intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

27
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quốc tế về vấn đề xác lập chủ quyền quốc gia đối với các vùng lãnh thổ. Trình bày, phân tích và đánh giá các bằng chứng lịch sử để từ đó chứng minh quá trình xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với thực tế lịch sử cũng như luật pháp quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ QUANG THÀNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 50512 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ QUANG THÀNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 50512 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hoà Bình, Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế - Bộ Ngoại Giao HÀ NỘI - 2005
  3. MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HAI 5 QUẦN ĐẢO HOÀNG SA - TRƯỜNG SA 1.1. Quần đảo Hoàng Sa. 6 1.1.1. Tên gọi và các bộ phận cấu thành. 6 1.1.2. Vị trí địa lý. 7 1.2. Quần đảo Trường Sa. 8 1.2.1. Tên gọi và các bộ phận cấu thành. 8 1.2.2. Vị trí địa lý. 10 1.3. Tầm quan trọng của hai quần đảo. 11 1.3.1. Về kinh tế. 11 1.3.2. Về an ninh quốc phòng. 12 1.4. Tình hình tranh chấp hiện nay. 14 1.4.1. Quần đảo Hoàng Sa. 14 1.4.2. Quần đảo Trường Sa. 15 CHƯƠNG 2: LUẬT PHÁP VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ VỀ XÁC 16 LẬP VÀ THỰC HIỆN CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ 2.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ. 16 2.1.1. Lãnh thổ. 16 2.1.2. Chủ quyền lãnh thổ. 17 2.2. Các phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ. 18 2.2.1. Nguyên tắc xác lập chủ quyền lãnh thổ. 18 2.2.2. Các phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ. 22 2.2.2.1. Xác lập chủ quyền lãnh thổ do tác động của thiên nhiên. 23 2.2.2.2. Xác lập chủ quyền lãnh thổ do chuyển nhượng. 23 2.2.2.3. Xác lập chủ quyền lãnh thổ bằng xâm chiếm. 24 2.2.2.4. Xác lập chủ quyền lãnh thổ theo thời hiệu. 24 2.2.2.5. Xác lập chủ quyền lãnh thổ do chiếm hữu. 25 2.3. Một số thực tiễn quốc tế về xác lập chủ quyền lãnh thổ. 35
  4. 2.3.1. Vụ tranh chấp đảo Palmas. 35 2.3.2. Vụ tranh chấp đảo Clipperton. 37 2.3.3. Vụ tranh chấp phần phía Đông đảo Groenland. 38 2.3.4. Vụ tranh chấp nhóm đảo Minquiers và Ecréhous. 40 2.4. Một số nhận xét. 41 CHƯƠNG 3: LỊCH SỬ XÁC LẬP VÀ THỰC HIỆN CHỦ QUYỀN 43 CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO 3.1. Giai đoạn từ thế kỷ XVII đến khi Pháp xâm lược Việt Nam. 43 3.2. Giai đoạn Pháp đô hộ Việt Nam. 50 3.3. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954. 52 3.4. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975. 54 3.5. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay. 56 CHƯƠNG 4: VỀ NHỮNG YÊU SÁCH THIẾU CĂN CỨ ĐỐI VỚI 60 HAI QUẦN ĐẢO 4.1. Yêu sách của Trung Quốc. 60 4.2. Yêu sách của các bên tranh chấp khác. 73 4.2.1. Yêu sách của Đài Loan. 73 4.2.2. Yêu sách của Philippine. 75 4.2.3. Yêu sách của Malaysia. 79 4.2.4. Yêu sách của Brunei. 80 CHƯƠNG 5: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO 83 TRANH CHẤP ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO 5.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp. 83 5.2. Phương hướng giải quyết tranh chấp. 85 5.2.1. Đàm phán hoà bình. 85 5.2.2. Về một số phương án đã được đề xuất. 87 5.2.3. Cơ chế Toà án quốc tế. 91 5.3. Một số kiến nghị. 96 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  5. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Việt Nam là một quốc gia ven biển, có vùng biển rộng, bờ biển dài với hàng trăm đảo, quần đảo lớn nhỏ gần bờ và xa bờ chạy dọc theo chiều dài đất nước. Đặc biệt, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng không chỉ với Việt Nam mà còn có vị trí địa chính trị cực kỳ quan trọng đối với cả khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Từ lâu, Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này và Việt Nam có đủ những bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh quan điểm, lập trường đó của mình. Ngày nay trước nguy cơ nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các quốc gia đang từng bước dịch chuyển, tăng cường hướng quan tâm của mình ra biển và đại dương. Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi thế kỷ 21 là thế kỷ của Đại dương. Xu thế tiến ra biển, chiếm lĩnh và khống chế không gian biển, sử dụng và khai thác biển đang trở thành xu thế chung của cả nhân loại. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Biển Đông cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặt khác, phân tích trên khía cạnh lợi ích nhiều mặt có thể đạt được từ việc làm chủ được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bất kỳ quốc gia nào ven bờ Biển Đông đều mong muốn thiết lập được chủ quyền của mình trên hai quần đảo này. Xuất phát từ những lý do nêu trên, trong vùng Biển Đông đã và đang tồn tại những tranh chấp về chủ quyền rất phức tạp và kéo dài. Tình hình tranh chấp này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, quốc phòng, sự phát triển của Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến cả hoà bình, ổn định và phát triển của toàn bộ khu vực. Hơn bao giờ hết, vấn đề tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo, đang là vấn đề "nóng, nhạy cảm" đối với Việt Nam và khu vực. Yêu cầu chứng minh và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo 1
  6. Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế đã và đang được đặt ra hết sức cấp thiết. Chứng minh và khẳng định Việt Nam đã xác lập và thực hiện chủ quyền như thế nào để vừa đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng, kinh tế lại vừa đảm bảo được yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế, không để xảy ra hoặc làm xuất hiện những nguy cơ xảy ra tranh chấp về lợi ích với các quốc gia hữu quan, thậm chí là những nguy cơ gây xung đột vũ trang. Câu hỏi này thật sự không bao giờ là dễ giải đáp, đòi hỏi phải có các giải pháp thích hợp và đặc biệt phải phù hợp với thực tế lịch sử cũng như luật pháp và thực tiễn quốc tế. Mặc dù vấn đề này đã được Việt Nam và các quốc gia hữu quan, quan tâm giải quyết song do quan điểm, lập trường của các bên còn khác nhau quá xa cho nên việc đưa ra được những phương hướng, giải pháp thích hợp và được các bên hữu quan cùng chấp thuận luôn gặp rất nhiều khó khăn. Tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo tiếp tục tồn tại và nguy cơ xung đột tiềm tàng xuất phát từ những tranh chấp này có thể gây những ảnh hưởng xấu đến hoà bình, ổn định trong khu vực. 2. Tình hình nghiên cứu: Việc nghiên cứu Luật pháp và thực tiễn quốc tế về vấn đề "xác lập chủ quyền quốc gia đối với các vùng lãnh thổ" để áp dụng vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa đã được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm. Đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu đó là: "Kể chuyện đảo Việt Nam" của tác giả Vũ Phi Hoàng NXB Quân đội nhân dân năm 1978; "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của tác giả Lưu Văn Lợi, NXB Công An Nhân Dân Hà Nội, năm 1995; Luận án phó Tiến sĩ Luật học của tác giả Hoàng Trọng Lập về “Tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa và Luật pháp quốc tế” năm 1996... Các tác giả nước ngoài cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: "Cuộc tranh chấp quần đảo Trường Sa - Ai là chủ sở hữu đầu tiên" của tác giả 2
  7. Daniel J. Dzurek, năm 1996; "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của tác giả Monique Chemillier - Gendreau năm 1997... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trong nước dường như vẫn chưa thực sự rõ ràng khi đưa ra các lập luận pháp lý quốc tế để khẳng định quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Còn các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài thì do không có đầy đủ các tài liệu và bằng chứng lịch sử về hai quần đảo nên đã có những cách hiểu không chính xác cả về lịch sử xác lập chủ quyền cũng như một số giai đoạn thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quốc tế về vấn đề xác lập chủ quyền quốc gia đối với các vùng lãnh thổ. - Trình bày, phân tích và đánh giá các bằng chứng lịch sử để từ đó chứng minh quá trình xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với thực tế lịch sử cũng như luật pháp quốc tế. - Phân tích và phê phán yêu sách và lập luận sai trái của các bên (Trung Quốc, Philippine, Malaysia, Brunei và Đài Loan) tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam. - Đề xuất các phương hướng và các giải pháp cho tranh chấp song phương đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như những tranh chấp đa phương đối với quần đảo Trường Sa. 4. Cơ sở lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài: - Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm, lập trường chính thức của Nhà nước Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Dựa trên cơ sở lý luận, các căn cứ pháp lý về xác lập chủ quyền lãnh thổ trong những quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế. 3
  8. - Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đặt cái chung trong cái riêng để nghiên cứu, trên cơ sở so sánh, đánh giá tìm ra những hạt nhân tiến bộ, những ưu điểm để áp dụng trong hệ thống lý luận nhằm chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, thống kê, so sánh... 5. Những đóng góp của Luận văn: - Góp phần củng cố lập trường pháp lý của Việt Nam khi tiến hành đấu tranh đối ngoại trên trường quốc tế bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. - Đề xuất một số suy nghĩ, ý tưởng trong quá trình tìm kiếm giải pháp cho tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa giữa Việt Nam và các bên liên quan khác. 6. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được cơ cấu thành 5 chương như sau: Chƣơng 1. Vị trí địa lý và tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa - Trƣờng Sa. Chƣơng 2. Luật pháp và thực tiễn quốc tế về xác lập và thực hiện chủ quyền lãnh thổ. Chƣơng 3. Lịch sử xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo. Chƣơng 4. Về những yêu sách thiếu căn cứ đối với hai quần đảo. Chƣơng 5. Phƣơng hƣớng và một số kiến nghị cho tranh chấp đối với hai quần đảo. 4
  9. CHƢƠNG 1 VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA - TRƢỜNG SA Trước đây, trong một thời gian dài, người Việt và người phương Tây biết đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay ở giữa Biển Đông một cách mơ hồ và đặt cho chúng một cái tên gọi chung. Người Việt thường gọi là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng hoặc về sau này gọi là Hoàng Sa hoặc Đại Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (phiên âm theo tiếng Hán). Người phương Tây, cụ thể là người Bồ Đào Nha gọi là Parcel hay Pracel (theo tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là: đá ngầm). Cho đến thế kỷ XVII hai quần đảo vẫn được vẽ gộp lại dưới tên gọi chung Paracel, nằm dọc sát bờ biển miền Trung Việt Nam. Mãi đến năm 1787 - 1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác định được một cách rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay. Từ đó, người phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở phía Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 của thế kỷ XX người Pháp mới đặt tên là Spratly để chỉ chung cho quần đảo Trường Sa. Trung Quốc, một bên tham gia tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đặt tên cho hai quần đảo này là “Tây Sa” và “Nam Sa”. Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rõ ràng giữa danh xưng quần đảo tên Việt và tên phương Tây. Giám mục Tabert đã từng ghi chú trên bản đồ “An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ” với hàng chữ Paracel seu Cat Vang. (seu: tiếng Latinh có nghĩa: hoặc là) [20,tr.2]. Ở Trung Quốc hay bất kỳ nước nào khác đều không hề có các khái niệm này. Chỉ có ở Việt Nam mới chắc chắn có tên gọi Cát Vàng hay Hoàng Sa để chỉ Paracel do người phương Tây đặt tên. Điều này là một bằng chứng xác thực chỉ ra rằng ít nhất từ đầu thế kỷ XIX, người phương Tây đã xác nhận Paracel là Cát Vàng, tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Một điểm khác biệt nữa cần phải nhấn mạnh là tên gọi Hoàng Sa được người Việt đặt tên với mục đích xác lập chủ quyền, còn người phương Tây và cả người Trung Quốc đặt tên xuất phát từ nhu cầu hàng 5
  10. hải. Tên gọi Hoàng Sa do người Việt đặt còn đồng thời dùng để chỉ tên một tổ chức do Nhà nước phong kiến Việt Nam thành lập nhằm khai thác và kiểm soát, làm chủ các hải đảo mang tên Hoàng Sa hay Cát Vàng. Như vậy, đây cũng có thể coi là một bằng chứng xác thực chứng minh việc xác lập chủ quyền của người Việt trên các quần đảo này [20,tr.2]. 1.1. Quần đảo Hoàng Sa. 1.1.1. Tên gọi và các bộ phận cấu thành. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hay còn gọi là Tây Sa (theo cách gọi của người Trung Quốc) hoặc Paracels theo cách gọi của người phương Tây. Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 bao gồm khoảng 30 đảo đá và bãi nổi, trong đó có 23 vị trí đã được đặt tên. Quần đảo này được chia thành 02 nhóm là Lưỡi Liềm và An Vĩnh. A: Nhóm Lƣỡi Liềm (Croissant Group). Nhóm Lưỡi liềm còn gọi là nhóm “Trăng Khuyết” hay “Nguyệt Thiềm”. Nếu nhìn từ trên không xuống, nhóm này trông như hình chiếc bánh sừng bò. Nhóm có 5 đảo chính và vô số các mỏm đá nhỏ khác. + Đảo Hoàng Sa hình bầu dục, nơi rộng nhất khoảng 700m và dài khoảng 900m, diện tích phần nổi thường xuyên trên mặt nước biển vào khoảng 0,3km2. Phía Đông Bắc của đảo vẫn còn một số ngôi mộ của binh lính thời nhà Nguyễn. Phía Tây Nam đảo còn có một Am thờ gọi là miếu Bà, trong đó có một pho tượng Phật Bà Quan Âm. Trên đảo có đài khí tượng với tên gọi “Station d‟ Observation 838” chính thức hoạt động từ năm 1938. Từ năm 1931 đến những năm 1974, thường xuyên có một trung đội lính của chính quyền Nguỵ Sài Gòn đồn trú tại đây. + Đảo Hữu Nhật được đặt theo tên của đội thuỷ binh do Đô đốc Phạm Hữu Nhật lĩnh suất. Đội này được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa để đo đạc thuỷ trình và vẽ bản đồ vào năm 1836. Đảo nằm ở phía Nam đảo Hoàng Sa khoảng 3 hải lý, hình bàu tròn, đường kính khoảng 800m, chu vi 2000m, diện tích khoảng 0,32km2, có vành đai san hô bao quanh ngoài xa, ở giữa đảo và vành đai san hô quanh đảo là vùng nước lặng. Chung quanh đảo cây cối um tùm, chính giữa là lòng chảo không sâu lắm. 6
  11. + Đảo Duy Mộng nằm ở vị trí phía Đông Nam đảo Hữu Nhật, phía Đông Bắc đảo Quang Hoà, thành phần chính cấu tạo nên đảo là san hô, bãi san hô có nơi nhô lên mặt nước tới 4m [20,tr.8]. Đảo có hình bầu dục, diện tích khoảng 0,41km2 trên đảo không có cây lớn, chỉ có các loại cây nhỏ, ở giữa đảo là một vùng đất trống. + Đảo Quang Hoà là đảo lớn nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung quanh đảo là bãi cát màu vàng, vành san hô bao quanh đảo lan ra rất xa khỏi bìa đảo. Cạnh đảo có những hòn đảo nhỏ, nối với nhau bằng những bãi cát vàng trải dài. Nhiều tài liệu địa lý ghi lại và chia đảo Quang Hoà thành hai đảo là Quang Hoà Đông và Quang Hoà Tây. Tổng diện tích của đảo khoảng 57 ha. + Đảo Quang Ảnh là nơi nhô lên cao nhất so với mực nước biển trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Đảo mang tên một vị đội trưởng đội Hoàng Sa là Trần Quang Ảnh, được vua Gia Long sai ra đảo để đo đạc thuỷ trình vào năm 1815. Đảo có hình bầu dục, hơi tròn, có diện tích khoảng 3ha [20,tr.10]. + Trong nhóm đảo Lưỡi Liềm ngoài năm đảo chính nêu trên còn có một số đảo nhỏ khác đó là: đảo Ba Ba; đảo Lưỡi Liềm; đá Hải Sâm; đảo Đá Lồi. B: Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group). Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn, cao trên mặt nước biển nhất của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất ở Biển Đông. + Đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất trong nhóm đảo An Vĩnh, bề dài khoảng 3.700m và ngang khoảng 2.800m. Trên đảo nhiều cây cối nên gọi là Phú Lâm. Đảo có cầu tàu lớn, sân bay, đài kiểm báo, và nhiều phương tiện quân sự khác. Ngoài đảo lớn nhất là Phú Lâm, nhóm An Vĩnh còn có nhiều các đảo, bãi khác như: Đảo Bắc (North Island); Đảo Nam (South Island); Đảo giữa (Midle Island); Đảo đá (Rocky Island); Cồn Cát Tây (West Sand) [20, tr.10]. + Cụm đảo Linh Côn. Cụm đảo Linh Côn nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa, các đảo thuộc nhóm này chỉ là những mỏm san hô, nhấp nhô trên mặt nước biển. 7
  12. Tên đảo gắn liền với tên một chiếc tàu bị nạn trong khu vực này vào đầu thế kỷ XX. Phía Nam nhóm Linh Côn có một đảo tương đối giàu tài nguyên hải sản và san hô đó là đảo Tri Tôn [20,tr.11]. 1.1.2. Vị trí địa lý. Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 , từ 1110 đến 1130 kinh độ Đông, từ 170 05‟ xuống 150 vĩ độ Bắc. Xung quanh vùng biển có độ sâu hơn 1000m song giữa các đảo lại chỉ sâu khoảng 100m. Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi. Đảo gần nhất là đảo Hoàng Sa, cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 120 hải lý, cách Cảng Đà Nẵng khoảng 170 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 156 hải lý. 1.2. Quần đảo Trƣờng Sa. 1.2.1. Tên gọi và các bộ phận cấu thành. Người Pháp gọi quần đảo Trường Sa là Archipel des Spratly, người Anh, người Mỹ gọi là SpratleyIslands. Người Trung Quốc gọi là Nam Sa, người Philippine gọi là Kalayan (vùng đất tự do), người Nhật gọi là Shinan Guto [20,tr.12]. Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 270 hải lý, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 600 hải lý, cách Đài Loan khoảng hơn 900 hải lý. Quần đảo Trường Sa trải dài trên một diện tích mặt nước tương đối rộng, chiếm một vùng biển khoảng 160.000 – 180.000km2 . Vùng biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo đá, các bãi nổi trên mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11km2 . Về số lượng đảo, theo thống kê trong một công trình khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển – Ban Biên Giới Chính phủ) năm 1988 quần đảo Trường Sa bao gồm 137 đảo đá và bãi ngầm. Căn cứ theo hải đồ được xây dựng vào năm 1979 của Cục Bản đồ quân sự thuộc Bộ Tổng Tham Mưu nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quần đảo Trường Sa có thể chia làm 8 cụm đảo chính theo chiều từ Bắc xuống Nam như sau: Cụm 1: Cụm đảo Song Tử. 8
  13. Bao gồm 2 đảo, hai bãi nổi, hai đá. Thông thường chúng ta vẫn biết đến hai đảo chính của cụm này với tên gọi là đảo Song Tử Đông và đảo Song Tử Tây. Hai đảo này như sinh đôi, nằm ở cực Bắc của quần đảo Trường Sa. Trên đảo có cây cối, với độ cao trung bình, có nhiều phân chim (nguyên liệu làm phân bón). Đảo Song Tử Đông hình dạng hơi tròn, có diện tích khoảng 0,225km2 . Năm 1963, Việt Nam Cộng Hoà có dựng tại đây một tấm bia chủ quyền. Năm 1968, Philippine đã cho quân chiếm đóng đảo này một cách trái phép. Đảo Song Tử Tây hiện do Việt Nam giữ, có hình dạng lưỡi liềm, diện tích khoảng 0,21km2 , trên đảo có nước ngọt, hiện vẫn còn một trạm rađa từ thời Việt Nam Cộng Hoà dựng ở đây. Cụm đảo Song Tử này còn có Đá Bắc và Đá Nam và hai bãi cạn đó là bãi Đinh Ba và bãi Núi Cầu. Cụm 2: Cụm đảo Thị Tứ. Nằm ở phía Nam đảo Song Tử, cụm đảo này gồm có đảo Thị Tứ và một số bãi đá khác. Đảo Thị Tứ nằm ở phía Đông Bắc của quần đảo Trường Sa, do san hô tạo thành lẫn với cát trắng và đá vôi. Đảo hình bầu dục, bề ngang 550m, dài 700m, diện tích khoảng 0,382 km2, có giếng nước ngọt. Trên đảo có cây mù u, cây bàng, nhiều cây leo chằng chịt. Chung quanh đảo có rất nhiều rong biển và các bãi đá ngầm. Quanh đảo có nhiều cá, đồn đột, rong biển [20, tr.14]. - Phía Bắc đảo Thị Tứ gồm đá Hoài An, đá Tri Lễ, đá Trâm Đức, đá Vĩnh Hảo, đá Cái Vung . - Phía Nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi, cách đảo Thị Tứ chừng 14 hải lý (đã bị Trung Quốc chiếm đóng năm 1988) Cụm 3: Cụm đảo Loại Ta. Ở phía đông cụm đảo Thị Tứ, gồm đảo Loại Ta phía dưới và cồn san hô Lan Can hay An Nhơn ở phía Đông. Đảo có hình dạng tròn, đường kính khoảng 300m, cao hơn so với mặt nước biển chừng 2m, có nhiều cây lớn mọc quanh đảo. Bên cạnh đó, cụm đảo Loại Ta còn có sự hiện diện của một số bãi và thực thể khác như: Đá An Lão, bãi Đường, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta và bãi Loại Ta Nam. Phía Đông đảo Loại Ta còn có đảo Dừa và đá Cá Nhám. Cụm 4: Cụm đảo Nam Yết hay còn gọi là cụm đảo TiGia 9
  14. Đảo Nam Yết nằm ở phía Nam đảo Loại Ta, là một liên kết của vòng san hô Tizard Bank bao gồm đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đảo Ba Bình, và bãi Bàn Than, đá Núi Thị, đá En Đất, đá Lớn, đá Nhỏ, và đá Đền Cây Cỏ. Trong quần thể cụm đảo này, đảo rộng nhất là đảo Ba Bình (do Đài Laon giữ) và đảo cao nhất là đảo Nam Yết. Trên đảo Nam Yết, cũng có nhiều lùm cây với kích thước lớn nhất [20,tr.15]. Đảo Nam Yết là đảo lớn thứ hai trong cụm đảo sau đảo Ba Bình, tuy vậy, đây là hòn đảo cao nhất của quần đảo. Nằm ở phía Nam của cụm đảo, có hình dạng chữ C, diện tích khoảng 0,175km2 cao khoảng 4,7m. Đảo Sơn Ca có hình dạng chữ C, với chiều cao khoảng hơn 3m so với mặt nước biển. Trước năm 1975, đều có quân đội Việt Nam Cộng Hoà chiếm giữ và sau năm 1975, Quân đội Nhân Dân Việt Nam đã tiếp quản. Đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, độ cao chừng 4m, dài khoảng 1.360m, rộng khoảng 350m, diện tích gần 1,5km2. Phía Tây Nam cụm đảo Nam Yết có đá Chữ Thập, đây là một đá không lớn song có tầm quan trọng về chiến lược rất lớn và đang do Trung Quốc chiếm đóng. Cụm 5: Cụm đảo Sinh Tồn. Nằm ở phía Nam của cụm đảo Nam Yết, cụm đảo Sinh Tồn bao gồm các vị trí sau đây: Đảo Sinh Tồn, đá Sinh Tồn Đông, đá Nhạn Gia, đá Bình Khê, đá Ken Nan, đá Tư Nghĩa, đá Bình Sơn, đá Bãi Khung, đá An Bình... Cụm 6: Cụm đảo Trường Sa. Nằm ở phía Nam và Tây Nam cụm đảo Sinh Tồn, trải dài theo chiều ngang. Là một quần thể bao gồm nhiều bãi, đảo và các thực thể khác, cụm đảo Trường Sa nằm ở phía Đông, kế cận các bãi, đá thuộc thềm lục địa Việt Nam như bãi Phúc Tần, Huyền Trân, Tư Chính..... Đảo Trường Sa là đảo lớn nhất, có dạng hình tam giác cân mà cạnh đáy hơi lệch về phía Bắc. Cạnh đáy của tam giác cân đó dài khoảng 350m, mỗi cạnh bên dài 450m, cao độ ở phía Bắc là 3,5m phía Nam là 2,1m so với mặt nước biển lúc nước lớn. Ngoài các đảo, đá, bãi kể trên còn có đảo Trường Sa Đông, đảo Phan Vinh [20,tr.19]. Cụm 7: Cụm đảo An Bang. Nằm ở phía Nam cụm đảo Trường Sa, đảo An Bang có hình dạng giống như hình cái túi, đáy nằm ở phía Đông còn miệng thì thắt lại ở phía Tây. Đảo 10
  15. tương đối dài và nhỏ, dài đến hơn 200m nhưng rộng chỉ khoảng 20m và cao hơn so với mặt nước biển là khoảng 2m. Cụm 8: Cụm đảo Bình Nguyên. Cụm đảo này nằm ở hướng Đông bao gồm có hai đảo là đảo Bình Nguyên và đảo Vĩnh Viễn. Xung quanh hai đảo này còn có một số đá, bãi và một số vị trí khác. 1.2.2. Vị trí địa lý. Quần đảo Trường Sa trải dài từ vĩ độ 602B tới 110 28B, từ kinh độ 1120 Đ đến 1150 Đ. Cách Vũng Tàu 270 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Cam Ranh (Khánh Hoà) 250 hải lý. Các đảo, vị trí thường xuyên nổi trên mặt nước có diện tích khoảng 11km2 [20,tr.12]. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm trong vùng Biển Đông nơi mà người Trung Quốc gọi là Nam Hải và người Phương Tây gọi là biển Nam Trung Hoa. Hai quần đảo cách nhau khoảng 500km, trải dài từ Bắc xuống Nam, khoảng 11 vĩ độ, từ vĩ độ 170 05B xuống 60 20‟ 9” B, từ Tây sang Đông khoảng 7 kinh độ, từ kinh độ 1100 Đ đến kinh độ 1170 Đ. Cả hai quần đảo này đều có nguồn gốc từ san hô, bao gồm nhiều các vị trí khác nhau, có cả các đảo, đá, bãi cạn. Tổng diện tích phần thường xuyên nổi trên mặt nước của mỗi quần đảo khoảng hơn 10km2 . 1.3. Tầm quan trọng của hai quần đảo. 1.3.1. Lợi ích về kinh tế. Biển Đông nói chung và khu vực biển xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và các mỏ khoáng sản như: mỏ Sunphát, kết cuội sắt, Mangan...rất lớn. Theo số liệu của nhiều nhà khoa học và cơ quan khoa học quốc tế dự đoán, Biển Đông chứa khoảng 130 tỷ thùng dầu, trong đó khu vực quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chiếm khoảng hơn 70%. Các cuộc thăm dò của Trung Quốc đã khẳng định rằng có khoảng 25 tỷ m3 khí và ước có khoảng 105 tỷ thùng dầu lửa ở khu vực thềm lục địa xung quanh quần đảo Trường Sa. Chính vì thế, Biển Đông còn được coi như “Vịnh Ba Tư” thứ hai. Bên cạnh nguồn lợi về dầu khí mà vùng Biển Đông mang lại, hải sản ở khu vực này cũng mang lại nhiều hứa hẹn. Với tốc độ đánh bắt cá như hiện 11
  16. nay, tổng sản lượng hải sản đánh bắt ở khu vực này đã chiếm một phần không nhỏ trong sản lượng của toàn thế giới. Tại vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa, do các hoàn cảnh khách quan, chúng ta chưa có điều kiện để đánh giá. Tuy nhiên vùng biển quanh quần đảo Trường Sa theo số liệu mới nhất, qua khảo sát sơ bộ bằng lưới rê, các nhà khoa học Việt Nam đã xác định được 18 họ hải sản với 32 giống và 37 loài. Bằng ngư cụ là câu văng, đã xác định được 9 họ hải sản, 13 giống và 14 loài cá trong đó có các loài cá có giá trị kinh tế cao như: Cá ngừ mắt to, cá thu ngàng...Theo các tài liệu nghiên cứu của phái đoàn Naga thuộc Viện Đại Học California (Mỹ), vùng biển quanh quần đảo Trường Sa là nơi tập trung nhiều loài cá với mật độ rất cao [Theo 34]. Cùng với tài nguyên hải sản, vùng biển quanh hai quần đảo là nơi có trữ lượng san hô cực lớn, có thể dùng để sản xuất ra các sản phẩm mỹ nghệ xuất khẩu mang lại lợi ích kinh tế cao. Trên các nhóm đảo ở xa đường xích đạo, có nhiều cây cối rậm rạp. Các đảo và các vị trí khác trong hai quần đảo là nơi cư trú lý tưởng cho các loài chim biển về làm tổ, sống và sinh sản, cũng là địa điểm rất lý tưởng cho các loài rùa biển làm tổ, đẻ trứng. Phân chim từ lâu đời, tích tụ lại hoà trộn với san hô phong hoá, tạo nên một loại phốt phát vôi mà qua khảo sát đã xác định được đó là loại phốt phát có chất lượng cao tương đương với loại phốtphát vôi xuất hiện ở Pêru vì trong đó có chứa nhiều chất đồng hoá, cây trồng rất dễ hấp thụ [Theo 35]. Như vậy, có thể thấy tầm quan trọng về kinh tế trong khu vực xung quanh hai quần đảo là rất lớn song hầu hết các nhà quan sát, nghiên cứu quốc tế đều nhận xét rằng “những lực đẩy chính hướng về biển Biển Đông là vị trí chiến lược hết sức quan trọng của hai quần đảo này” [Theo 35]. 1.3.2. Về an ninh quốc phòng. Không có một vùng biển nào trên thế giới lại có tầm quan trọng như Biển Đông. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới. Trên các tuyến đường biển của Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ nhất là eo biển 12
  17. Malaca (nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và các nước ở khu vực Bắc Á phải đi qua. Thứ hai là vùng Biển Đông, nhất là khu vực quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Vị trí chiến lược của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn có thể được sử dụng để kiểm soát các tuyến đường biển tại Biển Đông và dùng cho các mục đích quân sự như: đặt trạm rađa, trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân, các trạm tiếp nhiên liệu cho tàu bè. Khu vực quanh hai quần đảo này án ngữ lối ra vào lục địa Châu Á của hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng như đường qua lại của tàu chiến Ấn Độ. Việc xây dựng các căn cứ không quân trên khu vực này sẽ cho phép quốc gia nào xác lập được chủ quyền trên hai quần đảo theo dõi, thậm chí có thể đe doạ các nước công nghiệp mới trong khu vực Đông Nam Á, chưa kể tới khả năng giám sát mạng lưới dày đặc đường hàng không ở khu vực này. Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo bờ biển với chiều dài lên tới hơn 3000km. Vì thế, bờ biển luôn luôn là nơi xung yếu nhất trong công cuộc phòng thủ đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam đã chứng kiến nhiều cuộc tập kích đường biển của giặc ngoại xâm, vì thế Hoàng Sa và Trường Sa là những trạm quan sát và phòng thủ tiền tiêu hết sức quan trọng cho việc bảo vệ Tổ quốc. Từ nhiều thế kỷ trước, ông cha ta đã nhận biết được tầm quan trọng về chiến lược của hai quần đảo này. Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), Bộ Công đã dâng sớ tâu lên vua rằng: “Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu” [Theo 15]. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí năm 1838 cũng viết: “...phía Đông có bãi cát nằm ngang (Hoàng Sa) liền với biển xanh làm hào”. Tác giả người Trung Quốc là Vương Bích Nam trong cuốn sách Hải Lục viết năm 1842 cũng đã nhận xét: “Vạn Lý Trường Sa gồm những bãi cát nổi trên biển dài mấy ngàn dặm, làm phên dậu bên ngoài của nước An Nam” [Theo 18,tr.6]. Trong thời đại khoa học kỹ thuật quân sự phát triển như hiện nay, nếu một quốc gia khác chiếm hữu được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì có thể kiểm soát được toàn bộ bờ biển Việt Nam. Đó sẽ là “một trong những mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với việc phòng thủ và toàn vẹn lãnh thổ” 13
  18. của Việt Nam [18,tr.6]. Việc chiếm hữu được hai quần đảo không những kiểm soát được toàn bộ tuyến đường ra vào Vịnh Bắc Bộ mà còn phong toả toàn bộ tuyến giao thông đường bộ, đường sắt huyết mạch nối liền Nam - Bắc của Việt Nam do các tuyến giao thông này đều nằm sát bờ biển. Mặt khác, từ hai quần đảo này còn có thể làm bàn đạp cho không quân và hải quân tấn công vào đất liền. Mặc dù có vai trò to lớn về kinh tế và chiến lược như vậy nhưng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này không hoàn toàn xuất phát từ vị trí địa lý và tầm quan trọng của hai quần đảo. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo dựa trên những bằng chứng lịch sử, pháp lý rõ ràng phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Để làm rõ ràng hơn vấn đề này, chương 2 của luận văn sẽ phân tích kỹ càng hơn về vấn đề xác lập và thực hiện chủ quyền lãnh thổ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế. 1.4. Tình hình tranh chấp hiện nay. 1.4.1. Quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa (bãi Cát Vàng) từ thế kỷ XVII. Cho đến cuối thế kỷ XIX, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa không hề gặp bất kỳ một sự phản đối từ bất kỳ quốc gia nào trong khu vực. Đến tận đầu thế kỷ XX, trước hành động của Nhật chiếm đóng đảo Đông Sa, Trung Quốc vội vã ra chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà họ gọi là “Tây Sa” (1909) và sau đó sáp nhập vào đảo Hải Nam (1921) [36,tr.8] + Năm 1950, Pháp trao trả quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa cho Chính phủ Bảo Đại và quân đội Trung Hoa Dân Quốc rút về Đài Loan. + Năm 1974, lợi dụng Việt Nam phải đối phó với quân đội Mỹ ở Miền Nam Việt Nam, Trung Quốc đã cho quân đội ra đánh chiếm nốt cụm đảo Phía Tây của quần đảo, hoàn thành việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa. + Sau năm 1975, Việt Nam khẳng định có đầy đủ căn cứ pháp lý, bằng chứng lịch sử để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 14
  19. + Từ năm 1979 đến năm 1982, cả Việt Nam và Trung Quốc đều ra Sách Trắng chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo. (Việt Nam ra Sách trắng vào các năm 1979, 1982, 1988) + Năm 1988, Trung Quốc lại dùng vũ lực chiếm đóng tiếp một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa và sáp nhập vào tỉnh Hải Nam. + Năm 1992, Trung Quốc ra tuyên bố về vùng lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải bao gồm cả hai quần đảo ở Biển Đông. + Gần đây nhất, ngày 15 tháng 02 năm 2005, lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc tiến hành khảo sát các đảo san hô dưới biển với quy mô lớn ở vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo này và cho rằng mọi hành vi nếu không được sự chấp thuận của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam. Như vậy, tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hiện nay chỉ là tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hiện nay, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng một cách trái phép, mặc dù đó đích thực là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng, không thể tách rời của Việt Nam. 1.4.2. Quần đảo Trường Sa. + Cho đến năm 1933, cũng như quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa là phần lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam mà không có bất kỳ một sự tranh chấp của bất kỳ quốc gia nào. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chủ quyền quốc gia và quản lý hành chính trên 21 đảo và vị trí trong quần đảo Trường Sa. Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa phương giữa 5 nước, 6 bên liên quan. + Trung Quốc và Đài Loan đòi chủ quyền đối với khoảng 80% phần diện tích Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đường hình chữ U (đường lưỡi bò) mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố vào năm 1947 và được vẽ lại trong Bản đồ Nam Hải Chư Đảo năm 1950. Từ năm 1988, Trung Quốc đã chiếm 9 bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đài Loan đang chiếm đóng đảo Ba Bình (đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa). Đây 15
  20. là hành vi trái với luật pháp và thực tiễn quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. + Philippin đòi chủ quyền đối với tất cả các vị trí kể cả chìm và nổi trong khu vực biển mà họ gọi là “Kalayan” (vùng đất tự do). Vùng biển này bao gồm hầu hết khu vực quần đảo Trường Sa. Thomas Cloma một công dân Philipine đã tuyên bố chiếm hữu vào năm 1950. Cho đến nay, Philipine chiếm giữ 8 đảo và vị trí trong khu vực quần đảo Trường Sa. + Malaysia đòi thực hiện quyền quản lý đối với 5 vị trí trong khu vực quần đảo Trường Sa. +Brunei đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý bao gồm đá Luisa ở phía Nam quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Brunei là quốc gia duy nhất không chiếm giữ bất kỳ đảo hay vị trí nào trong quần đảo. CHƢƠNG 2 LUẬT PHÁP VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ VỀ XÁC LẬP VÀ THỰC HIỆN CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ 2.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ. 2.1.1. Lãnh thổ. Trong các giáo trình, tài liệu về luật pháp quốc tế có nhiều định nghĩa khác nhau về lãnh thổ, song xét trên mọi phương diện thì: “Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn riêng biệt và đầy đủ của quốc gia” [30,tr.136]. Vị trí địa lý và cấu trúc tự nhiên làm cho lãnh thổ của mỗi quốc gia không hoàn toàn giống nhau. Tất cả hoàn toàn phụ thuộc vào cấu trúc tự nhiên của lãnh thổ quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được cấu thành bởi các yếu tố sau: -Vùng đất. Là một bộ phận cơ bản của lãnh thổ mà không một quốc gia nào không có và thường chiếm phần lớn trong tổng diện tích lãnh thổ so với các bộ phận 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2