intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

30
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về khủng bố và các tội danh về khủng bố trong Luật hình sự Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống khủng bố ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------------- NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN CÁC TỘI PHẠM VỀ KHỦNG BỐ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------------- NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN CÁC TỘI PHẠM VỀ KHỦNG BỐ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN NGỌC ANH Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thanh Huyền
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU..............................................................................................1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM KHỦNG BỐ ........................................................................................... 6 6 1.1 Khái niệm về khủng bố và đặc điểm của khủng bố ........................................... 6 6 1.1.1 Khái niệm về khủng bố ...................................................................................... 6 6 1.1.2 Các đặc điểm của khủng bố .............................................................................26 26 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển quy định các tội phạm về khủng bố trong Luật hình sự Việt Nam...........................................................................27 27 1.2.1 Giai đoạn từ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 ............................27 27 1.2.2 Từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 ....................................................................................................29 29 1.2.3 Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay .......................................30 30 1.3 Tham khảo pháp luật quốc tế về tội phạm khủng bố .......................................32 32 CHƢƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI PHẠM KHỦNG BỐ VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY................ 4141 2.1 Các tội khủng bố trong Bộ luật hình sự năm 1999 ..........................................41 41 2.1.1 Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009) ..........................................................................................41 41 2.1.2 Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội khủng bố theo Điều 230a Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ................................46 46 2.1.3 Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội tài trợ cho khủng bố quy định tại Điều 230b Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ..........53 53 2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định về tội phạm khủng bố ...................................58 58
  5. CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI PHẠM KHỦNG BỐ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM KHỦNG BỐ Ở NƢỚC TA TRONG 68 TÌNH HÌNH HIỆN NAY ............................................................................................. 3.1 Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về các tội phạm khủng bố ................................................68 68 3.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) về các tội khủng bố ............68 68 3.1.2 Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) các tội về khủng bố .............73 73 3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về các tội khủng bố trong tình hình hiện nay .............................................................80 80 3.2.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho nhân dân ....................................................................................................80 80 3.2.2 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, Tòa án với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong việc phát hiện, xử lý, cải tạo, giáo dục người phạm tội ..........................................82 82 3.2.3 Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm khủng bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay ..............................................84 84 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 8888 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 9090
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn Tội phạm khủng bố đang ngày càng gia tăng với nhiều diễn biến phức tạp, vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia và thực sự trở thành vấn đề toàn cầu, là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với hòa bình và an ninh của các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đấu tranh phòng, chống khủng bố là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia và vùng lãnh thổ, đòi hỏi sự hợp tác quốc tế cùng ngăn chặn và loại trừ khủng bố dưới mọi hình thức. Trước xu thế chung của thế giới và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Việt Nam đã mở rộng hợp tác với nhiều quốc gia, đảm nhận những trọng trách quan trọng trong các tổ chức quốc tế của khu vực và toàn cầu, tham gia vào nhiều điều ước quốc tế đa phương về bảo vệ nền hòa bình và an ninh thế giới, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và khủng bố nói riêng. Đến nay, trong số 19 điều ước quốc tế của Liên hợp quốc về chống khủng bố, Việt Nam đã gia nhập 13 điều ước và đang tích cực nghiên cứu khả năng gia nhập các điều ước còn lại. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tham gia Hiệp định chống khủng bố ASEAN và Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN; ký kết hàng chục điều ước quốc tế song phương cấp Nhà nước, cấp Chính phủ và cấp Bộ với nhiều nước trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự, về dẫn độ và hợp tác phòng chống các loại tội phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức, trong đó có khủng bố quốc tế. Cùng với việc tích cực gia nhập các điều ước quốc tế về chống khủng bố, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự về phòng, chống khủng bố; trong đó chú trọng đến việc quy định về trách nhiệm hình sự đối với các hành vi khủng bố trong Luật hình sự Việt Nam. Năm 2009, việc sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các hành vi khủng bố của Luật sửa đổi, 1
  7. bổ sung Bộ luật hình sự đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác lập pháp của Nhà nước ta về tội phạm khủng bố. Theo đó, trong Bộ luật hình sự của Việt Nam có 3 điều quy định 3 tội danh về khủng bố, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranhh phòng, chống khủng bố và thuận lợi trong hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm nguy hiểm này. Tuy nhiên, quy định về các tội khủng bố trong Luật hình sự Việt Nam còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ. Việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và pháp luật về khủng bố nói riêng là một trong những biện pháp quan trọng trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo về an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Nhìn nhận dưới góc độ lý luận, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống về các tội phạm khủng bố theo pháp luật hình sự Việt Nam; do đó còn những vấn đề lý luận pháp luật hình sự cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ. Xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách nêu trên, tác giả chọn vấn đề: “Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về hoạt động khủng bố và công tác đấu tranh phòng chống khủng bố trên các sách báo pháp lý hình sự nước ta trong thời gian qua đã có những công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, song đáng chú ý là một số công trình khoa họa như sau: Đề tài khoa học cấp Bộ “Những giải pháp cơ bản phòng, chống khủng bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay” do TS. Bùi Trung Thành, Học viện An ninh nhân dân làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2004; Đề tài khoa học cấp Bộ “Khủng bố và giải pháp phòng chống khủng bố ở nước ta hiện nay” do PGS.TS. Hoàng Kông Tư, Phó tổng cục trưởng Tổng cục I, Bộ Công an làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2007; PGS.TS. Nguyễn 2
  8. Ngọc Anh, Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống khủng bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18 tháng 9/2007; PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh, Tội phạm khủng bố trong pháp luật quốc tế, Tạp chí Công an nhân dân số 8/2008; PGS. TS. Nguyễn Ngọc Anh, Một số ý kiến về xây dựng Luật phòng, chống khủng bố ở Việt Nam, Tạp chí Công an nhân dân, số 10/2009 ..v.v.. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập vấn đề khủng bố dưới nhiều góc độ như tội phạm học, điều tra tội phạm… Đồng thời đã đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả phòng, chống khủng bố nói chung và bước đầu đề cập đến cơ sở pháp lý của phòng, chống khủng bố. Tình hình nghiên cứu nêu trên cho thấy, vấn đề khủng bố, và phòng, chống khủng bố chưa được quan tâm nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về khủng bố và các tội danh về khủng bố trong Luật hình sự Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống khủng bố ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu khái niệm khủng bố, đặc điểm của hoạt động khủng bố; những quy định của pháp luật về các tội khủng bố theo pháp luật hình sự Việt Nam; tham khảo pháp luật quốc tế về khủng bố. - Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng quy định về khủng bố đồng thời đề cập đến thực trạng tội phạm về khủng bố và công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm này. 3
  9. - Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống khủng bố ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các tội phạm khủng bố theo luật hình sự Việt Nam. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (năm 2009) về tội phạm khủng bố. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong các vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội khủng bố theo pháp luật hình sự Việt Nam. Thời gian nghiên cứu của luận văn là từ năm 2000 đến 2014. Trong đó khảo sát thực tiễn về tội phạm khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân theo Điều 84 Bộ luật hình sự từ năm 2000 đến 2014; còn tội khủng bố Điều 230a và tội tài trợ cho khủng bố Điều 230b sẽ khảo sát từ ngày 1/1/2010 đến năm 2014. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và khủng bố nói riêng, cũng như những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của các nhà khoa học. 4
  10. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: so sánh, phân tích, tổng hợp, đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu báo cáo của Bộ Công an tổng kết tình hình và công tác phòng chống khủng bố. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm khủng bố theo Luật hình sự Việt Nam. Nên kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố ở nước ta. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể là: Chương 1. Những vấn đề chung về tội khủng bố. Chương 2. Những quy định của Luật hình sự về tội khủng bố và thực tiễn áp dụng. Chương 3. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm khủng bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay. 5
  11. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM KHỦNG BỐ 1.1. Khái niệm về khủng bố và đặc điểm của khủng bố 1.1.1. Khái niệm về khủng bố Khủng bố là một trong những loại hành vi đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người và đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, trật tự của xã hội. Khủng bố là một hiện tượng xã hội phức tạp, mang tính tiêu cực, đã và đang trở thành một trong những vấn đề được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau để tìm ra các biện pháp đấu tranh có hiệu quả. Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu thì thuật ngữ “khủng bố” được sử dụng đầu tiên vào năm 1795 có liên quan trực tiếp đến thời kỳ khủng bố ở nước Pháp giai đoạn 1793 - 1794. Khi đó, chính quyền cách mạng Pháp đã thiết lập một chế độ độc tài làm nhiều người bị tòa án cách mạng kết án tử hình; đồng thời tiến hành các biện pháp kinh tế hà khắc. Những người Giacôbanh lãnh đạo Chính phủ Pháp lúc bấy giờ, đồng thời cũng là những người cách mạng. Vì vậy, “sự khủng bố” đơn thuần được dùng để chỉ hoạt động bạo lực cách mạng nói chung [23]. Thuật ngữ “kẻ khủng bố” được sử dụng lần đầu tiên theo nghĩa người chống lại chính phủ vào năm 1866 ở Ailen và năm 1883 ở Nga. Khái niệm này được dùng để chỉ những kẻ chống chính quyền với triết lý và lý tưởng vô chính phủ, phủ nhận nhà nước, các đạo luật do nhà nước ban hành và tài sản của công dân [23]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “khủng bố” xuất hiện trong tiếng Việt vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX gắn với chế độ Pháp thuộc và Mỹ - Ngụy. Lúc bấy giờ, thuật ngữ “khủng bố cách mạng” được dùng để chỉ các 6
  12. cuộc đàn áp và càn quét của chính quyền thực dân Pháp, đế quốc Mỹ nhằm mục đích đe dọa nhân dân ta và gây hoảng sợ trong dân chúng. Mặc dù thuật ngữ “khủng bố” xuất hiện từ khá lâu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế nói chung và các quốc gia nói riêng, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố; đồng thời chưa có sự thống nhất quan điểm của các quốc gia về khủng bố. Ngay cả trong các điều ước quốc tế về chống khủng bố, Liên hợp quốc cũng chỉ có thể liệt kê các hành vi bị coi là khủng bố ở mỗi văn bản pháp luật quốc tế cụ thể. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì có như vậy mới thống nhất được nhận thức về khủng bố và qua đó mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này. Chính vì vậy khi nghiên cứu để hình thành khái niệm khủng bố cần tham khảo những quan điểm của các quốc gia, và cộng đồng quốc tế về vấn đề này. 1.1.1.1. Khái niệm khủng bố trong các điều ước quốc tế Khủng bố và đấu tranh chống khủng bố là một trong những vấn đề được các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới quan tâm và được bàn nhiều trong các chương trình nghị sự, cuộc họp mang tính quốc tế. Bên cạnh việc đi tìm những giải pháp đấu tranh chống khủng bố có hiệu quả, trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế đã đưa ra những khái niệm về khủng bố. Hiện nay, trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên (Tổ chức Hàng không dân dụng ICAO, Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO, Tổ chức Năng lượng nguyên tử IAEA…) có hơn mười điều ước quốc tế đa phương về chống khủng bố đã được thông qua. Công ước chung về chống khủng bố quốc tế mặc dù được tiến hành xây dựng từ năm 1996 đến nay vẫn đang nằm dưới dạng dự thảo vì còn nhiều ý kiến bất đồng xung quanh vấn đề định nghĩa khủng bố. Ở cấp độ khu vực cũng có 8 điều ước quốc tế được kí 7
  13. kết. Ngoài ra còn rất nhiều các hiệp định quốc tế song phương và các nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc dù, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố [22]. Theo Công ước 25 nước ký kết ở Geneve (Thụy Sĩ) ngày 16/11/1937, các hành động khủng bố được xác định chung là những việc làm phạm tội ác nhằm chống lại một nhà nước mà mục đích hoặc bản chất là gây ra sự khủng khiếp đối với các nhóm người hay đối với dân chúng [22]. Theo Công ước quốc tế về chống khủng bố do Ấn Độ soạn thảo đưa ra thảo luận tại Đại hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lần thứ 56 xác định khủng bố là các hành vi được thực hiện nhằm mục đích đe dọa một nhóm dân cư, buộc một chính phủ hay tổ chức quốc tế làm hay không làm bất cứ điều gì mà gây ra hậu quả làm chết người hay thương tích nặng cho bất kỳ ai hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến một nhà nước hoặc hoạt động bình thường của một chính phủ, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống liên lạc hay cơ sở hạ tầng [22]. Trong Công ước của Hội nghị các quốc gia Hồi giáo đã đưa ra định nghĩa khủng bố là bất kỳ hành động bạo lực nào, hay sự đe dọa sử dụng bạo lực được tiến hành kế hoạch phạm tội bởi một cá nhân hay một tập thể nhằm khủng bố người dân hay đe dọa làm hại họ, hoặc gây nguy hiểm đến tính mạng, danh dự của người dân, đến tài sản của cá nhân hay tập thể [22]. Nhóm hoạch định chính sách của Liên hợp quốc về khủng bố đã đưa ra khái niệm khá chung về khủng bố. Đó là việc thực hiện hoặc có ý đồ thực hiện hành vi xâm phạm các nguyên tắc pháp luật, trật tự, quyền con người và nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế vốn là nền tảng tạo lập nên thế giới [22]. 8
  14. Hiện nay, Liên hợp quốc đã thông qua 18 điều ước quốc tế về chống khủng bố. Ngoài ra còn rất nhiều điều ước quốc tế khu vực, hiệp định quốc tế song phương và các nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc dù, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này. Trong 18 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu tranh chống khủng bố hiện nay chỉ có 3 công ước trực tiếp nhắc đến khái niệm "khủng bố” ngay tại tiêu đề, đó là: Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom; Công ước New York năm 1999 về trừng trị việc tài trợ khủng bố; Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân. Trong ba công ước quốc tế nêu trên, Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Theo Công ước này thì khủng bố là: i) "Bất kì hành vi nào cấu thành một tội phạm trong phạm vi và được định nghĩa tại một trong số các điều ước về đấu tranh chống khủng bố còn lại (được quy định tại phụ lục)” hoặc ii) "Bất kì hành vi nào khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến thân thể thường dân, hoặc bất kì người nào khác không tham gia vào chiến sự trong bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích của hành vi này về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kì hành vi nào” (Điều 2). Tuy nhiên, khó có thể coi quy định nêu ra tại Điều 2 Công ước New York năm 1999 là định nghĩa khủng bố hoàn chỉnh bởi: thứ nhất, đây là định nghĩa gián 9
  15. tiếp được đưa ra thông qua định nghĩa khác; thứ hai, khoản 1 Điều này không nêu được dấu hiệu cấu thành tội khủng bố mà dẫn chiếu đến một số tội phạm được quy định tại các công ước khác cho nên chỉ thuần tuý mang tính chất liệt kê; thứ ba, khoản 2 có nêu được một số dấu hiệu của tội khủng bố (về hành vi, khách thể, mục đích…) nhưng cũng chỉ đề cập thêm được các hành vi xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người. Trong khi đó, Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom và Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân chỉ đưa ra định nghĩa về từng loại hành vi khủng bố cụ thể, ví dụ khủng bố bằng bom là việc: "Ném, đặt làm nổ hoặc kích nổ một cách bất hợp pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại, vào, hoặc chống lại một địa điểm công cộng, một trang thiết bị của nhà nước hoặc Chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc cơ sở hạ tầng” (Điều 2 Công ước New York năm 1997 về việc trừng trị khủng bố bằng bom); theo Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố hạt nhân thì "một người bị coi là phạm tội khủng bố hạt nhân nếu người đó, một cách có chủ định và bằng con đường bất hợp pháp sở hữu nguyên liệu phóng xạ, chế tạo hay sở hữu thiết bị hạt nhân với mục đích gây thương vong lớn hay nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường; sử dụng nguyên liệu hay thiết bị phóng xạ, sử dụng hoặc phá hoại cơ sở hạt nhân để tạo ra sự rò rỉ phóng xạ gây thương vong lớn, nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường để ép buộc thể nhân hay pháp nhân, tổ chức quốc gia hay quốc gia phải thực hiện hay không thực hiện hành động nào đó” (Điều 2 Công ước). Ngoại trừ 3 Công ước nêu trên, các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Liên hợp quốc đã thông qua không nhắc đến khái niệm khủng bố một cách trực tiếp ở tiêu đề mà chỉ quy định về những tội phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi như biểu hiện của khủng bố quốc tế. Ví dụ tại phần 10
  16. mở đầu, Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin ghi nhận: "Xét rằng việc bắt cóc con tin là một tội phạm gây lo ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc tế...; nhận thấy rõ sự cấp thiết phải phát triển hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong việc đưa ra các sáng kiến và sử dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, truy tố và trừng trị tất cả các hành vi bắt con tin như là những biểu hiện của khủng bố quốc tế”; hay như Công ước Montreal năm 1991 về việc đánh dấu chất nổ dẻo để nhận biết tại phần mở đầu có quy định: "Bày tỏ mối lo ngại sâu sắc đối với các hành vi khủng bố nhằm phá hoại tàu bay, các phương tiện giao thông và các mục tiêu khác; lo ngại rằng các vật nổ dẻo vẫn được sử dụng cho các hành vi khủng bố như vậy; xét rằng việc đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết sẽ góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp đó”... Không chỉ các công ước quốc tế mà các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp phòng, chống khủng bố cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể nào về khủng bố. Ngay cả Nghị quyết số 1373 ngày 28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban chống khủng bố thuộc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mặc dù kêu gọi "các quốc gia hợp tác khẩn thiết nhằm phòng và trấn áp các hành động khủng bố, thông qua sự tăng cường hợp tác và thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến chủ nghĩa khủng bố” cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về khủng bố. Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực cũng không đưa ra được định nghĩa khủng bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống khủng bố lại dẫn ra những hành vi được quy định tại các công ước quốc tế đa phương của Liên hợp quốc. Ví dụ, Công ước của châu Âu về chống khủng bố năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước, yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội phạm hoá, đó là các hành vi được nêu trong Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ 11
  17. bất hợp pháp tàu bay; Công ước Montreal năm 1971 về việc trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng; Công ước New York năm 1973 về việc ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao. Thời gian kí kết Công ước châu Âu năm 1977 thì Công ước về chống bắt cóc con tin năm 1979 hay Công ước trừng trị khủng bố bằng bom năm 1997... chưa ra đời, tuy nhiên các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến bắt cóc, giam giữ trái phép, tội phạm nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng bom, lựu đạn, rocket, súng tự động, bom thư... đã được liệt kê trong Công ước. Tiếp đó, vào tháng 11/2007 tại Cebu, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Công ước chung về chống khủng bố (ASEAN Convention on Counter Terrorism). Điều 2 Công ước này quy định về "Những hành vi phạm tội khủng bố” đã ghi nhận các hành vi theo 13 công ước đa phương về đấu tranh chống khủng bố trong khuôn khổ Liên hợp quốc: "Đối với các mục đích của Công ước này, tội phạm có nghĩa là bất kì hành vi phạm tội trong phạm vi được liệt kê như sau: - Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay; - Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng; - Công ước New York năm 1973 về ngăn chặn và trừng trị các tội phạm chống lại những người được bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao; - Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin; - Công ước Viên năm 1979 về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân; - Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế; - Công ước Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải; 12
  18. - Nghị định thư Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình cố định trên thềm lục địa; - Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom; - Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ cho khủng bố; - Công ước Viên năm 2005 (sửa đổi Công ước Viên năm 1980) về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân; - Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố bằng hạt nhân; - Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành vi phi pháp chống lại an toàn hàng hải; - Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình trên thềm lục địa ký tại London ngày 14/10/2005 [21]. Mặc dù một số văn bản quốc tế nêu trên không định nghĩa khủng bố một cách trực tiếp nhưng nhìn nhận một cách khách quan, chúng ta vẫn có thể xác định được nội hàm của khái niệm khủng bố trong nhiều văn bản quốc tế khác nhau. Theo Quyết định của Hội đồng chung của EU ngày 13/6/2002 về việc chống chủ nghĩa khủng bố định nghĩa các tội khủng bố “với bản chất hoặc tuỳ bối cảnh, có thể gây nguy hại nghiêm trọng đối với một quốc gia hoặc một tổ chức quốc tế và tội đã phạm có mục đích: đe doạ nghiêm trọng người dân hoặc ép buộc chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế thực hiện hoặc rút bỏ việc thực hiện một hành động hoặc làm mất ổn định nghiêm trọng hoặc huỷ hoại cơ cấu xã hội, kinh tế, thể chế và chính trị căn bản của một quốc gia hoặc một tổ chức quốc tế”. 13
  19. Theo Công ước của Hội nghị các quốc gia Hồi giáo (Công ước OIC) thì “Khủng bố là bất kỳ hành động bạo lực nào, hay sự đe doạ sử dụng bạo lực được tiến hành kế hoạch phạm tội bởi một cá nhân hay một tập thể nhằm khủng bố người dân hay đe doạ làm hại họ, hoặc gây nguy hiểm đến tính mạng, danh dự của người dân, đến tài sản của cá nhân hay tập thể”. Theo Công ước về đấu tranh chống khủng bố của tổ chức các quốc gia châu Mỹ thì khủng bố có thể là các dạng tội phạm điển hình như giết người, đốt cháy hoặc thiêu huỷ và sử dụng chất nổ hoặc thuốc nổ, nhưng khác với các hành vi hình sự là khủng bố cố ý mang đến sự hoảng sợ, phá hoại và những tên khủng bố thường nằm trong một tổ chức với mục đích phá kỉ cương xã hội, làm tê liệt sức phản kháng của xã hội, làm tăng thêm sự đau đớn cho xã hội [16]. Các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc nhận định: Hoạt động khủng bố là hoạt động huỷ hoại nhân quyền, quyền dân chủ và tự do cá nhân, uy hiếp sự an toàn và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, tạo sức ép lên quốc gia, phá vỡ văn minh xã hội, là hành vi phạm tội với việc gây hậu quả bất lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuyên ngôn về vấn đề chủ nghĩa khủng bố của Liên hợp quốc nêu rõ: "Tất cả các hình thức của chủ nghĩa khủng bố, dù xảy ra ở nơi nào, ai là kẻ chủ mưu, và hành vi phạm tội ra sao, cũng không thể thanh minh, cho nên thông qua các điều của Hiệp ước quốc tế, cần tăng thêm mức độ xử phạt". Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, cộng đồng quốc tế vẫn chưa đưa ra được định nghĩa chung hoàn chỉnh về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số hành vi nhất định là khủng bố và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống lại các hành vi này. Song, những hành vi được ghi nhận này đã ít nhiều phản ánh được bản chất của hiện tượng khủng bố. Chúng ta có thể nhận biết hành 14
  20. động khủng bố dựa trên một số dấu hiệu như: dấu hiệu về động cơ chính trị của hành vi bạo lực; dấu hiệu về mục đích của hành vi bạo lực, các yếu tố chủ thể, khách thể của hoạt động khủng bố… 1.1.1.2. Khái niệm khủng bố trong pháp luật một số quốc gia Khủng bố từ lâu đã trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đến nền hòa bình, an ninh thế giới. Trong các đạo luật của mình, các quốc gia đã thể hiện rõ nét việc hình sự hóa hành vi khủng bố thông qua các điều khoản cụ thể. Để ngăn chặn hoạt động khủng bố, trừng trị hành vi xâm hại tới hoà bình, an ninh, các quốc gia đã có nhiều nỗ lực trong việc đưa ra khái niệm khủng bố. Có thể kể đến một số khái niệm pháp lý về khủng bố của một số quốc gia như: a) Liên bang Nga Khái niệm về khủng bố theo Luật của Liên bang Nga về chống khủng bố (ngày 25 tháng 7 năm 1998 số 130 - FZ) được hiểu như sau: “Chủ nghĩa khủng bố là việc sử dụng bạo lực hoặc đe dọa sử dụng bạo lực đối với cá nhân hoặc tổ chức, cũng như hủy hoại (làm tổn hại) hoặc đe dọa hủy hoại (làm tổn hại) tài sản và các mục tiêu vật chất khác, tạo ra mối nguy hiểm chết người, gây thiệt hại tài sản đáng kể hoặc gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác đối với xã hội, được thực hiện nhằm gây rối loại an toàn xã hội, làm cho dân chúng khiếp sợ, hoặc tác động đối với việc thông qua các quyết định của các cơ quan chính quyền có lợi cho bọn khủng bố, hoặc đáp ứng những lợi ích tài sản phi pháp hoặc những lợi ích khác; xâm hại đến cuộc sống của nhà hoạt động quốc gia hoặc xã hội, được tiến hành nhằm mục đích chấm dứt hoạt động quốc gia hoặc hoạt động chính trị của người đó hoặc trả thù do hoạt động đó; tấn công vào đại diện nước ngoài hoặc cán bộ của tổ chức quốc tế được bảo vệ quốc tế, cũng như tấn công vào cá trụ sở làm việc hoặc phương tiện giao thông của những người được bảo vệ quốc tế, nếu như hành vi đó được tiến hành nhằm khiêu khích chiến tranh hoặc làm phức tạp quan hệ quốc 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2