do tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì T chưa đủ 16 tuổi và có hành vi vận chuyển số lượng lớn thuốc lá lậu nhưng không thuộc tội phạm quy định tại 19
  20. Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015, nên T không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ngoài ra, còn một đối tượng nữa không phải chịu TNHS về tội vận chuyển hàng cấm đó là người không có năng lực TNHS được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 quy định “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm tội được quy định tại điều 76 của Bộ luật hình sự thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, pháp nhân thương mại phải chịu TNHS về tội vận chuyển hàng cấm quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015. Đồng thời, Điều 75 cũng quy định rõ 04 điều kiện để một pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, bao gồm: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi định tội danh đối với người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi vận chuyển hàng cấm cần phải lưu ý đến đối tượng này do khái niệm về tội phạm đã được mở rộng hơn trong Bộ Luật Hình sự 2015 nên dấu hiệu đặc trưng của tội phạm cũng có sự thay đổi là. Ngoài dấu hiệu đặc trưng của tội phạm thì chủ thể của tội vận chuyển hàng cấm còn là pháp nhân thương mại và chủ thể này còn phải đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 75 Bộ Luật Hình sự 2015 phải chịu TNHS theo những quy định của Chương XI; theo quy định khác của phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương XI. Như vậy, so với quy định tại Điều 155 BLHS năm 1999 thì tội vận chuyển hàng cấm quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015 thu hẹp về phạm vi tuổi chịu trách nhiệm hình sự và bổ sung thêm chủ thể là pháp nhân thương mại. 1.2.2. Quy định về hình phạt Như chúng ta đã biết, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Bộ luật hình sự là hệ thống các hình phạt và được sắp xếp theo trật tự nhất định tùy thuộc 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2