intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

29
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam

  1. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Trần Thị Thu Trang Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội – 2010
  2. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Trần Thị Thu Trang Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Đức Hồng Hà Hà nội - 2010
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI THUỘC 5 MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM 1.1. lý luận chung về dấu hiệu định tội 5 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định tội 5 1.1.2. Đặc điểm của dấu hiệu định tội 12 1.2. lý luận chung về dấu hiệu định thuộc mặt chủ quan của tội 19 phạm 1.2.1. Khái niệm dấ u hiê ̣u đinh ̣ tô ̣i thuô ̣c mặt chủ quan của tội phạm 19 1.2.2. Phân loại dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm 20 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 33 LUẬT HÌNH SỰ VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI THUỘC MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM 2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về dấu 33 hiệu lỗi 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về dấu 49 hiệu động cơ và mục đích phạm tội 2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về dấu 49 hiệu động cơ phạm tội 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về dấu 58 hiệu mục đích phạm tội
  4. Chương 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG 67 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI THUỘC MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM 3.1. Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự 67 về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2009 3.1.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng các quy định 67 của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm 3.1.2. Những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng các quy 70 định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp 79 dụng các quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm 3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về 83 dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm 3.2.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự 83 về dấu hiệu lỗi 3.2.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự 88 về dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98 PHỤ LỤC 104
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Định tội danh là quá trình xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội trên thực tế với các yếu tố trong cấu thành tội phạm. Vấn đề định tội là một vấn đề khó khăn phức tạp và đặc biệt quan trọng. Bởi vì, như Mác nói, hiệu quả của pháp luật hình sự phụ thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn của công tác xét xử. "Định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật" [7, tr. 7-8]; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; củng cố uy tín của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực tiễn xét xử những năm qua ở Việt Nam cho thấy, việc định tội danh vẫn còn không ít sai sót, dẫn đến những hậu quả tiêu cực. Bởi vậy, việc giải quyết vấn đề này cả về mặt lý luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng và đặc biệt cấp thiết, góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đó cũng chính là lý do để tác giả chọn đề tài: "Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu "Dấu hiệu định tội" là một nội dung quan trọng của luật hình sự, nó quyết định việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chính vì thế đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này dưới nhiều góc độ khác nhau, cả ở trong và ngoài nước như: ở Liên xô cũ có công trình như "Luật hình sự Nga và các bài giảng", Phần chung, tập 1, NXB. Khoa học, Maxcơva, 1994 của Viện sĩ Taganxev N.X; "Lý luận chung về định tội danh" Maxcơva, 1999 (tiếng Nga) 1
  6. của Viện sĩ, GS.TSKH luật Kudriavtxev A.N; "Lý luận chung về cấu thành tội phạm", NXB. Sách pháp lý, Maxcơva (tiếng Nga) của GS.TSKH. Luật Trannhin A.N … Ở Việt Nam, đã có các công trình nghiên cứu về vấn đề này như: "Tội phạm và cấu thành tội phạm" (Chương VI) - Sách Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, 1994 của PGS.TS. Trần Văn Độ; "Luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn", NXB. Công an nhân dân, 1997 của PGS.TS. Kiều Đình Thụ; "Cấu thành tội phạm, lý luận và thực tiễn", NXB. Tư pháp, 2004 của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa; "Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự" (Phần chung), NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 của GS.TSKH. Lê Cảm; "Tội giết người và đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", (Sách chuyên khảo), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2008 của TS. Đỗ Đức Hồng Hà... Tuy nhiên, trong các công trình trên chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về dấu hiệu định tội trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn xét xử ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm. - Từ mục đích như trên, luận văn có nhiệm vụ: 1) Đưa ra được khái niệm và phân loại dấu hiệu định tội. 2) Đánh giá đúng thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm. 3) Đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm… sát đúng và có tính khả thi cao. 2
  7. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn xét xử ở Việt Nam, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lí luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; những thành tựu của các ngành khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Tội phạm học… Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học… qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm. 6. Ý nghĩa của luận văn - Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các khái niệm, các đặc điểm cơ bản và phân loại dấu hiệu định tội theo quy định của luật hình sự Việt Nam, luận văn làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của dấu hiệu này. - Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta, đồng thời nêu và phân tích những vướng mắc, bất cập, thiếu sót xung quanh việc quy định về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất phương hướng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về dấu hiệu này trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3
  8. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về dấu hiệu đinh ̣ tô ̣i và dấu hiệu định tội thuô ̣c mă ̣t chủ quan của tô ̣i pha ̣m . Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Chương 3: Đánh giá thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm. 4
  9. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI THUỘC MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định tội Dấu hiệu định tội là những dấu hiệu đặc trưng điển hình, phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm của một tội phạm và để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Đó là những dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản của một tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Cũng như những hoạt động khác của con người trong xã hội, hành vi phạm tội luôn diễn ra theo một quá trình nhất định. Người cố ý phạm tội luôn mong muốn thực hiện đầy đủ quá trình đó để đạt được mục đích của mình. Nhưng trong thực tế, có những trường hợp vì nguyên nhân khách quan, người phạm tội đã không thực hiện được toàn bộ quá trình phạm tội mà phải dừng lại ở những thời điểm khác nhau. Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm, luật hình sự Việt Nam đã phân ra ba mức độ thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra đối với tội cố ý trực tiếp. Đối với tội cố ý gián tiếp hay vô ý chỉ có thể là trường hợp không mong muốn tội phạm xảy ra cho nên không thể quy định có việc "chuẩn bị" hay "chưa đạt" để buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về điều chưa xảy ra và họ cũng không mong muốn nó xảy ra. a. Dấu hiệu định tội trong tội phạm hoàn thành Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản sẽ là dấu hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người thực hiện và là trường hợp tội phạm hoàn thành. Tức là, đối với một tội danh, nhà làm luật mô tả trong 5
  10. các điều luật phần riêng dấu hiệu đặc trưng của tội phạm để làm cơ sở pháp lý cho việc xác định và phân biệt tội phạm này với tội phạm khác và có thể cả với trường hợp chưa phải là tội phạm. Mỗi một tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự đều phải có một cấu thành tội phạm cơ bản, trong cấu thành tội phạm có thể có nhiều trường hợp phạm tội được mô tả với các dạng hành vi phạm tội khác nhau hoặc với các đối tượng tác động khác nhau. Dựa vào cấu thành tội phạm có thể nhận thức được mô hình cấu trúc của một loại tội mà không có sự hiểu rộng ra hoặc hẹp đi và cũng không có sự nhầm lẫn giữa cấu trúc của tội này với cấu trúc của tội khác. Nội dung biểu hiện của các yếu tố cấu thành tội phạm được phản ảnh dưới dạng dấu hiệu của cấu thành tội phạm phải là những nội dung biểu hiện có tính đặc trưng của một loại tội. Cấu thành tội phạm cơ bản đồng thời cũng là sự phản ánh pháp lý bản chất xã hội của một loại tội phạm, cho nên những dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đòi hỏi phải thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của một loại tội. Như vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà làm luật khi lựa chọn những nội dung biểu hiện đặc trưng của bốn yếu tố cấu thành tội phạm để phản ánh trong cấu thành tội phạm là phải đảm bảo những dấu hiệu của cấu thành tội phạm vừa đủ cần thiết cho sự xác định ranh giới giữa tội phạm này với tội khác nhưng đồng thời cũng phải phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó. Thông thường, những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cần thiết để phân biệt tội phạm mà cấu thành tội phạm phản ánh với những tội phạm khác có thể cũng là những dấu hiệu thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội đó. Ví dụ: Ở tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự) nhà làm luật quy định dấu hiệu hành vi tước đoạt tính mạng người khác và dấu hiệu lỗi cố ý là những dấu hiệu đặc trưng đủ cho phép phân biệt tội giết người với những tội khác. Nhưng ta có thể thấy, nếu chỉ riêng những dấu hiệu đó thôi thì chưa đủ để thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội giết người, mà cần phải thêm dấu hiệu hậu quả chết người cùng dấu hiệu quan hệ nhân quả giữa hành vi tước đoạt tính mạng người khác và hậu quả chết người. Vì thế, 6
  11. trong cấu thành tội phạm tội giết người theo luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều có dấu hiệu hậu quả chết người. Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm hoàn thành được biểu hiện bằng lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) hay vô ý (vô ý do cẩu thả hoặc vô ý vì quá tự tin) nhưng cũng có thể bằng hai hình thức lỗi (lỗi cố ý với hành vi và lỗi vô ý với hậu quả do hành vi gây ra). Sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm là nhằm xác định hình thức lỗi của tội phạm được thực hiện và vai trò của lỗi trong việc định tội danh đối với tội phạm hoàn thành. Khi định tội danh đối với tội phạm hoàn thành trong mặt chủ quan của tội phạm, người định tội danh phải chứng minh được lỗi (cố ý hoặc vô ý) của chủ thể của tội phạm đó, tức là phải xác định được yếu tố lý trí và ý chí của người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tương ứng. Việc xác định rõ ràng và chính xác của mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện với hai hình thức lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự dựa trên các hình thức lỗi. TSKH Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa khoa học về vấn đề định tội danh đối với tội phạm hoàn thành, theo đó thì: Định tội danh đối với tội phạm hoàn thành là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự giống nhau giữa các dấu hiệu của hành vi ấy với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định [11, tr. 60]. Như vậy, khi xây dựng các cấu thành tội phạm cơ bản thì luôn phải có sự thống nhất giữa tội danh với sự mô tả trong cấu thành tội phạm. Trong trường hợp có những hành vi phạm tội khác nhau cùng được mô tả trong cấu thành tội phạm thì tội danh phải bao quát được hết các hành vi phạm tội khác nhau đó mà không thể lấy một hành vi phạm tội làm tội danh, cũng như 7
  12. không thể ghép tất cả các hành vi phạm tội đó thành tội danh. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, có nhiều vụ án mà người phạm tội chỉ có một hành vi phạm tội, nhưng tội danh đó bao hàm nhiều hành vi phạm tội? Vậy xác định tội danh cho người phạm tội đó như thế nào cho đúng, cho hợp lý thì đó không phải là điều dễ dàng đối với các nhà áp dụng pháp luật. b. Dấu hiệu định tội trong tội phạm chưa hoàn thành Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội phạm chưa hoàn thành là dấu hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người thực hiện và là trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Luật hình sự không chỉ coi hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm mà còn coi cả hành vi chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan là tội phạm. Để có sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đòi hỏi phải quy định những trường hợp phạm tội này dưới hình thức cấu thành tội phạm trong luật hình sự. Đó là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm tội chưa đạt. Hai cấu thành tội phạm này không quy định trực tiếp cho từng tội danh mà chúng được quy định trong các quy phạm thuộc Phần chung Bộ luật hình sự. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa phải là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm tội chưa đạt của tội phạm cụ thể. Cấu thành tội phạm này chỉ được hình thành trên cơ sở kết hợp cấu thành tội phạm của tội phạm cụ thể với quy định chung về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Bất cứ hành vi nào, không có ngoại lệ, đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì đều phải thỏa mãn những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm. Nếu đối chiếu hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt với chỉ riêng cấu thành tội phạm cơ bản thì hành vi này không thỏa mãn hoặc chưa thỏa mãn hết những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản. Nhưng nếu đặt cấu thành tội phạm cơ bản trong mối 8
  13. liên hệ với điều luật quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều thỏa mãn những dấu hiệu tổng hợp của cấu thành tội phạm cơ bản và của chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm. Sự tổng hợp những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản với những dấu hiệu của chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm chính là cấu thành tội phạm dự phòng cho cấu thành tội phạm cơ bản - cấu thành tội phạm của hành vi chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt. Cơ sở pháp lý duy nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt là sự thỏa mãn dấu hiệu của những cấu thành tội phạm dự phòng này. Đối với tội phạm chưa hoàn thành ở giai đoạn thứ nhất - chuẩn bị phạm tội, tội danh sẽ được xác định theo điều luật tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự về tội phạm cụ thể (tội phạm hoàn thành) với sự viện dẫn kèm theo điều luật về hành vi chuẩn bị phạm tội và quyết định hình phạt tại Phần chung Bộ luật hình sự (Điều 17 và Điều 52). Đối với tội phạm chưa hoàn thành ở giai đoạn thứ hai - phạm tội chưa đạt, tội danh được xác định theo điều luật tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự về tội phạm cụ thể (tội phạm hoàn thành) với sự viện dẫn kèm theo của điều luật về hành vi phạm tội chưa đạt và quyết định hình phạt tại Phần chung Bộ luật hình sự (Điều 18 và Điều 52) Tội phạm chưa hoàn thành chỉ đặt ra đối với các tội có lỗi cố ý vì tội phạm chưa hoàn thành là tội do cố ý không được thực hiện đến cùng trong toàn bộ quá trình thực hiện tội phạm, hoạt động phạm tội chỉ ở một trong hai giai đoạn (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) do những nguyên nhân khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người phạm tội. Theo nguyên tắc chung, người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng tội danh như trường hợp tội phạm hoàn thành theo cùng một điều luật và cùng trong phạm vi chế tài mà điều luật đó 9
  14. quy định. Tuy nhiên, luật hình sự không đặt trách nhiệm hình sự của người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ngang bằng với mức độ trách nhiệm hình sự của trường hợp phạm tội hoàn thành do đây là những trường hợp phạm tội với mức độ thực hiện phạm tội khác nhau vì thế mà mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau. TSKH Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa khoa học về định tội danh đối với tội phạm chưa hoàn thành như sau: Định tội danh đối với tội phạm chưa hoàn thành là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong hoạt động phạm tội sơ bộ trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự phù hợp ở một mức độ nhất định nào đó giữa các dấu hiệu của hành vi ấy trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc (và) giai đoạn phạm tội chưa đạt với các dấu hiệu của các cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm do Bộ luật hình sự quy định [11, tr. 93] . Khi định tội danh đối với hành vi phạm tội chưa hoàn thành, việc xác định đúng giai đoạn thực hiện tội phạm là việc làm rất quan trọng bởi vì với mỗi tội danh, nhà làm luật quy đinh thời điểm hoàn thành tội phạm không giống nhau. Ví dụ như trong "tội cướp tài sản" (Điều 133) thì tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có hành vi tấn công, dù người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay chưa, nhưng đối với một số tội phạm khác thì thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm người phạm tội lấy được tài sản khỏi nơi cất giữ. c. Dấu hiệu định tội trong đồng phạm Tội phạm có thể chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người cùng thực hiện. Khi có nhiều người cố ý cùng thực hiện tội phạm thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm. Trong luật hình sự Việt Nam, đồng phạm được coi là hình thức phạm tội đặc biệt. Các dấu hiệu được mô tả trong 10
  15. cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm là các dấu hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức thực hiện tội phạm. Theo luật hình sự Việt Nam, người bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự về một tội cố ý cụ thể bao gồm những người đã thực hiện hành vi phạm tội được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản và cả người có hành vi cố ý ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi phạm tội đó. Đó có thể là hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Để có cơ sở pháp lý cho việc cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự ba loại hành vi phạm tội - tổ chức, xúi giục và giúp sức thực hiện tội phạm, luật hình sự quy định bên cạnh cấu thành tội phạm cơ bản của mỗi tội phạm cố ý ba cấu thành tội phạm khác mô tả ba loại hành vi cần truy cứu trách nhiệm hình sự này. Như vậy, đối với mỗi loại tội phạm cố ý tồn tại bốn loại hành vi phạm tội khác nhau. Hành vi thực hiện tội phạm được phản ánh trực tiếp trong cấu thành tội phạm cơ bản, ba hành vi còn lại được phản ánh trong các cấu thành tội phạm bổ sung là cấu thành tội phạm của hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và cấu thành tội phạm của hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Khác với cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm bổ sung (đồng phạm) không được quy định trực tiếp cho từng tội danh. Dấu hiệu của hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức thực hiện tội phạm được quy định trong các quy phạm thuộc Phần chung Bộ luật hình sự. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa phải là cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm của tội phạm cụ thể. Cấu thành tội phạm này chỉ được hình thành trên cơ sở kết hợp cấu thành tội phạm của tội phạm cụ thể với quy định chung đó. Trong đồng phạm có các dấu hiệu đặc trưng về mặt chủ quan như: Phải có sự cùng cố ý của những người đồng phạm khi tham gia vào việc thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, tức họ đều biết hoạt động phạm tội của nhau. Mỗi người đồng phạm đều ý thức được rằng, bằng hành vi của mình cùng với hành vi của những người khác, họ đã phạm tội hoặc góp phần vào việc thực hiện 11
  16. tội phạm. Những người đồng phạm đều cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phạm tội chung xảy ra. Luật hình sự Việt Nam đã xác định, tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh, theo cùng một điều luật và trong phạm vi chế tài luật định. Trong đồng phạm, hành vi của những người tổ chức, xúi giục hay giúp sức dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự do vậy vẫn cần phải xác định tội danh đối với những người này. Có thể hiểu định tội danh đối với tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm là sự đánh giá về mặt pháp lý hành vi nguy hiểm cho xã hội do hai người trở lên cùng cố ý thực hiện. Trên cơ sở đối chiếu, so sánh để xác định sự phù hợp giữa các tình tiết trong hành vi của từng người đồng phạm với các dấu hiệu của các cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định, người định tội danh sẽ xác định tên tội mà những người đồng phạm đã cùng thực hiện. 1.1.2. Đặc điểm của dấu hiệu định tội Dấu hiệu định tội là dấu hiệu được mô tả trong các cấu thành tội phạm làm tiêu chí để xác định một người thực hiện hành vi: Phạm tội gì? Với vai trò như thế nào? Thực hiện tội phạm hay là tiến hành tổ chức, xúi giục hay giúp sức thực hiện hành vi phạm tội. Nếu có, thì thực hiện ở giai đoạn nào của tội phạm? Giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành. Các dấu hiệu định tội trong các trường hợp trên được người áp dụng pháp luật đối chiếu với các tình tiết thực tế của vụ án trong quá trình định tội danh cho hành vi phạm tội. Những tình tiết thực tế của hành vi phạm tội cụ thể đã xảy ra phù hợp với các dấu hiệu định tội được gọi là các tình tiết định tội. Nghiên cứu Bộ luật hình sự ta nhận thấy, dấu hiệu định tội có ở tất cả các cấu thành tội phạm cơ bản: Dấu hiệu chủ thể khi tội phạm đó đòi hỏi chủ thể đặc biệt: Như trong các tội phạm về chức vụ thì chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là người 12
  17. có chức vụ, quyền hạn. Chủ thể của những tội này ngoài hai dấu hiệu thông thường là độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, bắt buộc phải có dấu hiệu thứ ba là người có chức vụ, quyền hạn. Ví dụ trong tội tham ô (Điều 278 Bộ luật hình sự), chỉ những người có những dấu hiệu đặc biệt đã được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản mới có thể trở thành chủ thể của tội tham ô. Đó là những dấu hiệu có chức vụ, quyền hạn quản lí tài sản. Những người không có chức vụ, quyền hạn này chỉ có thể là đồng phạm trong tô ̣i tham ô với vai trò là người xúi giục, tổ chức hay giúp sức. Dấu hiệu hành vi khách quan: Hành vi khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Ví dụ: Hành vi khách quan của các tội phạm về ma túy (chương XXIV Bộ luật hình sự) tuy khác nhau về hình thức thể hiện, về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội nhưng giống nhau ở chỗ đều là hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy. Dấu hiệu lỗi (nội dung lỗi được quy định chung trong Phần chung của Bộ luật hình sự): Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu thành tội phạm nào. Ngoài ra còn có thể có dấu hiệu định tội khác và dấu hiệu này chỉ có ở một số tội phạm nhất định. Những dấu hiệu đó có thể là: 1) Đặc điểm của đối tượng tác động như dấu hiệu tài sản bị giao nhầm hoặc do tìm được, bắt được... là dấu hiệu định tội của tội chiếm giữ trái phép tài sản... 2) Đặc điểm của phương tiện phạm tội như dấu hiệu của đưa hối lộ phải là tiền, tài sản hoặc những lợi ích vật chất khác là dấu hiệu định tội của tội nhận hoặc đưa hối lộ...; 3) Đặc điểm của địa điểm phạm tội như dấu hiệu qua biên giới là dấu hiệu của tội buôn lậu... [65, tr. 215]. Hành vi được xác định là tội phạm thì các tình tiết, biểu hiện của nó phải được làm rõ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm để xử lý một cách thỏa đáng. Hơn nữa, khi quyết định hình phạt, tòa án "...cân nhắc tính chất và 13
  18. mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự" (Điều 45 Bộ luật hình sự). Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thực chất là việc xem xét và đánh giá các tình tiết tạo nên tính nguy hiểm của tội phạm. Những tình tiết đó có thể là tình tiết thuộc về hành vi phạm tội, thuộc về đối tượng tác động của tội phạm, thuộc về nhận thức, thái độ của người phạm tội đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc điểm riêng biệt, phẩm chất cá nhân của người phạm tội... Những tình tiết đó có thể được quy định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 46 thì "... Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ... ". Như vậy, để hiểu và vận dụng đúng thì cần có một khái niệm và chung thống nhất về các tình tiết trong Bộ luật hình sự. Các tình tiết hình sự bao gồm nhiều loại, nó phản ánh tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm; phản ánh điều kiện khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến hành vi phạm tội; phản ánh không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh tội phạm xảy ra. Mặt khác, các tình tiết của tội phạm còn phản ánh những đặc điểm nhất định, những phẩm chất cá nhân cũng như hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội... Các tình tiết định tội luôn gắn với sự kiện phạm tội, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội. Khi các tình tiết phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự sẽ cho phép xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, theo điều nào trong Bộ luật hình sự. Các tình tiết có vai trò quan trọng trong việc xác định và xử lý tội phạm. Các tình tiết hình sự được nhà làm luật sử dụng để phản ánh tội phạm, xây dựng những cấu thành tội phạm với những khung hình phạt khác nhau; xây dựng các quy định về các tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng trách nhiệm 14
  19. hình sự, phản ánh mức độ trách nhiệm hình sự khác nhau của các trường hợp phạm tội cụ thể (trong khung hình phạt). Đồng thời các tình tiết của tội phạm còn được nhà làm luật sử dụng để xây dựng các chế định liên quan đến tội phạm và hình phạt cũng như những nguyên tắc, đường lối xử lý tội phạm. Các tình tiết được nhà giải thích luật sử dụng để phân biệt các tội phạm khác nhau; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của các trường hợp phạm tội trong cùng loại tội; làm rõ mức độ nguy hiểm cũng như mức độ trách nhiệm hình sự của các trường hợp phạm tội cụ thể. Các tình tiết hình sự được người áp dụng pháp luật sử dụng làm căn cứ để định tội, định khung hình phạt cũng như để quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu thiếu những tình tiết cụ thể, những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến việc định tội danh, định khung hình phạt hay quyết định hình phạt không đúng, không phù hợp, làm cho hình phạt không đạt được mục đích khi áp dụng đối với người phạm tội. Trong Bộ luật hình sự, các tình tiết hình sự có sự biểu hiện hết sức đa dạng. Mỗi tình tiết có ý nghĩa cũng như mức độ phản ánh khác nhau. Mỗi tội phạm cụ thể bao giờ cũng là sự tổng hợp của nhiều tình tiết khác nhau. Đối với vụ án cụ thể cần phải xác định rõ vị trí, ý nghĩa pháp lý của mỗi tình tiết hình sự là tình tiết định tội, định khung hình phạt hay tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự để sử dụng chúng hợp lý. Vận dụng không đúng các tình tiết này có thể dẫn tới việc định tội hoặc định khung hình phạt sai. Sự phân biệt rõ các tình tiết là tình tiết định tội, tình tiết định khung hay tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ có ý nghĩa đối với tội phạm cụ thể. Một tình tiết có thể là tình tiết định tội của tội này nhưng lại là tình tiết định khung hình phạt của tội khác và đối với tội khác nữa nó lại chỉ là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" là tình tiết định tội của tội trộm cắp, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay nhiều tội phạm khác. Nhưng đối với tội cướp hay tội cướp giật tài sản, nó chỉ là tình tiết định khung tăng nặng (khoản 2 15
  20. Điều 133, Điều 135 Bộ luật hình sự). Còn đối với tội cố ý gây thương tích thì tình tiết " gây hậu quả nghiêm trọng" lại chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong vụ án thường có nhiều tình tiết, thậm chí có các tình tiết có ý nghĩa trái ngược nhau. Trường hợp vừa có tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" lại vừa có tình tiết "tự nguyện sửa chữa", "bồi thường thiệt hại" hoặc "khắc phục hậu quả"; hoặc trường hợp vừa có nhiều tình tiết tăng nặng nhưng đồng thời lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy, phải xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và ảnh hưởng của các tình tiết đối với tội phạm. Mỗi tình tiết cần được đánh giá riêng lẻ đồng thời còn phải được đánh giá tổng hợp trong mối quan hệ của toàn bộ vụ án. Bởi lẽ, tội phạm là thể thống nhất không thể chia cắt, tất cả các tình tiết - biểu hiện của tội phạm đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết thì tất cả các tình tiết đó đều phải được xem xét, đánh giá tổng hợp, các tình tiết có ý nghĩa trái ngược nhau thì phải xem xét xem tình tiết nào có ý nghĩa nhiều hơn. Sự khác nhau giữa tình tiết định tội, tình tiết định khung và tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là ở chỗ: Các tình tiết định tội, định khung chỉ riêng biệt cho từng tội phạm; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể áp dụng cho tất cả các tội hoặc cho nhiều tội khác nhau. Tình tiết định tội được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản của mỗi loại tội. Tình tiết định khung hình phạt được phản ánh trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ hay tăng nặng của mỗi loại tội. Còn tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định chung tại Điều 46 và Điều 48 Bộ luật hình sự. Đối với mỗi tội phạm cụ thể, tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không còn được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bởi vì, tình tiết khi đã được sử dụng (và sử dụng một cách triệt để) trong việc xử lý tội phạm thì nó không còn cơ sở để sử dụng cho lần tiếp theo. Nếu mỗi tình tiết của tội phạm lại được sử dụng hai lần hoặc nhiều 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2