intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

27
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tập trung nghiên cứu các luận cứ khoa học và xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh của một số nước trên thế giới để chỉ ra được căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt hå thÞ duyªn c¨n cø x¸c ®Þnh hµnh vi h¹n chÕ c¹nh tranh theo ph¸p luËt viÖt nam luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt hå thÞ duyªn c¨n cø x¸c ®Þnh hµnh vi h¹n chÕ c¹nh tranh theo ph¸p luËt viÖt nam Chuyªn ngµnh : LuËt kinh tÕ M· sè : 60 38 50 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. Bïi Ngäc C-êng Hµ néi - 2010
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH 6 HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH 1.1. Khái quát về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và hành vi hạn 5 chế cạnh tranh 1.1.1. Khái quát về cạnh tranh 5 1.1.2. Khái quát về pháp luật cạnh tranh 10 1.1.3. Khái quát về hành vi hạn chế cạnh tranh 13 1.2. Những vấn đề lý luận về căn cứ xác định hành vi hạn chế 23 cạnh tranh 1.2.1. Xác định thị trường liên quan 23 1.2.2. Xác định thị phần, thị phần kết hợp 29 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH HÀNH VI HẠN 34 CHẾ CẠNH TRANH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy định về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh 34 2.1.1. Quy định về thị trường liên quan 35 2.1.2. Quy định về xác định thị phần 40 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về căn cứ xác định 51 hành vi hạn chế cạnh tranh 2.2.1. Điều tra xác định thị trường liên quan 52 2.2.2. Xác định thị phần, thị phần kết hợp 57
  4. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY 61 ĐỊNH VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về căn cứ xác định 61 hành vi hạn chế cạnh tranh 3.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện các quy định về căn cứ xác định 66 hành vi hạn chế cạnh tranh 3.3. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về căn cứ xác định 70 hành vi hạn chế cạnh tranh 3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về căn cứ xác định hành vi 70 hạn chế cạnh tranh 3.3.2. Về tổ chức thực hiện 75 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cạnh tranh là quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, đồng thời là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động cạnh tranh xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn với mức độ gay gắt hơn trên mọi lĩnh vực. Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý tạo khuôn khổ cho hoạt động cạnh tranh là điều tất yếu. Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều quan tâm đến việc kiểm soát và điều tiết cạnh tranh bằng pháp luật nhằm chống lại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh, tạo ra môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng. Ngày 3/12/2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật số 27/2004/QH11 về cạnh tranh (sau đây gọi tắt là Luật cạnh tranh) với 6 chương, 123 điều được xem là văn bản luật không nhỏ và có vai trò quan trọng trong định hướng hành vi cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng. Luật cạnh tranh quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, trình tự thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh… đã khỏa lấp được phần nào thiếu hụt của pháp luật Việt Nam trong bối cảnh hiện tại. Một trong những vấn đề quan trọng và chiếm phần lớn nội dung Luật cạnh tranh là những quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh. Những khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế… dường như còn mới mẻ đối với nền kinh tế Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật nhưng không biết mình đang vi phạm hoặc khi phát sinh vụ việc hạn chế cạnh tranh, việc giải quyết vẫn còn nhiều vướng mắc. Để 1
  6. kiểm soát được hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như giải quyết các vụ việc hạn chế cạnh tranh thì cần xác định được thế nào là hành vi hạn chế cạnh tranh. Nhưng hiện nay, những căn cứ để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh chủ yếu được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành và còn nhiều vấn đề cần được quan tâm. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài "Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam" để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh là một văn bản pháp luật khá mới mẻ trong hệ thống pháp luật, nhưng thời gian gần đây, nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh nói riêng đã thu hút được đông đảo sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này. Có thể liệt kê một số đề tài như: Dự án hoàn thiện môi trường kinh doanh VIE/97/016, Các vấn đề pháp lý và thể chế chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh; PGS.TS Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, 2001; PGS.TS Nguyễn Như Phát, Xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí dân chủ và pháp luật; TS Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Xác định thị trường liên quan theo Luật cạnh tranh năm 2004. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành như Luật học, Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của một số dự án hỗ trợ thương mại đa biên Multrap III, Hội thảo "Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh - kinh nghiệm EU và bài học cho Việt Nam. Nhìn chung, những công trình, bài viết đó thường đề cập đến việc đưa Luật cạnh tranh vào thực tiễn cuộc sống 2
  7. và thực tế cạnh tranh trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu đầy đủ, cụ thể về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam là chưa có. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Luận văn đưa ra những kiến nghị với mong muốn sẽ đem lại những kết quả thiết thực trong việc hoàn thiện các quy định Luật cạnh tranh nhằm đảm bảo quyền tự do cạnh tranh nhưng không ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của nhà nước; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các luận cứ khoa học và xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh của một số nước trên thế giới để chỉ ra được căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, tác giả không đặt vấn đề nghiên cứu tất cả các vấn đề về Luật cạnh tranh cũng như hành vi hạn chế cạnh tranh, mà chỉ tập trung làm rõ một số vấn đề: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh và căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh; - Nghiên cứu quy định về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh trong pháp luật Việt Nam hiện nay; đồng thời, liên hệ với thực tế một số vụ việc để tìm hiểu về việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh. 4. Phương pháp nghiên cứu Tác giả vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và những phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích các cơ sở lý luận; so sánh, đối chiếu 3
  8. với kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời, sử dụng phương pháp tổng hợp, chứng minh trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. Từ đó, luận văn rút ra cơ sở lý luận để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh trong pháp luật Việt Nam. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh. Chương 2: Pháp luật về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cac quy định về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh. 4
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH, PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH 1.1.1. Khái quát về cạnh tranh a) Khái niệm cạnh tranh Cạnh tranh là thuật ngữ được nhắc đến hầu hết trong các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, thể thao, quân sự… trên các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo chuyên môn cũng như trên các diễn đàn kinh tế. Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, thuật ngữ cạnh tranh được hiểu khác nhau. Tiếp cận ở gốc độ tổng quát, đơn giản, cạnh tranh là sự ganh đua của cá nhân, tổ chức hay một nhóm nào đó thông qua các hành động, nỗ lực và biện pháp để dành được phần thắng trong cuộc đua, đạt được mục tiêu của mình. Tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị học, cạnh tranh là sự ganh đua của chủ thể trong sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ nhằm dành được những lợi ích cho mình. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ), giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng… để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Vậy, cạnh tranh có thể hiểu là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh doanh có chức năng giống nhau thông qua các hành động, nỗ lực và biện pháp để giành được phần thắng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm, cung ứng dịch vụ. Về bản chất, nếu cạnh tranh diễn ra một cách công bằng, bình đẳng và lành mạnh thì nó luôn có tác động tích cực đến thị trường; là động lực để các doanh nghiệp tự cải tổ, trang bị cho mình những điều kiện tốt nhất để tồn tại 5
  10. và phát triển. Nhờ vậy, thị trường ngày càng có nhiều hàng hóa, dịch vụ, phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã và giá thành được giảm xuống. Bên cạnh đó, cùng với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, cố gắng giành những điều kiện có lợi nhất, cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ tư bản. Việc tập trung tư bản có thể cải thiện năng lực cạnh tranh cho các chủ thể, tuy nhiên đó cũng là tiền đề vật chất cho sự hình thành các hình thái cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền trên thị trường. Ngược lại với các hành vi cạnh tranh lành mạnh, công bằng là những hành vi phản cạnh tranh làm cho thị trường méo mó, phá vỡ cấu trúc thị trường, gây tổn thất cho bản thân doanh nghiệp, người tiêu dùng và các doanh nghiệp liên quan. b) Vai trò của cạnh tranh Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra như một quy luật của nền kinh tế, vận hành tương ứng với các quy luật khác như quy luật cung cầu, quy luật giá trị… và tôn vinh quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Vai trò của cạnh tranh được thể hiện dưới các góc độ: Thứ nhất, cạnh tranh là nguồn gốc, động lực để phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ cao. Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nên các nhà sản xuất, kinh doanh phải tạo ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng cao và giá thành thấp nhất. Nhờ vậy, sản phẩm được khách hàng, người tiêu dùng dễ dàng chấp nhận và nhanh chóng chiếm được ưu thế đồng thời, mang lại lợi nhuận cho người sản xuất, kinh doanh. Khoa học công nghệ mới sẽ đem lại kết quả hữu hiệu cho sản xuất, kinh doanh, làm tăng tính năng cũng như chất lượng sản phẩm, đồng thời, làm giảm giá thành sản phẩm. Các hoạt động nghiên cứu và triển khai nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận sẽ thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ, hướng tới sử dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 6
  11. Thứ hai, cạnh tranh định hướng cho việc kinh doanh sản phẩm dịch vụ, điều tiết quan hệ cung cầu của xã hội. Mục tiêu cuối cùng của chủ thể kinh doanh là lợi nhuận. Vì vậy, họ luôn tìm cách đưa được đến tay người tiêu dùng số lượng hàng hóa lớn nhất bằng việc đáp ứng nhu cầu, thị hiếu và khả năng của người tiêu dùng. Tuy nhiên, điều này chỉ phát huy tối đa khi trên thị trường có nhiều chủ thể cùng kinh doanh một mặt hàng cùng loại, có khả năng thay thế cho nhau, nghĩa là phải có sự cạnh tranh thu hút khách hàng. Khi đó, các nhà sản xuất sẽ phải chú ý đến sở thích của người tiêu dùng và dự đoán trước những thay đổi trong sở thích của họ. Do vậy, các nhà sản xuất sẽ không ngừng sáng tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới tốt hơn và có giá thành hợp lý hơn. Nhờ vậy, người tiêu dùng được lựa chọn các loại hàng hóa, sản phẩm dịch vụ mà họ mong muốn, đồng thời, tránh được những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, và hạn chế những hành vi tiêu cực của chủ thể cạnh tranh. Thứ ba, cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên hiệu quả nhất. Các chủ thể kinh doanh khi tham gia cạnh tranh trên thị trường đều mong muốn đạt được hiệu quả cao nhất và tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, họ luôn phải cân nhắc, tính toán khi sử dụng các nguồn lực vật chất, nhân lực của mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho tiết kiệm và tránh lãng phí, hạn chế tối đa chi phí cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, sử dụng tài nguyên hợp lý sẽ phát huy hết khả năng vốn có của nó. Thứ tư, cạnh tranh có chức năng phân phối nguồn lực và điều hòa thu nhập. Để ganh đua dành phần thắng về mình, các chủ thể kinh doanh không ngừng tìm kiếm những giải pháp hữu ích, nhằm sản xuất ra những sản phẩm ưu việt hơn. Một hàng hóa có thể thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng trong giai đoạn nhất định nhưng nó luôn bị đe dọa bởi sự thay thế của những 7
  12. hàng hóa, dịch vụ khác cùng loại tiến bộ hơn. Vì thế, không có chủ thể kinh doanh nào có thể mãi thu lợi nhuận cao và thống trị hệ thống phân phối trên thị trường. Những chủ thể cạnh tranh nào có nguồn lợi mạnh nhất, chiếm ưu thế nhất sẽ dành được vị trí cao nhất và thu được nguồn lợi nhuận lớn nhất. Chính vì vậy, người ta nói, cạnh tranh là yếu tố tác động tích cực đến việc phân phối nguồn lực và điều hòa thu nhập. c) Các hình thức cạnh tranh  Căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của công quyền vào cạnh tranh, người ta chia thành cạnh tranh tự do và cạnh tranh có điều tiết: - Cạnh tranh tự do: là hình thái thị trường thoát khỏi mọi sự can thiệp của nhà nước. Đây là quy luật đặc thù của phương thức sản xuất tư bản thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi mà giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối của quan hệ cung cầu, của các thế lực trên thị trường. - Cạnh tranh có sự điều tiết (của nhà nước): là hình thái thị trường của các nền kinh tế thị trường hiện đại; xuất hiện khi nhân loại chuẩn bị bước vào thế kỷ XX, cạnh tranh tự do bộc lộ những mặt trái như: thất nghiệp, phá sản hàng loạt, sự lãng phí tài nguyên… Trên tinh thần khắc phục những nhược điểm của cạnh tranh tự do, sự điều tiết của nhà nước đối với cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường là tất yếu.. Sự điều tiết của nhà nước không làm thủ tiêu hoạt động cạnh tranh mà sự can thiệp này là cần thiết nhằm đáp ứng những nhu cầu về mặt xã hội được đánh giá là thiết yếu.  Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung của thị trường, của một ngành, một lĩnh vực kinh tế, người ta phân cạnh tranh thành ba mức độ: Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền. - Cạnh tranh hoàn hảo: là cạnh tranh trong một nền kinh tế được mô tả là một mẫu kinh tế thị trường lý tưởng, theo đó, một thị trường với hiệu suất cạnh tranh có sự tham gia của nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm 8
  13. đồng nhất, thông tin hoàn hảo cho tất cả cả các bên tham gia thị trường và họ hoàn toàn được tự do trong việc gia nhập hoặc rút khỏi thị trường. Trong cạnh tranh hoàn hảo, giá cả được định đoạt một cách duy nhất thông qua quan hệ cung cầu. Người ta cho rằng, cạnh tranh hoàn hảo chỉ có trên lý thuyết, còn trên thực tế, thị trường chỉ tồn tại hình thức cạnh tranh không hoàn hảo. - Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất, theo đó, chủ thể cạnh tranh có đủ sức mạnh thị trường để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn hảo gây ra những hiệu ứng không tốt cho nền kinh tế, biểu hiện ở mức giá tăng cao, và sản lượng giảm dần so với nhu cầu của xã hội. Trong cạnh tranh không hoàn hảo thường dẫn đến tập trung kinh tế và một cách tự nhiên mà đỉnh cao là độc quyền. - Độc quyền: bao gồm độc quyền và độc quyền nhóm. Độc quyền là hình thái thị trường trong đó một doanh nghiệp duy nhất bán một sản phẩm mà không có sản phẩm thay thế gần giống nó. Việc thâm nhập vào ngành này rất khó khăn hoặc không thể được. Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó có một số ít các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của chính mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.  Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức thực hiện hành vi cạnh tranh, người ta phân cạnh tranh thành: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. - Cạnh tranh lành mạnh: là hành vi cạnh tranh hợp pháp, trung thực, tuân thủ đạo đức và tập quán kinh doanh mà không xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Cạnh tranh lành mạnh được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ vì nó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng, thúc đẩy tiến bộ khoa học - công nghệ, phát triển nền kinh tế. 9
  14. - Cạnh tranh không lành mạnh: là việc sử dụng những biện pháp không chính đáng để giành giật khách hàng, cơ hội kinh doanh làm thiệt hại đến đối thủ, người tiêu dùng và xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh bị pháp luật nghiêm cấm vì nó vi phạm pháp luật, trái với tập quán thương mại, đạo đức kinh doanh, xâm phạm tới quyền lợi của chủ thể khác và đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. 1.1.2. Khái quát về pháp luật cạnh tranh Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động cạnh tranh diễn ra phức tạp với cường độ ngày càng gay gắt. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh ngày càng phong phú và phức tạp. Những mầm mống tiêu cực của cạnh tranh đã lan tỏa tới các lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội dưới mọi hình thức, từ sản xuất đến tiêu dùng, như bán phá giá, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh để gây hạn chế cạnh tranh… Những hành vi đó có khả năng ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng, của các chủ thể cạnh tranh khác, phá vỡ trật tự kinh doanh công bằng và nền kinh tế có thể phải đối phó với khủng hoảng nghiêm trọng bởi sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp. Vì vậy, hoạt động cạnh tranh cần được can thiệp bởi cơ quan nhà nước thông qua hệ thống chính sách pháp luật. Bằng công cụ này, nhà nước duy trì một trật tự cạnh tranh lành mạnh, môi trường kinh doanh công bằng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội đặt "dấu ấn" trên thị trường Việt Nam và xa hơn là trên thị trường quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự điều tiết của nhà nước đối với hoạt động này là điều tất yếu. Sự can thiệp của nhà nước một mặt bảo vệ, khuyến khích những khả năng tốt đẹp của cạnh tranh, mặt khác, khắc phục những khuyết tật của thị trường do môi trường cạnh tranh mang lại. Mỗi quốc gia đều có chính sách cạnh tranh, trên cơ sở đó điều tiết môi trường cạnh tranh trong đời sống kinh tế. 10
  15. Mục đích của chính sách cạnh tranh là đảm bảo thị trường không có rào cản gia nhập và đảm bảo quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh của mọi chủ thể. Qua khảo sát chính sách cạnh tranh của một số quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy, các công cụ chủ yếu được nhà nước sử dụng để điều tiết cạnh tranh là: chính sách thuế; Kiểm soát giá cả; Điều chỉnh độc quyền; Quốc hữu hóa; Ban hành pháp luật. Trong các công cụ đó, pháp luật luôn được xem là hiệu quả hơn cả vì nó là phương thức đưa các công cụ điều tiết khác vào cuộc sống trong điều kiện nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Pháp luật cạnh tranh nếu hiểu theo nghĩa rộng bao gồm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh, những quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan. Còn theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh được hiểu là một đạo luật và những văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh như bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng như môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng [29]. Ở Việt Nam, trước thời kì đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung nên chưa có môi trường cho hoạt động cạnh tranh tồn tại. Vì vậy, trong giai đoạn này, pháp luật cạnh tranh gần như không được đề cập đến ở nước ta. Sau khi đổi mới, cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều văn bản pháp luật được xây dựng, trong đó có những quy định liên quan đến cạnh tranh. Những quy định chung mang tính nguyên tắc, điều chỉnh hoạt động cạnh tranh như Luật Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại năm 1997. Bên cạnh đó, còn có những văn bản chứa đựng những quy định điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong từng lĩnh vực cụ thể như: 11
  16. Luật báo chí năm 1990, Pháp lệnh quảng cáo số 39/2001/PL-UBTVQH10, Nghị định 12/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 6/3/1999 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 1/9/1999, các quy định về quản lí giá hàng hóa và dịch vụ. Như vậy, trong giai đoạn này, trong khi một văn bản pháp luật cạnh tranh cụ thể chưa được ban hành, những văn bản pháp luật nêu trên cũng đã góp phần tích cực trong việc điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như các quy định về cạnh tranh nằm rải rác ở các văn bản khác nhau; một hành vi cạnh tranh được nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh; phạm vi điều chỉnh còn hẹp và thiếu và chưa có hệ thống chế tài xử lí hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, ngày 03/12/2004, Luật cạnh tranh được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/07/2005 với 6 chương 123 điều. Luật cạnh tranh quy định phạm vi điều chỉnh là các hành vi hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế của các doanh nghiệp); hành vi cạnh tranh không lành mạnh (các chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệm, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh…). Ngoài việc quy định về mặt nội dung, Luật cạnh tranh còn thể hiện ở mặt hình thức bao gồm cả trình tự thủ tục miễn trừ, giải quyết vụ việc cạnh tranh và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh. Đây được xem là cách tiếp cận mới trong kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật nhằm đảm bảo khả năng thực thi Luật cạnh tranh cao. Như vậy, có thể thấy rằng, quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh là một trong những nội dung chính, cơ bản và chủ yếu của Luật cạnh tranh. Đây 12
  17. được xem là một thành công trong quá trình xây dựng Luật cạnh tranh của Việt Nam, đưa văn bản luật này tiệm cận với pháp luật thế giới nói chung và Luật cạnh tranh trên thế giới nói riêng. 1.1.3. Khái quát về hành vi hạn chế cạnh tranh Như đã đề cập ở trên, hành vi cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh có chức năng giống nhau thông qua các hành động, nỗ lực và biện pháp để giành được phần thắng trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ. Để dành được phần thắng, chủ thể tiến hành hành vi cạnh tranh không chỉ dựa vào năng lực cạnh tranh của mình mà còn dựa vào cả những biện pháp gian dối, lừa đảo để vượt qua các đối thủ có thể gây thiệt hại cho chủ thể cạnh tranh khác, tạo ra nhiều hậu quả xấu và tiêu cực đối với nhà nước và xã hội. Đôi khi, những hành vi đơn thuần chỉ là sự hợp tác, liên kết với nhau, không có mục đích nhưng gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh khác, người tiêu dùng và thị trường nói chung vẫn có thể xẩy ra. Đây chính là hậu quả hạn chế cạnh tranh trên thị trường do hành vi cạnh tranh của một số chủ thể gây ra. Để hạn chế hậu quả tiêu cực do hành vi cạnh tranh gây ra, cũng như bảo đảm chủ thể cạnh tranh không lạm dụng quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, ở mức độ nào đó, nhà nước tác động vào các hành vi cạnh tranh của họ. Sự tác động đó có thể làm cho doanh nghiệp hiểu được khuôn khổ, quy tắc của hành vi kinh doanh, từ đó có những ứng xử trên thị trường cho phù hợp. Nhà nước cũng có thể can thiệp vào các hành vi cạnh tranh bằng cách áp dụng biện pháp đình chỉ hành vi, phạt tiền, bồi thường thiệt hại đối với hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo Luật cạnh tranh, "hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế". 13
  18. Như vậy, theo khái niệm trên, hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm các hình thức: - Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; - Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; - Tập trung kinh tế. a) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Trong hoạt động kinh doanh, các chủ thể thường thỏa thuận với nhau nhằm đạt những hiệu quả cao nhất khi tham gia vào thị trường. Pháp luật cho phép họ được tự do kinh doanh cũng như thực hiện các hoạt động hợp tác, đầu tư để thu lợi nhuận. Tuy nhiên, các chủ thể kinh doanh đôi khi đã quá làm dụng quyền tự do của mình dẫn đến hạn chế khả năng tham gia thị trường của cac chủ thể khác hoặc loại bỏ những đối thủ đang hoạt động trên thị trường bằng cách thống nhất với nhau cùng thực hiện chiến lược cạnh tranh. Nội dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chính là sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể dưới bất kì hình thức nào về cách thức, biện pháp nhằm hạn chế, thậm chí khống chế cạnh tranh trên thị trường liên quan [13, tr. 62]. Như vậy, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải là thỏa thuận chính thức giữa các doanh nghiệp; là quyết định của một nhóm doanh nghiệp; sự thỏa thuận này được xem là hành vi có bàn tính. Người ta có thể xem, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một dạng "hợp đồng" [13, tr. 60]. Về chủ thể thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, có sự khác nhau giữa pháp luật các quốc gia. Theo Luật cạnh tranh của Cộng hòa Pháp, chủ thể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là tổ chức hoặc cá nhân (trên thực tế chủ yếu là các doanh nghiệp) thuộc mọi thành phần kinh tế. Theo Luật cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, thì chủ thể của thỏa thuận cạnh tranh là các "doanh nghiệp" (khoản 1 điều 81 Hiệp định Rome). Tuy nhiên, hiệp định này không đưa ra khái niệm rõ ràng về "doanh nghiệp". Còn theo Luật cạnh tranh Việt Nam, chủ thể của thỏa thuận cạnh tranh không chỉ là doanh nghiệp mà còn là các hiệp hội ngành nghề. 14
  19. Dưới góc độ pháp lý, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thể hiện dưới hai hình thức là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang: "là các thỏa thuận hay hành vi có sự bàn tính giữa các công ty hoạt động cùng cấp trên thị trường" [24]. Ví dụ: những thỏa thuận của các nhà sản xuất cùng cung cấp một loại hang hóa. Đây được xem là thỏa thuận nghiêm trọng và phổ biến nhất, liên quan đến giá cả, phân chia thị trường, ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc: "là thỏa thuận hoặc hành vi có bàn tính giữa hai hay nhiều công ty hoạt động tại các khâu khác nhau trong chuỗi sản xuất, phân phối và liên quan đến những điều kiện mà theo đó các bên có thể mua, bán, bán lại những hàng hóa, dịch vụ nhất định" [24]. Ví dụ: thỏa thuận cung ứng nguyên liệu. Những hành vi phổ biến trong loại thỏa thuận này là ấn định giá bán lại, phân phối độc quyền theo lãnh thổ hoặc theo nhóm khách hàng… Cả hai loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nêu trên đều ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trên thị trường, "Cartel là ung nhọt đối với nền kinh tế thị trường mở… với việc phá cạnh tranh, chúng gây hại nghiêm trọng cho nền kinh tế và người tiêu dùng của chúng ta" [8, tr. 17]. Đây là hai dạng thỏa thuận có bản chất kinh tế khác hẳn nhau và thực tế cho thấy, trong điều kiện thương mại thông thường thỏa thuận theo chiều dọc thường có mức độ tác động thấp hơn đến môi trường canh tranh so với thỏa thuận theo chiều ngang. Bởi, thỏa thuận theo chiều dọc chỉ tác động đến một số doanh nghiệp, một số khu vực và đối với mặt hàng nhất định trên thị trường. Còn thỏa thuận theo chiều ngang nó ảnh hưởng đến phần lớn hoặc toàn bộ thị trường liên quan. Vì vậy, tùy vào tính chất và mức độ tác động của từng loại thỏa thuận mà pháp luật các quốc gia có cách điều chỉnh, can thiệp sao cho phù hợp. 15
  20. Pháp luật các quốc gia thường đưa ra những căn cứ, cơ sở để xác định các hành vi hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát. Theo đó, cùng một hành vi, nhưng có những chủ thể không bị cơ quan nhà nước can thiệp nếu chưa đến ngưỡng pháp luật quy định sẽ không bị kiểm soát hoặc không bị cấm. b) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phấn đấu vươn lên để đạt được lợi nhuận cao nhất, dành được ưu thế lớn nhất để chiếm lĩnh một thị phần tương đối lớn trên thị trường liên quan. Đây là điều đáng mừng cho bản thân doanh nghiệp cũng như nền kinh tế và luôn được nhà nước ủng hộ, khuyến khích. Trong một số trường hợp, sự phát triển đó đã đưa doanh nghiệp lên vị trí thống lĩnh thị trường, thậm chí là độc quyền - những vị trí có lợi thế cạnh tranh cao nhất. Bản thân vị trí thống lĩnh thị trường hay độc quyền không có tội, không trái với pháp luật. Tuy nhiên, việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tìm cách hạn chế cạnh tranh để bảo vệ vị trí của mình, gây bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề mà pháp luật cần phải can thiệp. Trước khi tìm hiểu lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, cần phải tìm hiểu thế nào là vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.  Vị trí thống lĩnh thị trường: Vị trí thống lĩnh không phải là khái niệm thuộc phạm trù pháp luật, mà là một khái niệm thuộc phạm trù kinh tế. Án lệ của Pháp cho rằng, vị trí thống lĩnh được hiểu là "khả năng đối mặt với đối thủ cạnh tranh thực tế" và "doanh nghiệp được coi là giữ vị trí chiếm lĩnh một vị trí ưu thế trên thị trường khi nắm giữ thị phần ưu thế trên thị trường so với các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh khác" [13, tr. 71]. Còn Toà án châu Âu quy định: Vị trí thống lĩnh đối trường… liên quan đến sức mạnh kinh tế của một doanh nghiệp có khả năng ngăn chặn hữu hiệu cạnh tranh hiện có trên thị trường thông qua việc doanh nghiệp này có khả 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2