intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

42
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của nhóm các tội phạm xâm phạm TTCC như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, định tội danh và hình phạt để đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRIỆU VĂN NAM CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG) LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRIỆU VĂN NAM CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT Hà Nội - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Triệu Văn Nam
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................6 1.1. TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ QUAN TRỌNG ĐƯỢC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM BẢO VỆ ..................................6 1.1.1. Khái niệm trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng...........6 1.1.2. Phân nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng ............................10 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ..........................11 1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985..................................................12 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 .....................................14 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay ............................................................................................................................16 1.3. CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .................................................25 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga ................................................................25 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức................................................28 1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ......................................29 Chương 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ...................33 THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ......................33 2.1. CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 ........................................33 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt..............................................33 2.1.2. Các tội phạm cụ thể..................................................................................38
  5. 2.2. THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ................................................................60 2.2.1. Tình hình chung........................................................................................60 2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế .............................................................................69 2.2.3. Các nguyên nhân cơ bản ..........................................................................75 Chương 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ...................................................................................................77 3.1. SỰ CẦN THIẾT, Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ...............77 3.1.1. Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng ......................................................77 3.1.2. Ý nghĩa của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng ......79 3.1.3. Nội dung tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng ...................................................................80 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ..............................................................................................92 3.2.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật hình sự trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi xâm phạm trật tự công cộng ................................................................................................93 3.2.2. Tuyên truyền, phổ biên, giáo dục pháp luật trong nhân dân ...................94 3.2.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh các tội xâm phạm trật tự công cộng ...........................................................................................................97 3.2.4. Giải pháp mang tính nghiệp vụ, chuyên ngành, quản lý hành chính về trật tự xã hội .......................................................................................................98 3.2.5. Giải pháp tăng cường đời sống, cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho cán bộ, chiến sĩ, người thi hành công vụ và trách nhiệm của đội ngũ làm công tác thi hành công vụ, bảo vệ an toàn, trật tự xã hội.........................101 KẾT LUẬN .....................................................................................................104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................106
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT - BLHS : Bộ luật hình sự - TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao - TNHS : Trách nhiệm hình sự - TTCC : Trật tự công cộng
  7. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu bảng, Tên bảng, biểu đồ Trang biểu đồ Bảng 2.1. Tỉ lệ các tội phạm và bị cáo trong nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng đã xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015 66 Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ các tội xâm phạm trật tự công cộng đã xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015 66 Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ bị cáo trong nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 – 2015 67
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của cả nước đã có những khởi sắc đáng mừng, từ đó có những tác động tích cực đến đời sống của toàn bộ nhân dân cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực đã đạt được, chúng ta không thể không thấy những khó khăn và thách thức to lớn đặt ra với toàn Đảng và toàn dân. Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (TTCC) xảy ra trên các thành phố, khu đô thị, thị xã lớn đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này không có tính nguy hiểm cao so với các loại tội phạm khác nhưng lại có tính phổ biến, đa dạng hình thức và có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm nghiêm trọng các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước. Qua các số liệu thống kê chính thức được thu thập từ các cơ quan bảo vệ pháp luật trong cả nước cho thấy, diễn biến của loại hành vi và tội phạm này ngày càng phức tạp. Vì vậy, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm TTCC, phân tích lịch sử hình sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về nhóm tội xâm phạm TTCC từ năm 1945 đến nay, đánh giá thực tiễn xét xử loại tội phạm này ở tỉnh Hà Giang trong thời gian vừa qua (2010 - 2015), trên cơ sở đó, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn, lý luận và các nguyên nhân cơ bản, qua đó bước đầu tìm giải pháp hoàn thiện trên phương diện lập pháp hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn (góc độ tội phạm học) để góp phần phòng, chống tội phạm này, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội có 1
  9. ý nghĩa chính trị - pháp lý và lý luận - thực tiễn quan trọng. Đây cũng là lý do để chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới khoa học của luận văn. Chương XIX Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau này là Chương XXI BLHS năm 2015) quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC. Các nội dung chính cũng như các điều luật trong chương này, trong đó có sự phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của nhóm tội phạm xâm phạm TTCC đã được một số nhà khoa học - luật gia hình sự quan tâm nghiên cứu, đồng thời thể hiện ở một số sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận, giáo trình đại học và luận văn thạc sĩ, chẳng hạn như: * Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo: [1] GS. TS Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003; [2] GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2001; [3] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Tập II), do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 2010; [4] TS. Trương Quang Vinh, Bình luận các điều 241 đến 256, trong sách: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999” (tài bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2008; [5] GS.TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội 2010; [6] TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, 2
  10. trật tư công cộng. Trong sách: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010; [7] PGS.TS. Trần Hải Âu, Vũ Thế Công (chủ biên), Lý luận chung về trật tự công cộng và bảo đảm trật tự công công và các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự công cộng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,. 2011; [8] GS.TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội 2002; [9] TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. [10] ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; v.v… * Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học Luận văn thạc sĩ luật học về đề tài này chưa có, chỉ có một số tội phạm riêng lẻ trong nhóm các tội xâm phạm TTCC đã được đề cập, chẳng hạn: [1] Nguyễn Thanh Hải, Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; [2] Nguyễn Ngọc Anh, Tội đua xe trái phép trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; [3] Nguyễn Văn Giang, Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; [4] Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Tội làm môi giới hối lộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; [5] Nguyễn Thu Huyền, Tội chứa mại dâm trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; v.v… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu trên chỉ xem xét các tội xâm phạm TTCC với ý nghĩa là những tội phạm/tội danh cụ thể để bình luận 3
  11. các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, cũng như phân tích việc định tội danh, quyết định hình phạt trong tương quan giữa các tội phạm này với một số tội phạm khác có cấu thành tội phạm có tính tương tự hoặc chỉ xem xét dưới góc độ phòng ngừa dưới góc độ tội phạm học cả nhóm tội phạm an toàn công cộng, TTCC trong BLHS năm 1999, mà chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý hình sự về các tội xâm phạm TTCC và trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Hà Giang. Do đó, điểm mới về mặt khoa học của đề tài lần đầu tiên trong khoa học luật hình sự đề cập đến riêng nhóm tội phạm này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học. 3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của nhóm các tội phạm xâm phạm TTCC như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, định tội danh và hình phạt để đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài - Các tội phạm xâm phạm TTCC trong luật hình sự Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí trong và ngoài nước. 4
  12. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự như: Phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả đã làm rõ các vấn đề chung các tội xâm phạm TTCC trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định trong luật hình sự nước ta về nhóm tội phạm này từ năm 1945 đến nay, phân biệt các tội phạm trong cùng nhóm; làm sáng tỏ các quy định của BLHS năm 1999 về các tội xâm phạm TTCC và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015, qua đó chỉ ra nguyên nhân của thực trạng này và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS nước ta về các tội phạm xâm phạm TTCC ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam liên quan đến tội xâm phạm TTCC, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này, cũng như giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội hiện nay ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương; Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các tội xâm phạm trật tự công cộng theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng. 5
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ QUAN TRỌNG ĐƯỢC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM BẢO VỆ 1.1.1. Khái niệm trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng * Khái niệm trật tự công cộng Đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải kể đến luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là các tội phạm và danh mục hình phạt các biện pháp pháp lý hình sự cần áp dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Điều 8 BLHS năm 1999 đã xác định các khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội… Trong các khách thể đó trật tự, an toàn xã hội là một khách thể quan trọng, có ý nghĩa nền tảng, gắn chặt với sự phát triển ổn định chung của xã hội, là thước đo, tiêu chí để đánh giá sức mạnh của cơ quan bảo vệ pháp luật, văn minh pháp lý của công dân [77, tr.320]. Xét riêng trong lĩnh vực chung của xã hội, an toàn công cộng, TTCC được coi là điều kiện bảo đảm cho mọi công dân có cơ hội tồn tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Cho nên dưới bất kỳ hình thức nào, bằng cách này hay cách khác, việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, TTCC không những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, mà đến lượt mình, Nhà nước lại đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công dân phải tuân thủ một cách nghiêm túc pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội xã hội chủ nghĩa [77, tr. 321]. Cho nên, dưới góc độ pháp lý, tất cả các hành vi xâm phạm “an toàn công 6
  14. cộng, trật tự công cộng” đều gây nên những thiệt hại nhất định cho cuộc sống bình thường của công dân cần thiết phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự. Khách thể trật tự, an toàn xã hội được quy định thành một chương riêng. Chương XIX - Các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, TTCC, có số lượng các điều luật tương đối lớn (gồm 59 điều, từ điều 202 đến điều 256). Như vậy với tư cách là khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ, đòi hỏi chúng ta phải làm rõ phạm trù “trật tự công cộng”. Theo cuốn “Từ điển từ và ngữ Hán - Việt” của Giáo sư Nguyễn Lân, Nxb. Văn học, Hà Nội 2003: “Trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau...” [32, tr. 16, 704]. Mặt khác, theo “Từ điển Bách khoa toàn thư”: TTCC là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi… [82]. Còn dưới góc độ pháp lý, Từ điển Luật học có giải thích cụ thể “trật tự công cộng” là: Trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng. Những nơi phục vụ lợi ích công cộng như đường phố, quảng trường, công viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu nghỉ mát… được tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ước chung được mọi người tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh. Quy tắc bắt buộc phải tuân theo để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện toàn bộ yêu cầu cơ bản của xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… [68, tr. 68, 809]. Ngoài ra, trong một nghiên cứu chuyên sâu, PGS.TS. Trần Hải Âu, Vũ Thế Công và tập thể tác giả quan niệm như sau: TTCC là tình trạng xã hội có ổn định, hoạt động của con 7
  15. người tuần tự, được tổ chức theo một quy tắc nhất định và tuân thủ các quy tắc đó tại không gian công cộng để bảo đảm lợi ích chung cho tất cả mọi người trong khi cùng tham gia hoạt động [1, tr.7-8]; v.v… Tóm lại, từ các phân tích trên, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu có thể được định nghĩa như sau: TTCC là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. * Khái niệm các tội xâm phạm trật tự công cộng Xét riêng dưới góc độ khoa học, quan điểm về khái niệm “các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC ” mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song tựu trung lại tổng hợp các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra bản chất pháp lý của nhóm tội phạm này và gộp chung các tội xâm phạm an toàn công cộng với TTCC chứ không có định nghĩa riêng về các tội xâm phạm TTCC, do đó, chúng tôi phân tích chung cả “an toàn công cộng, TTCC ” để từ đó rút ra khái niệm đang nghiên cứu. Trước hết, có tác giả quan niệm: Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm hai nhóm quan hệ xã hội cùng loại liên hệ chặt chẽ với nhau và có những đặc điểm chung: các quan hệ xã hội trong lĩnh vực an toàn công cộng và TTCC [4, tr. 5, 439]. Ngoài ra, theo GS.TS. Đỗ Ngọc Quang: Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn, TTCC trong các lĩnh vực giao thông vận tải, phòng cháy chữa cháy, tin học, lao động sản xuất, quản lý vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, và trong những lĩnh vực khách của trật tự xã hội gây nên những thiệt hại về tính mạng, tổn hại đến sức khỏe, tài sản của Nhà nước và của công dân [39, tr. 37, 494]. Với các quan điểm này có nhân tố hợp lý là đã phân loại đầy đủ và chi tiết từng nhóm tội xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau liên quan đến an toàn 8
  16. công cộng, TTCC, nêu được mối liên hệ giữa hai nhóm có quan hệ chặt chẽ với nhau là TTCC và an toàn công cộng tuy nhiên lại chưa thấy nêu dấu hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này trong khái niệm đã nêu. Tuy nhiên, theo GS.TS. Võ Khánh Vinh trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung đã chỉ ra: Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến an toàn công cộng, TTCC gây ra những thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nhân dân, gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và của cá nhân [75, tr.74, 401]. Cũng trên cơ sở khái niệm về tội phạm nói chung, trong cuốn “Tìm hiểu BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành" của GS.TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên) và tập thể tác giả đã khẳng định: Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, TTCC , gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến hoạt động bình thường ở những nơi công cộng [29, tr.439]. Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, trong đó nhấn mạnh thêm việc các hành vi xâm phạm đến cả “hoạt động bình thường ở những nơi công cộng, nhưng trong dấu hiệu chủ hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này còn chưa nêu” dấu hiệu “đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ”, vì đây là một dấu hiệu hoàn toàn khác với dấu hiệu “có năng lực trách nhiệm hình sự ”; v.v... Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Các tội xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về TTCC, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, 9
  17. thiệt hại về tính mạng sức khỏe, tài sản của công dân đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng. Như vậy, từ khái niệm này chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản các tội xâm phạm TTCC: Một là, các tội xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về TTCC, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng. Hai là, các tội xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do những người có đủ năng lực, TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện. Ba là, các tội xâm phạm TTCC do những người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, không có mục đích chống chính quyền nhân dân. 1.1.2. Phân nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng Việc phân nhóm tội phạm trong BLHS trên cơ sở khoa học - thực tiễn sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc áp dụng đúng đắn và chính xác các quy định của pháp luật trong công tác truy cứu TNHS người phạm tội, xác định rõ thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử, cũng như phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Phân nhóm các tội phạm cụ thể - các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC có ý nghĩa quan trọng ở chỗ - làm rõ khách thể của tội phạm xâm hại đến quan hệ xã hội của hành vi phạm tội, hình thức lỗi của từng loại tội phạm, cũng như các chế tài pháp lý được áp dụng. Qua nghiên cứu cho thấy, về cơ bản các nhà khoa học - luật gia đều căn cứ vào sự phân loại các nhóm tội phạm theo BLHS năm 1999 (từng nhóm quan hệ xã hội mà một nhóm tội phạm xâm phạm đến) để thống nhất như sau: Các tội xâm phạm TTCC bao gồm 12 tội danh (từ Điều 245 đến Điều 256) quy định trong BLHS năm 1999. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, căn cứ vào khách thể trực tiếp bị tội phạm xâm phạm đến (TTCC, có thể cả tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân hay tài sản của tổ chức, của 10
  18. Nhà nước, sự ổn định, bình yên của đời sống xã hội...) chúng tôi nhất trí với quan điểm cần phân nhóm các tội xâm phạm TTCC thành hai nhóm tội chính như sau: * Nhóm các tội xâm phạm TTCC liên quan đến tệ nạn xã hội bao gồm 6 tội danh trong BLHS năm 1999, cụ thể là: - Tội hành nghề mê tín, dị đoan (Điều 247); - Tội đánh bạc (Điều 248); - Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 249); - Tội chứa mại dâm (Điều 254); - Tội môi giới mại dâm (Điều 255); - Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256). * Nhóm các tội khác xâm phạm trật tự xã hội bao gồm 6 tội danh trong BLHS năm 1999, cụ thể là: - Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 245); - Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt (Điều 246); - Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 250); - Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có - nay tội phạm này đổi tên thành tội rửa tiền (Điều 251); - Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chưa chấp người chưa thành niên phạm pháp (Điều 252); - Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (Điều 253). Như vậy để làm rõ nhóm tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, chúng ta đi sâu phân tích làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và phân biệt các tội danh trong cùng nhóm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, qua đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này trong xã hội, cũng như góp phần định tội danh chính xác và đúng đắn hành vi phạm tội trên thực tế của các cơ quan bảo vệ pháp luật. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG Sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật hình sự của nước ta gắn liền với các giai đoạn của cách mạng dân tộc trong kháng chiến chống 11
  19. Pháp, chống Mỹ đến khi đất nước thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bước vào thời kỳ đổi mới. 1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Cách mạng Tháng 8/1945 thắng lợi, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đây là thời kỳ chính quyền cách mạng còn non trẻ, phải đương đầu với muôn vàn thử thách khó khăn: Vừa phải khôi phục và xây dựng lại nền kinh tế - xã hội bị chiến tranh tàn phá, vừa phải xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, phải đối phó với các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài... Vì vậy, chính quyền mới chưa thể xây dựng được hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề lập pháp và thực thi pháp luật luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 47/SL quy định tạm thời sử dụng luật lệ cũ hiện hành lúc đó tại Việt Nam. Theo nội dung Sắc lệnh: “Tòa án xét xử theo luật hình sự cũ mà thực dân phong kiến đã đề ra với điều kiện không trái nguyên tắc độc lập của Nhà nước và chính thể dân chủ cộng hòa” [16]. Tuy vậy, do hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, chính quyền cách mạng tập trung chủ yếu vào việc xét xử những tội phạm phản cách mạng, chống phá chính quyền tại các Tòa án quân sự và một số tội đặc biệt nguy hiểm khác như: tội đầu cơ, tội tích trữ... nhằm củng cố và bảo vệ Nhà nước trong những ngày mới thành lập. Như vậy, thời kỳ sau những năm 1950, Nhà nước ta chưa ban hành văn bản pháp luật quy định các tội xâm phạm đến trật tự, an toàn cộng cộng nói chung. Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trên cơ sở những kinh nghiệm của thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành các báo cáo tổng kết, các chỉ thị hướng dẫn về đường lối xử lý một số tội phạm nguy hiểm và phổ biến, Tuy vậy, các tội phạm liên quan đến trật tự, an toàn công cộng nói chung chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Đến Hiến pháp năm 1959, đã quy định tại Điều 39: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao 12
  20. động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội” [45, Điều 39]. Đây có thể coi là sự quy định mang tính định hướng đầu tiên của nước ta về vấn đề TTCC nhưng mới chỉ dừng lại ở việc quy định về việc công dân phải tuân theo những quy tắc sinh hoạt xã hội mà chưa có các quy định cụ thể về việc quy tắc đó là gì và nếu vi phạm thì xử lý như thế nào. Sau khi được giải phóng, ngày 15/03/1976, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định “Các tội phạm và hình phạt” trong đó đã quy định tại Điều 9 - tội xâm phạm đến TTCC, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Như vậy, trong một văn bản pháp luật đã đề cập cụ thể đến một khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ - TTCC. Tiếp ngay sau đó, Thông tư số 03-BTP tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/76 cụ thể hơn các hành vi xâm phạm đến TTCC, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân [55, tr. 59]: - Tụ tập đông người nhằm gây náo động trong dân chúng và gây rối trật tự ngoài đường phố hoặc ở các nơi công cộng chống lại nhân viên nhà nước khi làm nhiệm vụ; - Vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng; - Tổ chức du đãng có hành động càn quấy, đe dọa tính mạng người khác và an toàn xã hội; - Cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và các chất độc khác trái phép; Ngoài ra, những hành vi sau đây cũng bị coi là tội xâm phạm đến TTCC, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân và bị sử phạt theo điều 9 Sắc luật. - Giả danh cán bộ, bộ đội, nhân viên an ninh; - Cố ý vi phạm quy tắc quản lý vũ khí, chất nổ; - Trốn trại giam hoặc tổ chức cho kẻ khác trốn trại giam, không vì mục đích phản cách mạng; - Phản tuyên truyền, chống lại việc thực hiện các chính sách và pháp luật nhà nước, không vì mục đích phản cách mạng; - Cố ý truyền bá, lưu hành các tác phẩm văn hóa đồi trụy, không vì mục 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2