intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Di chúc chung của vợ chồng

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

33
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở đó và từ thực tiễn áp dụng, đưa ra các nguyên nhân khi quy định trên bị bãi bỏ trong BLDS năm 2015, làm cơ cở, căn cứ cho sự cần thiết phải có trong pháp luật dân sự Việt Nam. Đồng thời, dựa vào đó để nghiên cứu đưa ra những giải pháp, đề xuất áp dụng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Di chúc chung của vợ chồng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRUNG THỊ QUỲNH ANH DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRUNG THỊ QUỲNH ANH DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG Chuyên ngành : Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS Phan Quốc Nguyên HÀ NỘI – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trung Thị Quỳnh Anh
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC CHUNG 7 CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm di chúc và di chúc chung của vợ chồng 7 1.1.1. Khái niệm di chúc 7 1.1.2. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng 12 1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ chồng 13 1.3. Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng 19 1.3.1. Điều kiện về mục đích và nội dung 19 1.3.2. Điều kiện về hình thức 23 1.4. Hiệu lực di chúc chung của vợ chồng 24 1.5. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật quy định về di 27 chúc chung của vợ chồng 1.5.1. Trước năm 1990 27 1.5.2. Từ năm 1990 đến năm 1995 31 1.5.3. Từ năm 1995 đến năm 2005 32 1.5.4. Từ năm 2005 đến năm 2015 33 1.5.5. Từ năm 2015 đến nay 34 Kết luận chương 1 35 Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 36 VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TẠI TOÀ ÁN VÀ NGUYÊN NHÂN KHI BÃI BỎ QUY ĐỊNH NÀY
  5. TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 2.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp về di chúc chung của vợ 36 chồng tại Toà án 2.2. Nguyên nhân khi bãi bỏ quy định về di chúc chung của vợ 52 chồng trong Bộ luật dân sự năm 2015 Kết luận chương 2 66 Chương 3: SỰ CẦN THIẾT CỦA DI CHÚC CHUNG 67 CỦA VỢ CHỒNG VÀ KIẾN NGHỊ ÁP DỤNG TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 3.1 Sự cần thiết của di chúc chung của vợ chồng trong pháp 67 luật dân sự Việt Nam 3.2. Kiến nghị áp dụng trong pháp luật dân sự Việt Nam 78 Kết luận chương 3 86 KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự LHNGĐ: Luật hôn nhân và gia đình TAND: Toà án nhân dân
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thừa kế là một trong những chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Dọc theo chiều dài lịch sử thế giới, từ nhà nước chủ nô đến nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được hình thành, vấn đề thừa kế luôn được coi trọng và là một trong những vấn đề cốt lõi của mỗi nhà nước, là hình thức chủ yếu để bảo vệ các quyền công dân. Ngoài ra, quyền thừa kế chính là sự thể hiện quyền tự định đoạt tài sản của mình trước khi chết bằng việc chuyển tài sản của mình cho người còn sống, quyền và nghĩa vụ của người sống đối với khối di sản của người chết, là động lực để các cá nhân lao động, sáng tạo tích luỹ tài sản mà không phải lo sợ sau khi mình chết đi, khối tài sản đó sẽ không được để lại theo ý muốn của bản thân hoặc cho những người thân của mình. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Đối với hình thức thừa kế theo di chúc, đây chính là sự thể hiện ý chí của người chết đối với khối di sản của mình, được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Ngoài việc các cá nhân để lại di sản của mình thông qua thừa kế theo di chúc thì pháp luật Việt Nam trước đây cũng đã quy định về di chúc chung của vợ chồng. Nguyên nhân của quy định này là do quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, do vậy khuyến khích việc vợ chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Chính vì lẽ đó, ngay từ nhà nước Đại Việt thời Lê Sơ, Bộ luật Quốc Triều hình luật hay Bộ luật Hồng Đức đã ghi nhận khả năng vợ chồng “cùng lập di chúc chung”. Tiếp đó, “việc dùng chúc thư chung để sử dụng gia sản” đã được bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 công nhận. Sau năm 1975, pháp luật nước ta cũng đã có quy 1
  8. định cho loại di chúc này, từ Thông tư số 81 năm 1981 của TAND tối cao đến BLDS năm 2005 [3]. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 đang có hiệu lực được Quốc hội thông qua vào ngày 24/11/2015 với tên gọi là Luật số 91/2015/QH13 đã không giữ lại những quy định về di chúc chung của vợ chồng. Sau một thời gian BLDS năm 2015 được áp dụng trong thực tiễn, dù các nhà làm luật đã đưa ra những hướng xử lý khi không còn quy định về di chúc chung của vợ chồng nhưng đó cũng không phải cách giải quyết triệt để và hiệu quả, đồng thời phủ nhận những ưu việt của di chúc chung của vợ chồng và được người viết phân tích cụ thể tại phần sau của luận văn. Do vậy, tôi lựa chọn đề tài:"Di chúc chung của vợ chồng" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến nội dung di chúc chung của vợ chồng thì đã có nhiều khoá luận tốt nghiệp, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan. Nhiều công trình nghiên cứu có đề cấp đến vấn đề này đã được công bố như: các bài viết đăng trên các tạp chí về luật học như: “Một số trao đổi về di chúng của một bên vợ, chồng định đoạt tài sản chung” của tác giả Hoàng Tuấn Trọng và Nguyễn Thị Thuý Hương đăng trong Tạp chí Toà án nhân dân số 05/2010, “Những bất ngờ và hướng xử lý khi không còn quy định về di chúc chung của vợ chồng” của PGS.TS. Đỗ Văn Đại đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp Số 05/2016…, luận văn thạc sĩ luật học“Di chúc chung của vợ, chồng trong pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tuyên bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011, luận văn thạc sĩ luật học “Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng” của tác giả Bùi Văn Lợi bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội 2
  9. năm 2014, luận văn thạc sĩ “Di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Thu Hiền bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội năm 2010, luận văn thạc sĩ “Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Đinh Thuỳ Dung bảo vệ tại Học viện khoa học xã hội năm 2018. Các công trình nói trên chỉ tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn của di chúc chung của vợ chồng, tuy có luận văn thạc sĩ “Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam”của tác giả Đinh Thuỳ Dung có đề cập đến việc di chúc chung của vợ chồng không còn được quy định trong BLDS năm 2015, nhưng luận văn chưa làm rõ nguyên nhân, hướng xử lý khi bãi bỏ quy định về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS năm 2015 của các nhà làm luật và đưa ra những cơ sở về sự cần thiết phải có quy định về di chúc chung của vợ chồng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Đối với công trình nghiên cứu của PGS.TS Đỗ Văn Đại có đề cập đến những vấn đề nêu trên, tuy nhiên với sự hạn chế là một bài viết trên tạp chí về luật học cũng không thể đi sâu và truyền tải hết được nội đung. 3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu Pháp luật về di chúc chung của vợ chồng tuy không phải là một lĩnh vực quá rộng lớn và phức tạp nhưng được quy định trong các văn bản trước đây đã hết hiệu lực do các văn bản pháp luật hiện hành không còn quy định. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ được giới hạn trong các văn bản pháp luật quy định về di chúc chung của vợ chồng như: BLDS năm 2005, BLDS năm 1995, LHNGĐ năm 2000… Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề lý luận về di chúc chung của vợ chồng được pháp luật Việt Nam quy định qua các thời kỳ. Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả mong muốn cung cấp cho người đọc một cách tổng thể các quy định về di 3
  10. chúc chung của vợ chồng. Trên cơ sở đó và từ thực tiễn áp dụng, đưa ra các nguyên nhân khi quy định trên bị bãi bỏ trong BLDS năm 2015, làm cơ cở, căn cứ cho sự cần thiết phải có trong pháp luật dân sự Việt Nam. Đồng thời, dựa vào đó để nghiên cứu đưa ra những giải pháp, đề xuất áp dụng. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, luận văn cần phải giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất, đề cập khái quát một số vấn đề lý luận về di chúc chung của vợ chồng và trình bày tổng quát việc hình thành các quy định về di chúc chung của vợ chồng trong quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. Thứ hai, từ thực trạng giải quyết tranh chấp về di chúc chung của vợ chồng tại Toà án để phân tích và đánh giá, từ đó đưa ra những nguyên nhân khi bãi bỏ quy định về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS năm 2015 của các nhà làm luật. Thứ ba, sự cần thiết phải có quy định về di chúc chung của vợ chồng và hướng xử lý khi không còn quy định này trong BLDS năm 2015. Trên cơ sở đó, sẽ giải quyết câu hỏi di chúc chung của vợ chồng sẽ được quy định như thế nào trong pháp dân sự Việt Nam để phù hợp với thực tiễn đặt ra. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó, người viết đặt các vấn đề về di chúc chung của vợ chồng trong mối liên hệ, quan hệ với nhau, không nghiên cứu một cách riêng lẻ đồng thời có sự so sánh khi quy định này được áp dụng trong các văn bản đã hết hiệu lực cũng như đang có hiệu lực. 4
  11. Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về di chúc chung của vợ chồng và sự cần thiết của quy định này trong pháp luật dân sự Việt Nam. Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét nguyên nhân dẫn đến việc bãi bỏ quy định về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS năm 2015 hiện hành, việc đưa ra hướng xử lý của các nhà làm luật có hợp lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác để đưa ra những đề xuất áp dụng. Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến di chúc chung của vợ chồng, đặc biệt là hướng đề xuất áp dụng. Cụ thể như trên cở sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận trong khoa học pháp lý của vấn đề di chung của vợ chồng, nguyên nhân, hướng xử lý khi bãi bỏ quy định về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS năm 2015 và sự cần thiết của quy định này trong pháp luật dân sự Việt Nam. Cụ thể: Xây dựng được khái niệm và đưa ra những nội dung cơ bản về di chúc chung của vợ chồng, từ thực trạng giải quyết tranh chấp về di chúc chung của vợ chồng tại Toà án để phân tích và đánh giá, từ đó đưa ra những nguyên nhân khi bãi bỏ quy định về di chúc chung của vợ chồng trong BLDS năm 2015 của các nhà làm luật. 5
  12. Làm rõ được sự cần thiết phải có quy định về di chúc chung của vợ chồng và hướng xử lý khi không còn quy định này trong BLDS năm 2015, qua đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về di chúc chung của vợ chồng tại Việt Nam. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật về thừa kế nói chung và di chúc chung của vợ chồng nói riêng ở Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Cơ sở lý luận về di chúc chung của vợ chồng Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp về di chúc chung của vợ chồng tại Toà án và nguyên nhân khi bãi bỏ quy định này trong Bộ luật dân sự năm 2015 Chương 3: Sự cần thiết của di chúc chung của vợ chồng và kiến nghị áp dụng trong pháp luật dân sự Việt Nam 6
  13. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm di chúc và di chúc chung của vợ chồng 1.1.1. Khái niệm di chúc Như đã nêu ở trên, thừa kế chính là sự thể hiện quyền tự định đoạt tài sản của mình trước khi chết, quyền và nghĩa vụ của người sống đối với khối di sản của người chết. Có thể nói ý nguyện của người đã chết là điều cần phải được tôn trọng và cho dù pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật nhưng thừa kế theo di chúc vẫn được ưu tiên áp dụng, chỉ khi thuộc một trong các trường hợp thừa kế theo pháp luật thì mới áp dụng thừa kế theo pháp luật. Thuật ngữ “Di chúc” được hình thành từ rất sớm và từng được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như “Chúc thư, văn khế, lời dặn …”. Tại Điều 366 (25) Bộ luật Hồng Đức quy định rằng “Những người làm chúc thư văn khế mà không nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến, thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì được”; mặc dù bộ luật có đề cập đến khái niệm Chúc thư nhưng không có quy định nào làm rõ về hành vi pháp lý từ khái niệm Chúc thư văn khế là gì, cho đến các vấn đề khác về chủ thể, đối tượng, tạo lập, điều kiện, hiệu lực…[28]. Cũng tại Điều thứ 320, Điều thứ 321 Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 quy định “Người cha được lập ra chúc thư để xử trí tài sản của mình tuỳ theo ý mình …”, “Người nào đã thành niên, hoặc đã thoát quyền mà có đủ trí khôn, thì đều có tư cách được di chúc và lập ra chúc thư để xử trí về tất cả tài sản của mình…” chỉ đưa ra mục đích của việc lập chúc thư mà chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh nào. Tuy nhiên, trong phần Danh từ giải nghĩa của cuốn sách đã đưa ra “Chúc thư là tờ dặn lại, giối lại, nghĩa là cái thư của người trước khi lâm chung đã làm thành 7
  14. khoản ước để làm bằng cứ mà để lại của cải cho cháu về sau” [6]. Ngoài ra, “Chúc thư là văn bản chính thức ghi những ý muốn của một người, đặc biệt là xử lý những tài sản của mình sau khi chết” [26]. Theo từ điển tiếng Việt, di chúc được hiểu là lời dặn lại trước khi chết những việc người sau cần làm và nên làm [27]. Từ xa xưa, di chúc là những lời căn dặn của người chết đối với con cháu cách sống, phải yêu thương lẫn nhau, giao các nghĩa vụ đạo đức cho họ… Như vậy, di chúc ở đây không nhằm chuyển dịch bất cứ loại tài sản nào của người chết nhưng nó có ý nghĩa nhất định về mặt tinh thần đối với những người còn sống. Đây là loại di chúc khá phổ biến, nó được thể hiện ở lời căn dặn của người chết với những con cháu và được con cháu nghe theo. Nói đến loại di chúc này, chúng ta không thể không nhắc đến Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Bác viết lần đầu năm 1965 và hoàn thành năm 1969. Di chúc của Bác được công bố đến nay đã tròn nửa thế kỷ nhưng vẫn như ngọn đuốc soi đường cho dân tộc. Để từ đó, ta thấy được giá trị không thể thay thế của loại di chúc này. Tuy nhiên, xét theo góc độ pháp lý, những di chúc này không thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự do nghĩa vụ được đề cập đến trong di chúc này là nghĩa vụ tự nhiên, dù họ không thực hiện cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý, nghĩa là khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến di chúc loại này, pháp luật sẽ không can thiệp, việc giải quyết tranh chấp này chủ yếu là sự phê phán, lên án của xã hội của dòng họ hay của gia đình. Pháp luật chỉ được xem xét trong trường hợp này khi các tranh chấp đó dẫn đến các bên xảy ra xung đột và có dấu hiệu của vi phạm pháp luật. Căn cứ pháp lý được áp dụng để giải quyết xung đột trong trường hợp này không phải là các quy phạm pháp luật thừa kế trong pháp luật dân sự mà là các quy phạm thuộc các ngành luật khác có liên quan ví dụ như hình sự hay hành chính. 8
  15. Từ BLDS năm 1995 (Điều 649) đến BLDS năm 2005 (Điều 646) và hiện nay là BLDS năm 2015 (Điều 624) đều quy định “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Việc điều luật quy định từ “người khác” ở đây không chỉ theo ý hiểu thông thường là một cá nhân, một con người mà được hiểu theo nghĩa rộng đó có thể còn là một tổ chức. Theo đó, người lập di chúc dựa vào ý chí chủ quan của mình định đoạt cho bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào mà họ muốn được hưởng di sản sau khi mình qua đời. Việc pháp luật dân sự quy định về sự định đoạt tài sản của mình trong di chúc không làm triệt tiêu đi lời dặn dò con cháu, người thân của họ hay những nghĩa vụ tự nhiên như đã nêu trên. Đối với phần nội dung của di chúc quy định về việc chuyển tài sản sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, phần còn lại sẽ không bị vô hiệu trong di chúc mà không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Di chúc theo loại này có các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc Chủ thể lập di chúc là cá nhân mà không phải chủ thể khác, do pháp luật quy định cụ thể cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc được thể hiện “việc lập di chúc cũng như việc kết hôn không thể thực hiện bằng lối ủy quyền. Không ai có thể ủy quyền cho người khác để thay mình lập chúc thư mà pháp luật cũng không có quyền chỉ định một thụ ủy luật định để lập chúc thư thay thế một người khác” [5]. Người lập di chúc có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai không phụ thuộc vào quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng, thân thích hay hôn nhân với người lập di chúc và có quyền cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật. Như vậy, việc có lập di chúc 9
  16. hay không, trong di chúc chỉ định ai được hưởng di sản, được hưởng bao nhiêu, truất quyền thừa kế của ai… đều do người để lại di chúc quyết định mà không cần thoả thuận bàn bạc, trao đổi hay thống nhất với người khác và cũng không ai có quyền can thiệp vào. Di chúc là một giao dịch dân sự thể hiện dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương. Khác với khế ước là một hợp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển hữu, tác động hay bất tác động. Phản chiếu một sự ưng thuận, khế ước đòi hỏi ít nhất sự hiện diện của hai người trái chủ và phụ trái. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt những khế ước ký chính với đích thân mình (le contrat envers soi même), (tiếng Đức seldst conltrakt). Song, sự thực đây chỉ là một kỹ thuật pháp lý đặc biệt để che đậy quyền lợi của hai người riêng biệt … [12]. Thứ hai, mục đích của việc lập di chúc là để chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết Như đã phân tích ở trên, xét theo góc độ pháp lý, những di chúc không nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự do nghĩa vụ được đề cập đến trong di chúc này là nghĩa vụ tự nhiên. Có thể nói, đây là đặc điểm quan trọng nhất của di chúc bởi lẽ đó là sự hướng đến của người lập di chúc, là cơ sở để chuyển tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi chết. Thông qua di chúc, người để lại thừa kế thể hiện quyền tự định đoạt tài sản của mình và có ý nghĩa về mặt vật chất đối với người được thừa kế. Như vậy, quyền sở hữu đối với tài sản của người chết sẽ không bị mất đi mà chỉ chuyển từ người này sang người khác, đời này sang đời khác, không những vậy còn có thể làm tăng giá trị của tài sản, tạo tiền đề cho sự phát triển không những của chính bản thân họ mà còn của đất nước. Việc pháp luật dân sự ghi nhận và tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản 10
  17. của người lập di chúc cũng chính là việc bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản của họ dã được quy định tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013. Thứ ba, di chúc có hiệu lực khi người lập di chúc chết. Di chúc là một giao dịch dân sự được thể hiện dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương. Cũng là giao dịch dân sự nhưng hợp đồng là sự thể hiện ý chí của hai bên và có hiệu lực từ thời điểm giao kết (trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác) thì di chúc là sự thể hiện ý chí của một bên và “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế” (Khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2015), tức thời điểm người có tài sản chết. Như vậy, dù người để lại di sản đã lập di chúc nhưng vẫn còn sống thì người thừa kế theo di chúc cũng chưa được chuyển tài sản hay không có bất kỳ quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc và họ cũng không thể chắc chắn sẽ được nhận tài sản người lập di chúc. Khi người lập di chúc chết thì họ mới được hưởng di sản thừa kế vì người lập di chúc còn sống họ vẫn có quyền định đoạt khối di sản của mình cho ai, cho họ bao nhiêu tài sản trong khối di sản, truất quyền thừa kế của ai … Tuy nhiên, trên thực tế khi lập di chúc thì người để lại di chúc vì lý do nào đó chưa muốn người thừa kế hưởng di sản ngay khi mở thừa kế mà muốn họ chỉ được hưởng di sản khi đạt được những điều kiện nhất định, làm được một số điều kiện, nghĩa vụ nhất định mà người lập di chúc đặt ra. Khi đó di chúc trở thành di chúc có điều kiện. Tại Điều thứ 334 Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 quy định “Người được tặng dữ mà không thi hành những điều kiện của người lập chúc thư đã bắt buộc mình, thì sẽ bị bãi mất của tặng dữ ấy”. Mặc dù pháp luật hiện hành không có quy định ở một điều luật cụ thể nhưng chúng ta có thể hiểu các nhà lập pháp “ngầm” chấp nhận di chúc có điều kiện với nội dung ở Khoản 2 Điều 631 BLDS năm 2015 thì di chúc có thể có các nội dung khác ngoài Khoản 1 Điều 631 BLDS năm 2015. Vấn đề đặt ra đối với di chúc này là hiệu lực được xác 11
  18. định như thế nào, có giống như hiệu lực của di chúc thông thường hay có sự khác biệt như đáp ứng cả điều kiện cần và đủ là người lập di chúc chết và khi đã thực hiện điều kiện trong di chúc. Do vậy, để đáp ứng các nhu cầu từ thực tiễn cần có những có những quy định cụ thể hơn về loại di chúc này. Từ những phân tích trên, di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản được thể hiện dưới một hình thức nhất định do pháp luật quy định để chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. 1.1.2. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng Di chúc chung của vợ chồng là một loại di chúc đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó thể hiện trong các quy định về chủ thể, nội dung, ý nghĩa, hình thức… nhưng lại không được pháp luật quy định rõ. Cụ thể, di chúc chung của vợ chồng chỉ quy định ở ba điều luật duy nhất là Điều 666, Điều 667, Điều 671 BLDS năm 1995, cũng ở ba điều luật duy nhất là Điều 663, Điều 664, Điều 668 BLDS năm 2005 và không còn được quy định trong BLDS năm 2015 nhưng nội hàm của điều luật ấy lại liên quan đến nhiều điều luật khác trong cùng Bộ luật và cả những điều luật thuộc văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam như LHNGĐ, Luật đất đai... Nhìn vào hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, theo từng quan điểm lập pháp chúng ta thấy có sự khác nhau rõ rệt về quy định di chúc chung của vợ chồng trong BLDS các quốc gia. Theo đó, các nhà làm luật tại Pháp đã thể hiện rõ trong BLDS Cộng hoà Pháp không chấp nhận vấn đề di chúc chung của vợ chồng. Tại Điều 968 BLDS Cộng hoà Pháp năm 1804 quy định: “Hai hoặc nhiều người không thể làm chung một di chúc để lại tài sản cho một người thứ ba hoặc để lại tài sản cho nhau”. Tuy rằng pháp luật của Pháp tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản nhưng lại hạn chế một số trường hợp định đoạt tài sản này, được thể hiện qua việc không cho phép, cấm vợ chồng lập di chúc chung dù cho để lại tài sản cho nhau. 12
  19. Cũng giống như pháp luật dân sự của Pháp, pháp luật dân sự của Nhật Bản, pháp luật dân sự của Thái Lan, pháp luật dân sự của Thuỵ Sỹ cũng không quy định di chúc chung của vợ chồng. Về khía cạnh lập pháp, việc xây dựng pháp luật của mỗi quốc gia phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ lập pháp của quốc gia đó. Do vậy, trên thực tế khó có thể áp dụng nguyên vẹn một hệ thống pháp luật của một quốc gia vào một quốc gia khác và chúng ta còn chưa nói đến việc ngay trong cùng một quốc gia cũng có thể có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, ví dụ như Trung Quốc. Việc quốc gia này quy định một vấn đề mà quốc gia khác không quy định là điều dễ hiểu và đương nhiên. Do vậy có những quốc gia vẫn quy định di chúc chung của vợ chồng trong hệ thống pháp luật của mình như Cộng hoà liên bang Đức. Như đã nêu trên, di chúc chung của vợ chồng chỉ được quy định trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, tuy nhiên trong hai bộ luật dân sự này đều không định nghĩa thế nào là “di chúc chung của vợ chồng” mà đều chỉ quy định “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Từ khái niệm “di chúc” đã đưa ra và theo quy định của pháp luật thì di chúc chung của vợ chồng là ý chí chủ quan và thống nhất chung của vợ chồng được thể hiện dưới một hình thức nhất định do pháp luật quy định để chuyển tài sản chung hợp nhất của vợ chồng cho người khác sau khi chết. 1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ chồng Là một loại di chúc đặc biệt nên di chúc chung của vợ chồng cũng mang những đặc điểm của di chúc thông thường đã nêu trên là hành vi pháp lý đơn phương nhằm để chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết và di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm người lập di chúc chết. Tuy nhiên, do xuất phát từ tính chất đặc biệt nên di chúc chung của vợ chồng mang những đặc điểm riêng sau: 13
  20. Thứ nhất, di chúc chung của vợ chồng thể hiện ý chí đơn phương của vợ chồng, là hai cá nhân nhưng cùng chung m ột ý chí Đối với giao dịch dân sự là hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên phải tự nguyện thoả thuận với nhau về nội dung của hợp đồng. Việc vợ chồng lập di chúc chung của vợ chồng là một hành vi pháp lý đơn phương và cũng là giao dịch dân sự nhưng chỉ thể hiện ý chí đơn phương của một bên lập di chúc đó là vợ chồng, hai cá nhân độc lập. Ý chí đơn phương là điểm khác biệt của di chúc cụ thể hơn là di chúc chung của vợ chồng so với giao dịch dân sự khác, nó được thể hiện ở việc vợ, chồng toàn quyền tự định đoạt tài sản chung của mình cho bất kỳ ai, cho ai bao nhiêu, cho nhiều hay ít, mục đích sử dụng tài sản chung khác như có để lại một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, hay những vấn đề khác không phải định đoạt di sản như giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện ý chí chủ quan của vợ, chồng nhưng đã được thống nhất và không bị chi phối bởi ý kiến của bất kỳ ai. Vợ chồng khi lập di chúc chung tự quyết định việc để lại di sản cho bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào và người được hưởng thừa kế không bắt buộc phải có quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng đối với họ. Đây là sự thể hiện quyền tự định đoạt tài sản của cá nhân và ở đây là vợ chồng, hai cá nhân độc lập được pháp luật tôn trọng. Thứ hai, di chúc chung của vợ chồng được lập trong khi quan hệ hôn nhân còn hiệu lực Từ khái niệm “di chúc chung của vợ chồng” đã nêu trên thì chủ thể lập di chúc chung của vợ chồng phải là “vợ chồng” mà không phải là một cá nhân riêng lẻ. Khi đó, di chúc phải do đồng thời cả người vợ và người chồng cùng 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2