intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Tomhum999 Tomhum999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

32
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn nhằm làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, chỉ ra những bất cập còn tồn tại khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can ở nước ta hiện nay mà cụ thể là ở địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát huy tối đa tính dân chủ, chính xác, khách quan, toàn diện trong hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo xu hướng bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ NGỌC LAM ĐIỀN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ NGỌC LAM ĐIỀN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN TUẤN KHANH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn về đề tài: “Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra” do tôi viết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu tham khảo, giáo trình hướng dẫn, thực tiễn thực hiện hoạt động nghề nghiệp và được sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Tuấn Khanh. Tôi đã hoàn thành Luận văn và chịu trách nhiệm với những vấn đề tôi viết. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 05 năm 2020 Học viên thực hiện Lê Ngọc Lam Điền
  4. LỜI CẢM ƠN Học viện Hành chính quốc gia là nơi đào tạo tin cậy, có uy tín đối với sinh viên, đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành trong lĩnh vực đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ,… Trong hai năm ở giảng đường Học viện là khoảng thời gian mà mỗi học viên được tiếp nhận vốn tri thức cơ bản về Luật Hiến pháp và Luật hành chính. Có được kết quả như ngày hôm nay cũng như hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này, tôi xin gửi lời cảm ơn và lời chúc sức khoẻ chân thành đến: - Lãnh đạo Học viện cùng các thầy, cô tại Học viện đã tận tình giảng dạy, dành nhiều thời gian để tôi trau dồi tri thức, đạo đức. - Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Khanh – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra đã hướng dẫn nhiệt tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đúng tiến độ luận văn này. - Các luật sư đồng nghiệp, các đơn vị tiến hành tố tụng, các cơ quan thực thi pháp luật đã nhiệt tình giúp đỡ tôi, có những góp ý thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành tốt luận văn. - Các anh chị học viên cùng khóa đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tôi trân trọng tri ân! Học viên thực hiện Lê Ngọc Lam Điền
  5. MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài : ....................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6 3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 6 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 7 4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 7 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn ........................ 7 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn ..................................................... 8 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................................... 8 8. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 9 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA................................. 10 1.1. Quan niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ..... 10 1.1.1 Quan niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra............ 10 1.1.2 Đặc điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra................... 13 1.2. Nội dung, trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra....... 14 1.2.1 Nội dung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ............................. 14 1.2.2 Trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ........... 17 1.3. Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra....31
  6. 1.3.1 Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của bị can trong giại đoạn điều tra ........................................................................................................................ 31 1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra và cơ quan tư pháp khác ..................................................................................................................... 34 1.3.3 Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ...................................... 37 1.3.4 Năng lực, chuyên môn, ý thức trách nhiệm của điều tra viên ................... 39 1.3.5 Nhận thức, ý thức pháp luật của bị can ..................................................... 43 1.3.6 Sự giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự giám sát của xã hội .................................................................................................................. 44 CHƢƠNG II : THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 46 2.1. Những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến bảo đảm quyền của bị can tại giai đoạn điều tra tại Thành phố HCM ..................................................... 46 2.2. Thực tiễn về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại Tp.HCM48 2.2.1 Về việc tạm giam – tạm giữ : .................................................................... 53 2.2.2 Về đảm bảo quyền bào chữa của bị can, người bị tạm giữ tạm giam trong giai đoạn điều tra : .............................................................................................. 60 2.3 Đánh giá chung về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại thành phố Hồ Chí Minh : ................................................................................... 64 2.3.1 Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt được ........................... 64 2.3.2 Bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế .................. 67 CHƢƠNG III : QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ............................................................... 75 3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ............... 75 3.1.1 Quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người .......................... 75 3.1.2 Cơ chế Hiến định bảo vệ, bảo đảm quyền con người. .............................. 76 3.1.3 Những bảo đảm về quyền con người trong tố tụng hình sự. .................... 77 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh : ................................................................................... 79
  7. 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ................................................................................. 79 3.2.2. Nâng cao năng lực, hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan điều tra............ 83 3.2.3. Tăng cường kiểm sát hoạt động điều tra .................................................. 84 3.2.4.Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của điều tra viên ........... 88 3.2.5 Tăng cường sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và giám sát của xã hội đối với hoạt động điều tra ........................................................................ 92 3.2.6 Nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho người dân ............................... 93 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 97
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 2. Tính cấp thiết của đề tài : Quyền con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức và thực tiễn chính trị, vì vậy, nó gắn với các thời đại trong lịch sử cụ thể và chính bản thân nó cũng bị hạn chế bởi lịch sử, bởi các điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Quyền con người luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa luôn được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các văn bản pháp lí như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước luôn có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Để đảm bảo quyền con người trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều đã có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong đó không thể không kể đến quyền bào chữa và những bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc Hiến pháp ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định này. Các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đều xếp quyền bào chữa trong chương về cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 1992 quy định ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo như là yêu cầu và nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân khi thực hiện việc 1
  9. xét xử. Điều 132 Hiến pháp 1992 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ được đảm bảo thực hiện trong phạm vi của giai đoạn tại Tòa án (giai đoạn xét xử). Để khắc phục hạn chế này, Hiến pháp năm 2013 không chỉ quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một nguyên tắc của hoạt động xét xử mà quyền bào chữa còn được mở rộng đối với “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”. Quyền bào chữa trong Hiến pháp 2013 được sắp xếp trong nhóm quyền cơ bản của công dân, quyền con người. Như vậy, Hiến pháp đã xác định rõ quyền bào chữa là quyền con người, quyền công dân nên không chỉ cơ quan xét xử mà tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có trách nhiệm tôn trọng và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã quy định luật sư được tham gia tố tụng từ trước khi có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ, cụ thể tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự. Như vậy, kể cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ của cơ quan điều tra thì người bào chữa là luật sư được quyền tham gia tố tụng từ khi người phạm tội bị bắt, tạm giữ và được đưa về trụ sở cơ quan điều tra. Giai đoạn điều tra trong một vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm soát của Viện Kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện Kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. 2
  10. Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của cơ quan điều tra về việc đề nghị Viện Kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. Điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm. Điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự (như: Truy tố của Viện kiểm sát hoặc xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội). Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện Kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong toàn xã hội. Thực tiễn cho thấy, mặc dù Hiến Pháp và pháp luật Tố tụng hình sự đã quy định tương đối đầy đủ và chặt chẽ nhưng trong các vụ án hình sự, quyền của bị can vẫn chưa được các cơ quan tố tụng, cụ thể là Cơ quan cảnh sát điều tra và người tiến 3
  11. hành tố tụng, cụ thể là điều tra viên thực sự tôn trọng và bảm đảm thực hiện. Cụ thể là : Thứ nhất: Vai trò của người bào chữa trong thực tế còn hạn chế và trong thực tế nhiều khi chưa được một số cơ quan có thẩm quyền thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình như việc tham gia tố tụng của người bào chữa sau khi có quyết định khởi tố bị can còn gặp nhiều khó khăn; nhiều trường hợp sau khi ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra đã không giao quyết định này và cũng không giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, bị can không biết là mình có quyền nhờ người bào chữa ngay từ khi bị khởi tố mà họ cứ tưởng khi ra toà mới được mời luật sư. Thứ hai: Đối với những trường hợp bào chữa chỉ định vì nhiều lí do khác nhau mà việc bào chữa thường chỉ mang tính hình thức, qua loa, đại khái. Thứ ba: Điểm b, Khoản 1, Điều 72 BLTTHS quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như sau: “Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can...”. Theo quy định này thì việc có cho phép được hỏi bị can hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, cho nên có trường hợp điều tra viên không cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung. Điều tra viên dường như không để ý đến sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất của họ. Đối với các hoạt động điều tra khác thì hầu như người bào chữa cũng không được tham gia mặc dù có trường hợp họ rất muốn tham gia nhưng đều bị điều tra viên từ chối. Sau khi kết thúc điều tra, hầu hết cơ quan điều tra không thông báo cho người bào chữa biết về việc kết thúc điều tra. Việc này đã làm cho người bào chữa gặp khó khăn trong việc đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra. Thực tế có nơi cán bộ điều tra khuyên bị can thuê luật sư là vô ích vì tội trạng đã rành rành và vụ án đã được quyết định. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can vẫn còn diễn ra. Một số người tiến hành tố tụng còn chưa nhận thức được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 4
  12. của công dân và minh oan cho người vô tội cũng như xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội. Ở giai đoạn điều tra, nhiều điều tra viên cho rằng người bị tạm giữ không cần mời người bảo vệ/luật sư vì chưa cần thiết. Trong quá trình điều tra thường chú ý đến việc không bỏ lọt tội phạm hơn là việc không làm oan cho người vô tội và coi việc tham gia tố tụng của người bào chữa/bảo vệ chỉ là để cho đủ thủ tục mà thôi. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ quyền của bị can, dẫn đến tình trạng oan sai trong tố tụng. Vì vậy, việc nghiên cứu về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng oan sai. Với nhận thức trên, học viên chọn đề tài : Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu như : - Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Hoàng. - Luận án tiến sĩ luật học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt nam “ của tác giả Nguyễn Quang Hiền. - Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt nam” của tác giả Lại Văn Trình. - Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà nội – khoa luật 2006 “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam” do GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toàn đồng chủ biên. - Chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt nam” của TS. Trần Quang Tiệp. 5
  13. Các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu bảo vệ quyền con người từ góc độ tư pháp hình sự, phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ phân tích quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu về việc bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra, bao gồm cả quyền được im lặng theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt nam. Trong thực tiễn điều tra, xử lý các vụ án hình sự vẫn còn những vi phạm nhân quyền. Vì vậy, việc nghiên cứu để bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong quá rình thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế cũng như công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Đây là lý do để học viên quyết định chọn đề tài : “Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luật văn thạc sĩ cho mình. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố, người viết hướng đến mục đích muốn làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, chỉ ra những bất cập còn tồn tại khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can ở nước ta hiện nay mà cụ thể là ở địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát huy tối đa tính dân chủ, chính xác, khách quan, toàn diện trong hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo xu hướng bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu như trên, người viết tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau : a. Làm rõ khái niệm bị can, khái niệm quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can. 6
  14. b. Tìm hiểu sơ lược các quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra theo luật pháp quốc tế c. Tìm hiểu sơ lược quy định pháp luật Việt nam qua các thời kỳ về quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra. d. Đi sâu vào phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sư Việt nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra. e. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. f. Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền của bị can trong giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can trong giai đoạn điều tra tại địa bàn Tp Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Thành phố Hồ Chí Minh Phạm vi thời gian: giai đoạn 2018 đến quý 1/2020 Luận văn nghiên cứu là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong thời kỳ từ năm 1945-1988, thời kỳ pháp luật tố tụng hình sự năm 1988 – 2003, thời kỳ pháp luật tố tụng năm 2003 – 2015 và pháp luật tố tụng hiện nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp và quyền con người. 7
  15. Cơ sở thực tiễn của luận văn là người viết nghiên cứu đề tài dựa trên các số liệu liên quan đến quá trình điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, người viết còn tự nghiên cứu các hồ sơ vụ án để làm cơ sở đề xuất các giải pháp. Các phiên pháp nghiên cứu được sử dụng là : - Phương pháp thu thập và hồi cố thông tin dữ liệu từ các nguồn khác nhau. - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp tổng hợp, phân tích, lịch sử - Phương pháp so sánh và thống kê. Ngoài ra người viết cũng khảo sát thực tiễn tố tụng và tham khảo ý kiến chuyên gia để làm rõ các vấn đề nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn khi hoàn thành dự kiến sẽ góp phần: - Làm rõ hơn các vấn đề lý luận về bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra trong pháp luật tố tụng hình sự Việt nam hiện hành và qua các thời kỳ. - Đi vào phân tích việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can trong giai đoạn điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt nam hiện hành. - Chỉ ra được các vấn đề, các khó khăn vướng mắc trong việc thực thi pháp luật bảo vệ, bảo đảm quyền của bị can trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. - Chỉ ra những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về quyền và nghĩa vụ của bị can. - Đưa ra được các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt nam. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học cấp độ thạc sĩ về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự. Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của bị can, phân tích thực trạng, chỉ ra 8
  16. khó khăn và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra. Luận văn sẽ đóng góp một phần vào việc giải quyết về mặt khoa học các khái niệm về bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, luận văn là một tài liệu có giá trị tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, cho những người hoạt động tư pháp cũng như thực tiễn điều tra các vụ án hình sự. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra. Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra. 9
  17. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA 1.1. Quan niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước luôn có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Điều 12 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có nhiệm vụ đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình”. Trong những trường hợp luật định, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan nói trên phải yêu cầu đoàn luật sư cử ngươì bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, nó giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là một trong những cơ sở giúp toà án giải quyết vụ án được chính xác. 1.1.1 Quan niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra Đến nay, xung quanh khái niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can”. Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm 10
  18. trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án. Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ. Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”. Quan điểm thứ năm cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”. Theo người viết, tất cả các quan điểm về quyền bào chữa nói trên đều chưa hoàn toàn chính xác. Nếu cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can như quan điểm thứ nhất và thứ hai thì quá hẹp, còn nếu cho rằng quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự… như quan điểm thứ ba, thứ tư và thứ năm thì quá rộng. Quan điểm của BLTTHS Việt Nam hiện nay là quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo chứ không thuộc về đối tượng nào khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo. Đối với việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của bị can, bị cáo không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo trong vụ án thì không thuộc về giới hạn của quyền bào chữa. Tuy nhiên, khi đã bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án thì người bào chữa cũng đồng thời giúp bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền đó của họ. Khác với những người tham gia tố tụng khác, bị can, bị cáo tham gia tố tụng chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội này thường 11
  19. gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Việc phải chịu trách nhiệm hình sự mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không phải mọi trường hợp buộc tội đến với bị can, bị cáo đều chính xác mà vẫn còn có những trường hợp buộc tội oan. Do vậy, quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo là yêu cầu khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn. Người bị tạm giữ không thể coi là đối tượng bị buộc tội mà họ chỉ có thể trở thành đối tượng bị buộc tội nếu có đủ căn cứ để khởi tố họ với tư cách là bị can. Một trong những mục đích của tạm giữ là giúp cơ quan có thẩm quyền bước đầu xác định, làm rõ hành vi của người bị tạm giữ, nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ. Theo quy định của pháp luật thì cũng chưa có văn bản tố tụng nào trực tiếp buộc tội đối với người bị tạm giữ. Người bị kết án cũng không thể coi là đối tượng bị buộc tội được. Không nên đồng nhất hai khái niệm buộc tội và kết án. Buộc tội chỉ có thể tồn tại trước khi bản án của toà án có hiệu lực pháp luật tức là trước khi kết tội. Theo Điều 10 BLTTHS, sau khi bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội rõ ràng đã là người có tội, họ không còn là đối tượng được xem xét là có tội hay không nữa. Như vậy, theo chúng tôi, đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can bị buộc tội trước hết bởi quyết định khởi tố bị can. Điều 103 BLTTHS quy định: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can”. Khi bị can bị toà án quyết định đưa ra xét xử thì họ trở thành bị cáo. Lúc này bị cáo bị buộc tội bởi quyết định truy tố của viện kiểm sát. Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi quyền bào chữa rõ ràng chỉ thuộc về bị can, bị cáo – những người đang bị buộc tội bởi các quyết định pháp lí của cơ quan có thẩm quyền. Những người có thể bị buộc tội hoặc đã bị buộc tội không là chủ thể của quyền bào chữa. Vậy quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ. 12
  20. 1.1.2 Đặc điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra Theo quy định tại khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015, bị can có những quyền sau đây: a) Được biết lý do mình bị khởi tố; b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng." 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2