intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

25
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện chức năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức năng công tố, đồng thời xác định thực trạng thực hiện chức năng, tìm nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THANH HƯNG CHøC N¡NG THùC HµNH QUYÒN C¤NG Tè CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k N«ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THANH HƯNG CHøC N¡NG THùC HµNH QUYÒN C¤NG Tè CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k N«ng) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực, chỉ rõ nguồn gốc. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn!. Người cam đoan Lê Thanh Hưng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ..................... 7 1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự .................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm quyền công tố ..................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố .................................................. 11 1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố ............................. 14 1.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố ...................................................... 14 1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố .................................................... 19 1.3. Chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự tiêu biểu trên thế giới ............................................................................... 27 1.3.1. Thực hành quyền công tố trong mô hình tố tụng tranh tụng ............. 28 1.3.2. Thực hành quyền công tố trong mô hình tố tụng thẩm vấn ............... 32 Chương 2: CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .......... 34 2.1. Chức năng thực hành quyền công tố theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự việt nam giai đoạn từ 1945 đến trước 2003..... 34 2.1.1. Chức năng Thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến trước năm 1960 .................... 34
  5. 2.1.2. Chức năng thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1960 đến trước năm 2003 ............ 35 2.2. Chức năng thực hành quyền công tố theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ....................................................... 37 2.2.1. Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................ 37 2.2.2. Nội dung Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự .................................................. 49 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ............................. 69 3.1. Thực tiễn thực hành quyền công tố ở địa bàn tỉnh Đắk Nông.......... 69 3.1.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông....................................... 69 3.1.2. Thực trạng thực hành quyền công tố ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông .................................................................................... 71 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố ở Việt Nam ........................................................................... 77 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật .............................................. 77 3.2.2. Đổi mới nội dung và phương pháp thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự .......................................................................... 81 3.2.3. Giải pháp về công tác cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân ................ 84 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng NQ: Nghị Quyết TTHS: Tố tụng hình sự VKSNDND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân(VKSNDND) là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, BLTTHS năm 2003, cũng như Hiến pháp năm 2013 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong đó việc tăng cường chất lượng công tố của VKSND nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết 08/NQ- TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã chỉ rõ: Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với các cơ quan tư pháp [11]. Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08 đã có ý kiến chỉ đạo: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong 1
  8. suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… [11]. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, trong đó có nội dung: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố” [12]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra… Trong những năm vừa qua, quá trình thực hiện đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã chỉ ra: Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và 2
  9. trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu [13]. Những năm qua, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Các văn bản trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng công tố của Viện kiểm sát. Vì vậy, cần nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân riêng cũng như của các cơ quan tư pháp nói chung. Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, để góp phần bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề bức xúc và cần thiết. Đây cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài “Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông) làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đã được một số sách, báo, công trình nghiên cứu đề cập. Một số tác giả đã có những nghiên cứu, bài viết về vấn đề này: Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố” (nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền) (tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sĩ luật học), Hà Nội, 2002; Tiến sĩ Trần Văn Độ có bài “Một số vấn đề về quyền công tố”; một số bài viết của các tác giả khác trong tập kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những vấn đề 3
  10. lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Hà Nội, 1999… Một số luận văn thạc sĩ luật học đã được công bố tại Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội: “Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng vào điều kiện Việt Nam” của tác giả Lý Văn Chính (năm 2004); “Quan hệ giữa CQĐT và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo BLTTHS năm 2003” của tác giả Lang Văn Bảo (năm 2005); “Tranh tụng tại phiên tòa một số vấn đề lý luận và thực tiễn” cuả tác giả Nguyễn Mạnh Tiến (năm 2005); “Phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định của CQĐT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Đào Thị Diệp (năm 2008). Những luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu trên về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, đồng thời đề cập đến các vấn đề liên quan đến quyền công tố. Từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân; ngoài ra việc thực hiện các quy định về chức năng công tố có những nơi, địa bàn còn có nhận thức, áp dụng chưa thống nhất. Chính vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu về chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài * Mục đích của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện chức năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức năng công tố, đồng thời xác định thực trạng thực hiện chức năng, tìm nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. 4
  11. * Nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng hình sự. - Nghiên cứu việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự tiêu biểu trên thế giới. - Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố ở nước ta trong những năm gần đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, thực trạng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự những năm gần đây ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. - Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 5
  12. Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSNDND. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về chức năng công tố của VKSND, đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của VKSND trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Về thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo VKSND. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động trong cơ quan VKSND. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, các đề mục với cơ cấu như sau: Chương 1: Lý luận về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. Chương 2: Chức năng thực hành quyền công tố trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực trạng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả. 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT 1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền công tố Cho đến nay, trong các nghiên cứu có nhiều quan điểm về quyền công tố, quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra bảo vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp [39, tr.11]. Theo quan điểm này thì quyền công tố chỉ xuất hiện khi nhà nước đó phát triển ở mức độ tương đối cao, chỉ xuất hiện trong nhà nước có tính chất pháp quyền. Quan điểm thứ hai, coi công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (có thể nằm trong cơ cấu của Tối cao pháp viện). Cơ quan công tố là “mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích của các bên theo quy định của pháp luật”. Đại diện cho trường phái này là E.Hermann và tập thể tác giả trong cuốn “Quyền công tố trong cơ cấu hành chính – chính trị”. Các tác giả nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì phải có một loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng “chống” lại quyền xét xử để nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị Tòa án xét xử. Đó là quyền công tố [39, tr. 12]. Quan điểm thứ ba cho rằng, với việc tách các cơ quan Tòa án ra khỏi hệ thống các cơ quan 7
  14. hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì công tố mới xuất hiện. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra Tòa án), do đó quyền công tố không thể xuất hiện cùng với nhà nước mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [39, tr. 13]. Không đồng ý với các quan điểm nêu trên, quan điểm cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu nhà nước, từ nhà nước chủ nô đến các nhà nước đại diện [39, tr. 14]. Quan điểm này là khá cởi mở và coi quyền công tố như một đặc tính vốn có của nhà nước như dân cư, lãnh thổ...Trong các nghiên cứu ở nước ta hiên nay, đa phần ủng hộ quan điểm này,và cho rằng: Quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất của nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền. Với quan điểm coi quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện việc buộc tội đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội (theo quan điểm của giai cấp thống trị xã hội), chúng tôi cho rằng khi nhà nước xuất hiện thì cùng đồng thời xuất hiện quyền công tố. Nhà nước nào cùng ban hành pháp luật để quản lý xã hội (nói chính xác hơn là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ xã hội được thực hiện theo ý muốn, theo khuôn mẫu tư tưởng của giới thống trị xã hội). Đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại những mâu thuẫn đối kháng (mang tính giai cấp) không thể điều hòa được. Điều đó có nghĩa là trong bất kỳ một xã hội nào (khi đã xuất hiện nhà nước), bên cạnh lực lượng thống trị xã hội luôn luôn tồn tại một (hoặc nhiều) lực lượng (bị thống trị) có thái độ, có hành động thù địch chống lại lực lượng thống trị xã hội (nắm quyền lực nhà nước), biểu hiện cụ thể ở 8
  15. những hành vi vi phạm pháp luật (chống lại ý chí của giai cấp thống trị) đến mức nguy hiểm (đe dọa đến quyền thống trị nhà nước) cần phải bị trừng trị. Muốn trừng trị kẻ vi phạm thì phải buộc được tội của họ. Quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện sự buộc tội này chính là quyền công tố. Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện quyền công tố, nội dung quyền công tố, và phạm vi thực hành quyền này được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Ngay trong một nhà nước cụ thể với một chế độ chính trị xác định, ở mỗi giai đoạn phát triển của nó cũng có thể có những thay đổi nhất định trong việc tổ chức và xác định phạm vi thực hiện quyền công tố. Thời kỳ đầu, khi nhà nước mới ra đời, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn đơn giản và hệ thống pháp luật mới được hình thành quyền công tố chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp để bảo vệ các lợi ích công, như các lợi ích của nhà nước (của giai cấp thống trị) và lợi ích của cả cộng đồng. Do đó chức năng nhà nước chưa được phân định rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, quyền công tố có thể do một cơ quan, thậm chí một quan chức nhà nước duy nhất thực hiện từ đầu đến cuối. Ví dụ, trong nhà nước chủ nô hoặc phong kiến, việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thông thường chỉ do một quan án đảm nhiệm. Càng về sau cùng với sự phát triển, hoàn thiện của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng nhà nước giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên môn hóa. Mặt khác, nhận thức xã hội về lợi ích công, lợi ích tư, về trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể. Dần dần, nhà nước (giai cấp thống trị) nhận thức một cách đầy đủ và rõ ràng rằng, trong nhiều trường hợp khi có lợi ích cá nhân bị xâm phạm thì lợi ích công (như trật tự công cộng, an ninh xã hội...) cũng bị xâm hại hoặc bị đe dọa. Bởi vậy, cần 9
  16. thiết phải có sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ lợi ích cá nhân khi chúng bị xâm phạm. Chính vì lẽ đó, vai trò của công tố ngày càng được đề cao, trong khi vai trò của tư tố ngày càng mờ nhạt dần trong hoạt động tố tụng hình sự. Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự là phương tiện cai trị hữu hiệu nhất. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong quan hệ này nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước (quyền lực công) để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, còn người phạm tội là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài do pháp luật hình sự quy định và áp dụng. Quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền đó được gọi là quyền công tố. Từ những phân tích trên, chúng tôi chia sẻ quan điểm cho rằng: “quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của nhà nước. Nó xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, tồn tại khi có nhà nước và mất đi khi không còn nhà nước” [39, tr.17]. Đồng thời, đồng ý với quan điểm của TS. Lê Hữu Thể khi đưa ra định nghĩa về quyền công tố: Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước, được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ 10
  17. quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà [39, tr.40]. 1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố Khi nghiên cứu về thực hành quyền công tố, trong giới luật học hiện nay còn tồn tại hai xu hướng khác nhau: Một là, họ gắn việc thực hành quyền công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của những Công tố viên trong tố tụng hình sự. Cơ sở lý luận mà họ dựa vào là việc tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố ở nước ngoài, cơ sở pháp lý mà họ đưa ra là các quy định của pháp luật hiện hành của nước ta, nhưng chỉ bó hẹp ở phạm vi truy tố hoặc buộc tội của VKSND trước Tòa án (vốn là những nét hoạt động công tố tương đồng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới). Một số khác thì lại mở rộng phạm vi thực hành quyền công tố được thực hiện trong mọi giai đoạn tố tụng bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [23, tr.100]. Hai là, họ chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: Lập cáo trạng và luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền công tố, thậm chí có người còn cho rằng thực hành quyền công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm [27, tr. 28-38]. Gần đây có một số công trình khoa học nghiên cứu về thực hành quyền công tố hoặc nghiên cứu về các vấn đề pháp lý khác trong đó có một số vấn đề liên quan đến thực hành quyền công tố mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra được một số biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát giam, giữ và cải tạo, kiểm sát thi hành án. Các công trình này vận dụng những nguyên lý của V.I Lênin về pháp chế xã hội chủ nghĩa và vai trò của VKSND, về vai trò và bộ phận của ủy viên công tố làm cơ sở lý luận và lấy các quy định của 11
  18. Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1960 đến nay làm cơ sở pháp lý. Bởi vậy trong nhận thức của không ít những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn cũng như ngoài ngành kiểm sát đã nhầm lẫn quyền công tố với thực hành quyền công tố trên nhiều phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi. Đồng thời các công trình này luôn gắn quyền công tố chỉ với VKSND, coi đó là quyền của VKSND. Do đó đã không lý giải được một số vấn đề là khi một số cơ quan khác (CQĐT, Tòa án...) sử dụng một số biện pháp như khởi tố vụ án, khởi tố bị can... thì có phải các cơ quan này cũng thực hành quyền công tố hay không. Với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đây là quyền của nhà nước, gắn liền với bản chất của từng kiểu nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm thì nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng đó được giao cho các cơ quan nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Để thực hiện quyền lực nhà nước trên một lĩnh vực cụ thể thì nhà nước tổ chức ra một hệ thống cơ quan nhất định để thực hiện quyền lực đó. Hệ thống cơ quan này đóng vai trò chính trong sự phối hợp cùng với cơ quan nhà nước khác để thực hiện quyền lực nhà nước đã được xác định. Ở các nước, đa phần họ thành lập cơ quan công tố để thực hành quyền công tố với các quyền hạn, trách nhiệm tố tụng trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử của TTHS. 12
  19. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền công tố “Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm cho tốt” [9]. Không cơ quan nào có thể thay Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, bởi lẽ: a. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có quyền độc lập phát động quyền công tố. Các quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can của CQĐT chỉ thực sự có ý nghĩa phát động quyền công tố sau khi sau khi được VKSND xem xét. Nếu quyết định khởi tố vụ án của CQĐT không có căn cứ, trái pháp luật thì VKSND có quyền hủy bỏ. Nếu quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT không có căn cứ VKSND cũng có quyền hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án. Tòa án (Hội đồng xét xử) cũng có quyền khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt, tuy nhiên nếu quyết định của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì VKSND vẫn có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên. b.VKSND có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, CQĐT chỉ có quyền đề nghị. c.Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, VKSND có trách nhiệm đảm bảo đủ các chứng cứ để truy tố bị can. CQĐT có quyền thu thập chứng cứ, nhưng VKSND chịu trách nhiệm về việc chứng cứ đó có đủ để truy tố bị can một cách có căn cứ. Trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, VKSND có quyền yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung tài liệu hoặc đình chỉ vụ án, yêu cầu CQĐT khắc phục và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức liên quan xử lý hành vi vi phạm pháp luật. d.Khi có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét cần thiết phải xử lý người phạm tội trước pháp luật VKSND quyết định truy tố bị can ra Tòa. Tại phiên tòa, VKSND có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố, buộc tội 13
  20. bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án chính là việc chấp nhận lời buộc tội của VKSND đối với người phạm tội. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự như sau: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc cơ quan công tố/ Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội và tội phạm, không làm oan người vô tội [38]. 1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố 1.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố Phạm vi thực hành quyền công tố là vấn đề gây nhiều bàn luận trong giới nghiên cứu vì vậy, khi xem xét cần phải phân biệt cụ thể, đầy đủ chính xác giữa phạm vi của quyền công tố với phạm vi thực hành quyền công tố. Xét về mặt nguyên tắc thì quyền công tố và thực hành quyền công tố đồng nhất về phạm vi, tức là nó có từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Mục đích của tố tụng hình sự đòi hỏi mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý theo pháp luật. Do đó, về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động. Song, để có cơ sở phát động quyền công tố phải thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm, như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người biết việc, lấy lời khai người bị tạm giữ...Vì vậy, phạm vi của quyền công tố được bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, cơ quan công tố có các hoạt động thu thập chứng cứ, xác định có hay 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2