intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

36
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài phân tích cải cách TTHC đối với hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay của ngành Hải quan hiện nay, chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH PHƢƠNG THẢO CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH PHƢƠNG THẢO CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hiền HÀ NỘI - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC 6 HÀNH CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN 1.1. Hải quan và cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 6 1.1.1. Tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan nhìn từ góc độ lí 6 luận nhà nước và pháp luật 1.1.2. Khái niệm thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 13 1.1.3. Đặc điểm của thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 24 1.2. Định hướng cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 26 1.2.1. Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, công 26 khai, minh bạch và dễ tiếp cận 1.2.2. Bảo đảm tính ổn định của quy trình thủ tục hành chính 27 1.2.3. Cải cách thủ tục chính áp dụng phương pháp quản lý hiện đại 28 1.3 Phân loại thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 31 1.4. Ý nghĩa của cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 33 Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 37 TRONG NGÀNH HẢI QUAN HIỆN NAY 2.1. Quan điểm của nhà nước về cải cách thủ tục hành chính trong 37 ngành Hải quan
  4. 2.2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 39 2.2.1. Thực trạng pháp luật về thủ tục hải quan với xu hướng cải cách 39 2.2.2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính đối với hoạt động xuất 45 nhập khẩu 2.2.3. Thực trạng thực hiện thủ tục hải quan điện tử 52 2.2.4. Xây dựng cơ chế một cửa quốc gia 69 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH 85 CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN 3.1. Định hướng cải cách thủ tục hải quan từ nay đến năm 2020 85 3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục hải quan 91 3.3. Giải pháp thực hiện thủ tục hải quan điện tử 95 3.3.1. Xây dựng cơ sở pháp lý cho thủ tục hải quan điện tử trên cơ 95 sở nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế 3.3.2. Nội luật hóa các chuẩn mực liên quan đến thủ tục hải quan 99 điện tử theo thứ tự ưu tiên 3.3.3. Xây dựng nguồn nhân lực trong môi trường thủ tục hải quan 103 điện tử 3.4. Giải pháp triển khai cơ chế một cửa quốc gia gắn với cải cách 106 thủ tục hành chính 3.4.1. Tiêu chuẩn hóa và hài hòa hóa quy trình thủ tục 106 3.4.2. Tiêu chuẩn hóa và hài hóa yêu cầu thông tin, chứng từ 108 3.4.3. Đẩy mạnh sự phối kết hợp với cơ quan nhà nước có liên quan 111 3.5. Phát triển công nghệ thông tin 113 KẾT LUẬN 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNTT : Công nghệ thông tin GDĐT : Giao dịch điện tử QLRR : Quản lý rủi ro TTHC : Thủ tục hành chính TTHQ : Thủ tục hải quan TTHQĐT : Thủ tục hải quan điện tử
  6. Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang b¶ng 2.1 Phân biệt cơ chế một cửa hành chính và cơ chế một cửa 84 quốc gia Danh môc c¸c H×NH Sè hiÖu Tªn h×nh Trang h×nh 2.1 Sơ đồ quy trình TTHQĐT 59 2.2 Sơ đồ quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu 71 2.3 Mô tả quy trình cấp phép 74 2.4 Quy trình thông quan hàng hóa 75
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khoảng thời gian từ hơn một chục năm trở lại đây, đất nước ngày càng đổi mới theo chủ trương của Đảng đề ra, đặc biệt kể từ khi chúng ta bắt đầu thực hiện chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước và bước đầu cải cách thủ tục hành chính (TTHC), ý nghĩa của TTHC đã được đánh giá đúng mức hơn. Vai trò của TTHC với tư cách là một bộ phận của cơ chế hành chính ngày càng có vai trò to lớn. TTHC là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết công việc của người dân và các tổ chức theo pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và các cơ quan có công việc cần giải quyết. Với tư cách là một bộ phận của TTHC, trong những năm qua ngành Hải quan luôn ý thức được tầm quan trọng của cải cách thủ tục hải quan (TTHQ) và xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành. Bên cạnh đó, để hoàn thành trọng trách là người gác cửa nền kinh tế đất nước, xuất phát từ nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam, cơ quan hải quan phải xây dựng các quy trình thủ tục xuất nhập khẩu đảm bảo vừa kiểm soát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vừa tạo thuận lợi cho thương mại hợp pháp, thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, phương tiện vận tải tăng trưởng nhanh về số lượng theo từng năm. Về hình thức, "kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh cũng ngày càng đa dạng, đặc biệt là sự ra đời và phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử đã làm tăng tốc độ luân chuyển của hàng hóa" [13, tr. 5]. Bên cạnh đó dưới tác động của tự do hóa, toàn cầu hóa thương mại quốc tế, các quốc gia khi tham gia các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đều phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương mại, dịch vụ hợp pháp hoạt
  8. động và phát triển. Các tổ chức quốc tế hiện nay rất chú trọng tới đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu tối đa chi phí trong quá trình làm thủ tục, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, cơ quan hải quan ngày càng phải đối mặt với nhiều thách thức như môi trường làm việc phức tạp, biến đổi liên tục, khối lượng hàng hóa tăng nhanh, phương thức vận chuyển hàng hóa đa dạng, hiện đại (vận chuyển đa phương thức..), áp lực tạo thuận lợi thương mại cao (xử lý hàng hóa trong thời gian ngắn và hạn chế can thiệp trực tiếp vào hàng hóa…); phạm vi hoạt động của hải quan mở rộng và chuyên sâu (bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ngăn chặn việc xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh bất hợp pháp các loại rác thải độc hại…), các hoạt động vi phạm pháp luật hải quan tinh vi và phức tạp; nguồn lực hạn chế… Để giải quyết tổng thể những thách thức này thì việc cải cách TTHC trong ngành Hải quan là một trong những giải pháp hiệu quả. Tuy nhiên, để thực hiện giải pháp này, cơ quan Hải quan đồng thời phải thực hiện các yêu cầu tổng thể về hiện đại hóa: sửa đổi hệ thống pháp luật, tái cơ cấu tổ chức và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, phát triển và ứng dụng đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) trong các khâu nghiệp vụ quản lý và tích hợp các hệ thống, TTHQ với dây chuyền cung ứng. Dưới sự tác động này, các chương trình, dự án về cải cách TTHC trong ngành Hải quan đã được chú trọng thực hiện trong nhiều năm qua và đã thu được nhiều kết quả tích cực. Do đó, việc nghiên cứu Đề tài "Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay" giữa bối cảnh hiện nay, hết sức có ý nghĩa về cả lý luận, thực tiễn và tính thời sự, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quàn lý nhà nước về hải quan, đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa hải quan theo định hướng chung của Đảng và của Nhà nước. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hiện nay, việc cải cách TTHC được triển khai ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt trong lĩnh vực hải quan bởi đây là một lĩnh vực liên quan trực
  9. tiếp đến tạo thuận lợi thương mại, thu hút đầu tư và làm tăng khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Các nghiên cứu của thế giới liên quan đến cải cách thủ tục hải quan hiện nay có thể kể tới các tài liệu như: Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu hướng dẫn cho đối tượng thực thi (9/2008) của Ngân hàng thế giới, Sổ tay hiện đại hóa hải quan (2007); Kinh nghiệm cải cách thủ tục hải quan của các nước ASEAN (2009)... 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Các nghiên cứu trong nước đối với cải cách thủ tục hành chính nói chung và đối với thủ tục hải quan nói riêng trong thời gian qua khá nhiều. Bởi đây là một vấn đề mang tính thời sự, là đòi hỏi đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, được Đảng và Nhà nước coi là một trong những khâu đột phá của cải cách nền hành chính quốc gia. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài "Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan hiện nay" bao gồm: Hoàn thiện thủ tục hải quan trong giai đoạn hiện nay (2006); Báo cáo chẩn đoán của chuyên gia Dự án hiện đại hải quan (2005), Báo cáo đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Việt Nam: Tối đa hiệu quả từ cải cách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập WTO (2007) của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ; Thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu hàng hóa theo Luật Hải quan, những điểm tích cực và hạn chế (2007)... 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài TTHC trong ngành Hải quan rất đa dạng và được chia thành nhiều loại, trong đó TTHC trong hoạt động xuất nhập khẩu (thủ tục hải quan) được thực hiện một cách thường xuyên và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quàn lý nhà nước về hải quan. Đây được coi là thủ tục xương sống của ngành Hải quan hiện nay. Trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu những cải
  10. cách TTHQ hiện nay nhằm tìm ra những mặt tích cực, hạn chế và đề xuất các giải pháp tương ứng. 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Về mục đích, đề tài phân tích cải cách TTHC đối với hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay của ngành Hải quan hiện nay, chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục. Để đạt được mục đích, đề tài giải quyết những nhiệm vụ sau: - Phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về cải cách TTHC trong ngành Hải quan: Tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật; Khái niệm TTHC trong ngành Hải quan; các nguyên tắc thực hiện TTHC trong ngành Hải quan... - Phân tích và đánh giá thực trạng cải cách TTHC hiện nay: Phân tích quy trình TTHQ hiện tại; Xây dựng TTHQĐT và cơ chế một cửa quốc gia - nội dung của cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan. - Đề xuất một số giải pháp cải cách TTHC trong ngành Hải quan trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Dựa trên chủ nghĩa Mác- Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam, về hội nhập kinh tế quốc tế. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp tổng hợp, phân tích Đề tài có sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm hệ thống hóa một cách cơ bản các TTHC cơ bản, cốt lõi của ngành hải quan. Đó là các TTHC liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới.
  11. Qua đó, đưa ra các nhận định về hiện trạng TTHC hiện hành nhằm phát hiện các ưu, nhược điểm và đề xuất các biện pháp khắc phục. - Phương pháp so sánh dùng để phân biệt các đối tượng nghiên cứu trong đề tài để từ đó có cách hiểu thống nhất đối với vấn đề đưa ra. 6. Đóng góp khoa học của đề tài Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về cải cách TTHC trong lĩnh vực hải quan trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc triển khai thủ tục hải quan điện tử và cơ chế một cửa quốc gia của ngành hải quan hiện nay. Đóng góp khoa học của đề tài thể hiện ở những khía cạnh sau: - Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục hành chính trong ngành hải quan; - Đánh giá thực trạng cải cách thủ tục trong ngành hải quan trong xu thế hội nhập hiện nay; - Đề ra các giải pháp để cải cách thủ tục hành tục hành chính trong ngành hải quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục hành chính trong ngành hải quan. Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải quan hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải quan.
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN 1.1. Hải quan và cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan 1.1.1. Tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan nhìn từ góc độ lí luận nhà nước và pháp luật Hải quan là một bộ phận của bộ máy nhà nước do nhà nước lập ra để thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan. Hải quan nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, có cơ cấu tổ chức riêng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định, hoạt động trên một đơn vị hành chính- lãnh thổ hải quan hay trên một lĩnh vực nhất định -lĩnh vực hải quan. Các quốc gia đều đặc biệt quan tâm tới công tác quàn lý nhà nước về hải quan và xác định đây là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động quàn lý nhà nước. Luật pháp của mỗi nước đều có các quy định xác định mục tiêu, nội dung hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan hải quan nước mình. Có thể nói rằng, hải quan đã trở thành một công cụ thiết yếu của nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện chính sách về phát triển các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa với nước ngoài, góp phần tăng cường sự giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia. Tổ chức Hải quan thế giới đã định nghĩa về cơ quan Hải quan như sau: "Hải quan là cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật Hải quan và thu thuế hải quan và thuế khác đồng thời cũng chịu trách nhiệm thi hành các luật khác có liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển hoặc lưu kho hàng hóa" [18]. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, hải quan là "công tác kiểm soát, đánh thuế hàng hóa xuất nhập cảng" [31]. Định nghĩa này về hải quan đã nêu một
  13. cách khái quát nội dung công việc của hải quan, đó là phụ trách việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát hàng hóa, phương tiện vận tải đưa vào, đưa ra khỏi lãnh thổ quốc gia và thu thuế các hoạt động này. Theo nguồn gốc lịch sử, từ Hải quan bắt nguồn từ từ "Douane" của người Ai Cập, từ này có nghĩa là "thu quốc gia". Người Anh gọi là "Customs", người Đức và Hy Lạp gọi là "Zull".. Sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy, giai cấp chủ nô ra đời, xuất hiện những thành phần dư dả vật chất trong xã hội, cơ cấu xã hội thay đổi...là những điều kiện về chính trị của việc xuất hiện hoạt động hải quan. Xã hội loài người càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú và ngày một đòi hỏi cao hơn sự thỏa mãn về hàng hóa. Do vậy, các dịch vụ trao đổi, mua bán, chuyển nhượng ngày càng phát triển. Dường như các mặt hàng trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu của người dân, chính vì thế việc xuất nhập khẩu tăng lên không ngừng và do đó vai trò của cơ quan hải quan ngày càng quan trọng. Thời kỳ đầu, hải quan về cơ bản có các chức năng chính như việc thu thuế tạo nguồn thu cho ngân khố, củng cố địa vị thống trị của giai cấp bóc lột. Tại Hy Lạp, người ta thu thuế ở các chợ hàng nhập khẩu, xuất khẩu. Tàu thuyền nhập khẩu đậu ở cảng đều phải nộp thuế, thuế này được gọi là "inforium" khoảng 2% trị giá hàng hóa. Tại La Mã thu thuế "inforium" do một số người đứng đầu phụ trách. Cũng vì chức năng cơ bản này mà hiện nay cơ quan hải quan nhiều nước vẫn trực thuộc Bộ Tài chính. Hiện nay, chức năng của Hải quan đã được mở rộng hơn không dừng lại ở việc thu thuế mà còn phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại... Chức năng truyền thống của Hải quan là bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia. Mục tiêu tổng quát của chức năng này là việc bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế của đất nước. Chức năng của Hải quan thể hiện qua những mục tiêu mà Hải quan nhằm đạt được thông qua các hoạt động của mình. Những mục tiêu này thay đổi tùy theo hình thái ý thức xã hội và mô hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
  14. Ở Việt Nam, cơ quan hải quan được thành lập ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chính phủ lâm thời thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu. Sự kiện này có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng đánh dấu sự ra đời của Hải quan Việt Nam, không chỉ đáp ứng nhu cầu của đất nước, mà còn khẳng định Hải quan là một công cụ không thể thiếu của một quốc gia độc lập có chủ quyền. Cơ quan hải quan là thiết chế nhà nước được thành lập để trực tiếp thực hiện hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật. Cùng với việc thực hiện hoạt động này, Hải quan Việt Nam còn là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan. Để thực hiện chức năng nêu trên, cơ quan hải quan có những nhiệm vụ cụ thể sau đây: 1. Thực hiện kiểm tra giám sát, hàng hóa, phương tiện vận tải theo quy định của pháp luật về hải quan; 2. Tham gia công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; 3. Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; 4. Kiến nghị chủ trương, biện pháp quàn lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan do Hiến pháp, luật và nhiều văn bản dưới luật quy định. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hải quan cũng do vị trí, tính chất đặc thù của ngành Hải quan trong hệ thống các cơ quan nhà nước quy định. Quyền hạn của cơ quan hải quan là phương tiện pháp lý cần thiết mà nhà nước quy định để thực hiện, chức năng, nhiệm vụ được giao.
  15. Với những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt, hải quan được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự chỉ đạo tập trung của Chính phủ. Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan, thực thi pháp luật hải quan trong phạm vi cả nước. Hệ thống tổ chức của hải quan không được củng cố, hoàn thiện trong những năm qua, đáp ứng các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đặt ra. Hải quan được tổ chức theo mô hình 3 cấp, đứng đầu là Tổng cục Hải quan- được coi là cơ quan đầu não của toàn ngành; Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan và đơn vị tương đương. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc liên tỉnh có Cục Hải quan tỉnh hoặc liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực thuộc Tổng cục Hải quan. Cục Hải quan do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập mới, tổ chức lại và giải thể. Cục Hải quan thực hiện các công việc về hải quan trong phạm vi lãnh thổ mà mình được phép quản lý theo quy định của pháp luật. Ở cửa khẩu, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, bưu điện ngoại dịch, khu vực kiểm soát hải quan trên biên giới, bờ biển, vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, khu chế xuất hoặc các địa điểm khác theo quy định của pháp luật có Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan hoặc đơn vị tương đương. Việc thành lập Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan hoặc đơn vị tương đương do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quyết định theo quy hoạch tổ chức mạng lưới hải quan đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan và các đơn vị tương đương là các đơn vị trực tiếp thực hiện những hoạt động nghiệp vụ cụ thể về hải quan theo quy định của pháp luật.
  16. Như vậy, nguyên tắc tập trung, thống nhất thể hiện một cách rõ nét trong tổ chức bộ máy của cơ quan hải quan. Đứng đầu ngành là Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính về hoạt động của toàn ngành. Cục trưởng Cục Hải quan các tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm trước Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về hoạt động hải quan trong khu vực mà mình quản lý. Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu và đơn vị tương đương chịu sự quản lý của Cục trưởng Cục Hải quan. Trong việc thực hiện các hoạt động quàn lý nhà nước về hải quan, quan hệ của hải quan khu vực với cơ quan hành chính nhà nước, viện kiểm sát, tòa án cũng như quan hệ của hải quan với các bộ, ngành khác chỉ mang tính phối hợp hoạt động chứ không phải là quan hệ phục tùng chỉ đạo. Nguyên tắc tập trung, thống nhất trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hải quan đảm bảo tính độc lập, khách quan của hoạt động hải quan. Đây chính là đòi hỏi hết sức cần thiết đối với những công việc mà nội dung có liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các quy định của pháp luật trên bất cứ lĩnh vực nào. Với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, cơ quan hải quan là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ở các quốc gia nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng. Hải quan được tổ chức xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và các yếu tố như điều kiện tự nhiên và xã hội, vị trí địa lý...của mỗi nước trong từng thời kỳ cụ thể. Khi nhu cầu khách quan của xã hội thay đổi và những điều kiện chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội...thay đổi thì cơ quan hải quan cũng phải có những cải cách hoặc thay đổi tương ứng. Hoạt động hải quan được xác định là những hoạt động mang tính chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể do các cơ quan hải quan đảm nhiệm như: - Giám sát, kiểm tra đối với việc xuất khẩu, nhập khẩu các hàng hóa, hành lý, bưu phẩm, bưu kiện, các tài sản, đồ vật khác theo quy định của pháp luật;
  17. - Giám sát, kiểm tra các phương tiện vận chuyển hành khách, hàng hóa xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; - Đánh thuế với hàng hóa theo quy định của pháp luật; - Đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và các vi phạm pháp luật về hải quan. Đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vai trò của hoạt động hải quan thể hiện qua những phương diện sau đây: Thứ nhất, hải quan là công cụ quan trọng của mỗi quốc gia trong việc bảo hộ và thúc đẩy phát triển nền sản xuất trong nước. Thông qua việc kiểm soát chặt chẽ hàng hóa xuất, nhập khẩu, đấu tranh mạnh mẽ với các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ và các phương tiện thanh toán khác qua biên giới, hoạt động hải quan góp phần đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, kích thích và bảo hộ sản xuất trong nước. Cũng chính thông qua việc trực tiếp thực hiện hoạt động thu thuế xuất - nhập khẩu, thuế gián thu đối với hàng nhập khẩu, hoạt động hải quan đã trở thành công cụ rất quan trọng trong việc bảo vệ hàng rào thuế quan nhằm góp phần điều tiết hoạt động kinh tế diễn ra ở bên trong mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, thông qua việc thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu hoạt động hải quan đã đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn thu cho ngân sách của các quốc gia. Thứ hai, hải quan được xác định là một trong những công cụ quan trọng góp phần vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi quốc gia. Vai trò này của hải quan được đặc biệt nhấn mạnh trong việc phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về hải quan nói riêng và vi phạm pháp luật nói chung nhằm đảm bảo an ninh về văn hóa tư tưởng, an toàn vệ sinh - dịch tễ, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, chủ quyền và an ninh của các quốc gia. Thứ ba, ngày nay, các quốc gia đang có nhu cầu thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế của
  18. quốc gia mình đều đặc biệt quan tâm tới việc cải thiện môi trường đầu tư, trong đó phải kể đến việc thay đổi luật lệ và chính sách về hải quan, xúc tiến việc cải cách TTHC trong lĩnh vực hải quan. Đây là việc làm cần thiết bởi luật lệ và chính sách hải quan, TTHQ là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, hải quan là lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đối với mỗi quốc gia. Nội dung chủ yếu của hoạt động hải quan bao gồm TTHQ và chế độ kiểm tra, giám sát hải quan. Thủ tục hải quan rất đa dạng, trong đó thủ tục thông quan hàng hóa, phương tiện vận tải được thực hiện thường xuyên và là thủ tục xương sống của ngành Hải quan. Tham gia vào thủ tục thông quan gồm có: người khai hải quan, công chức hải quan có thẩm quyền. Thủ tục thông quan được thực hiện tại các địa điểm làm TTHQ theo quy định của pháp luật. Để thông quan hàng hóa phải trải qua các bước thủ tục như khai nộp, tiếp nhận và đăng ký hồ sơ hải quan; kiểm tra hải quan; thu thuế và các khoản thu khác... Chế độ kiểm tra, giám sát hải quan là hoạt động mang tính đặc thù của ngành Hải quan. Cùng với các hoạt động khác, kiểm tra, giám sát hải quan góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan của các cơ quan hải quan. Thông qua công tác này, cơ quan hải quan kịp thời phát hiện những thiếu sót, sơ hở, những vi phạm pháp luật trong công tác quàn lý nhà nước về hải quan để xử lý theo pháp luật, đồng thời tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ quàn lý nhà nước về hải quan cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với yêu cầu của từng thời kỳ, từng giai đoạn khác nhau. Có thể khẳng định rằng, vai trò của hoạt động hải quan ở mỗi quốc gia chủ yếu thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ cơ quan này.
  19. Để cơ quan hải quan hoạt động có hiệu quả cần phải dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, muốn thực hiện tốt sự quản lý của nhà nước trên bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống kinh tế- xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải "chú trọng phát huy vai trò của của pháp luật, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu vực" [28, tr. 347]. Hệ thống pháp luật hải quan được hình thành dần từng bước và phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh của đất nước. Dưới góc độ khoa học pháp lý có thể thấy pháp luật hải quan chính là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực quàn lý nhà nước về hải quan, tức là điều chỉnh hoạt động của cơ quan hải quan cũng như các chủ thể khác tham gia các quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tổ chức và hiện hoạt động chấp hành- điều hành của nhà nước trong lĩnh vực hải quan (thi hành các chế độ kiểm tra, giám sát, quàn lý nhà nước đối với hàng hóa, hành lý; phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, chống buôn lậu, gian lận thương mại, thu thuế và các khoản thu khác...) nhằm bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, bảo vệ chủ quyền đất nước về mặt kinh tế. Như vậy, tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan tuân thủ những nguyên tắc nhất định và theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan không ngừng được hoàn thiện đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế xứng đáng là người gác cửa nền kinh tế của quốc gia. 1.1.2. Khái niệm thủ tục hành chính trong ngành Hải quan Trong quản lý, các công việc cần phải được giải quyết theo những thủ tục phù hợp. Với ý nghĩa chung nhất, "thủ tục (procedure) là phương thức, cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống
  20. nhất, gồm một loạt nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt được kết quả mong muốn" [10, tr. 5]. Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, thủ tục trước hết được hiểu là những trình tự được quy định phải tuân theo khi thực hiện công việc. Theo quan niệm này, ở nhiều nước có luật thủ tục cho các hoạt động của các cơ quan nhà nước tương đối cụ thể. Những thủ tục như vậy không đơn thuần chỉ là yêu cầu về giấy tờ hành chính cần có mà còn là trật tự hoạt động của cơ quan nhà nước được quy định. Theo quy định của pháp luật và thực tiễn quàn lý nhà nước ở nước ta, hoạt động chấp hành và điều hành (hành pháp) của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện bằng hành động liên tục theo một trình tự nhất định nhằm đạt mục đích quản lý đã được đề ra. Đó là thủ tục quản lý hành chính nhà nước, được gọi là thủ tục hành chính. Trong khoa học luật hành chính không có quan điểm thống nhất về phạm vi cụ thể của khái niệm thủ tục hành chính. Quan niệm hành chính thứ nhất cho rằng, TTHC là trình tự mà các cơ quan quàn lý nhà nước giải quyết trong lĩnh vực trách nhiệm hành chính và xử lý vi phạm pháp luật. Theo quan niệm thứ hai thì TTHC là trình tự giải quyết bất kỳ một nhiệm vụ cá biệt, cụ thể nào trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, ngoài thủ tục xử lý các vi phạm hành chính thì thủ tục cấp giấy phép, đăng ký và thủ tục xuất nhập khẩu...cũng được coi là TTHC. Quan niệm này đã có phạm vi rộng hơn nhưng vẫn chưa thật đầy đủ, hợp lý, bởi vì ngoài trình tự giải quyết bất kỳ một vụ việc cá biệt, cụ thể nào, hoạt động ban hành các quyết định quản lý mang tính chủ đạo và mang tính quy phạm cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những trình tự nhất định nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2