intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Điều kiện bảo hộ sáng chế theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

34
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Điều kiện bảo hộ sáng chế theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH TRANG §IÒU KIÖN B¶O Hé S¸NG CHÕ THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH TRANG §IÒU KIÖN B¶O Hé S¸NG CHÕ THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN MINH TRANG \
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SÁNG CHẾ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ ........................................................................ 4 1.1. Khát quát chung về sáng chế............................................................. 4 1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 4 1.1.2. Đặc điểm sáng chế................................................................................ 6 1.2. Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác ................................ 8 1.2.1. Phân biệt sáng chế với phát minh......................................................... 8 1.2.2. Phân biệt sáng chế với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích...................... 10 1.2.3. Phân biệt sáng chế với bí mật kinh doanh.......................................... 11 1.3. Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế .................................................................... 13 1.3.1. Khái niệm điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế .............................................................................................. 13 1.3.2. Vai trò của điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế .............................................................................................. 20 1.3.3. Điều kiện bảo hộ sáng chế theo Điều ước quốc tế và pháp luật một số quốc gia trên thế giới .............................................................. 24 Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 31 \
  5. Chương 2: NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ ........... 32 2.1. Phạm vi các đối tượng được bảo hộ sáng chế ................................ 32 2.1.1. Sáng chế là giải pháp kỹ thuật............................................................ 32 2.1.2. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.................... 35 2.2. Điều kiện có tính mới ....................................................................... 39 2.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 39 2.2.2. Cách xác định ..................................................................................... 41 2.3. Điều kiện có trình độ sáng tạo ......................................................... 48 2.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 48 2.3.2. Cách xác định ..................................................................................... 50 2.4. Điều kiện có khả năng áp dụng công nghiệp ................................. 57 2.4.1. Khái niệm ........................................................................................... 57 2.4.2. Cách xác định ..................................................................................... 60 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 63 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT......................................................................... 64 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế ............................................................................................. 64 3.1.1. Những kết quả đạt được ..................................................................... 64 3.1.2. Những tồn tại, hạn chế ....................................................................... 69 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế ................................................................................. 76 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản về điều kiện kiện bảo hộ sáng chế ...... 76 3.2.2. Tăng cường hiệu quả của hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ........... 79 \
  6. 3.2.3. Nâng cao nhận thức về bảo hộ quyền công nghiệp đối với sáng chế ....... 80 3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao các hoạt động hỗ trợ, bổ trợ, hợp tác quốc tế ................................................................................... 81 Kết luận chương 3 ......................................................................................... 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87 \
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển khoa học và công nghệ (KH & CN) cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước. Mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ KH & CN trong cả nước, tiềm lực KH & CN đã được tăng cường, KH & CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, trình độ KH & CN của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực; năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH & CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của KH & CN và kinh tế tri thức trên thế giới. Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH & CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên, một trong những biện pháp mà Đảng và nhà nước ta đang thực hiện là khuyến khích hoạt động sáng tạo thông qua hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế. Ý nghĩa căn bản của việc bảo hộ độc quyền sáng chế là nó tạo ra động lực kích thích phát triển kinh tế, công nghệ và thúc đẩy cạnh tranh thông qua 1
  8. việc tác động đến động lực tài chính của hoạt động sáng tạo. Tuy nhiên, độc quyền sáng chế không được trao trên cơ sở tích cực lao động hay chi phí sáng tạo lớn mà được cấp trên cơ sở những điều kiện hết sức nghiêm ngặt về tính mới, tính sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Do vậy, việc xây dựng một hệ thống điều kiện bảo hộ sáng chế hợp lý trong pháp luật của quốc gia có thể coi là chìa khóa để khởi động quy trình sáng tạo và thông qua đó kích thích sự phát triển kinh tế. So với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, lịch sử hình thành và xây dựng pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ độc quyền sáng chế nói riêng ở nước ta còn tương đối non trẻ. Khởi đầu từ Nghị định số 31/CP ngày 23-01-1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và sáng chế đến Luật sở hữu trí tuệ năm 2006, các quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế ở nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế đang có bước chuyển mình mạnh mẽ sang thời kỳ hậu công nghiệp, nền kinh tế trí thức đang dần được hình thành thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ sáng chế nói riêng càng quan trọng. Có thể nói số lượng đơn đăng ký bảo hộ sáng chế và số bằng sáng chế đã được cấp đã trở thành một tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển khoa học công nghệ cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế của một quốc gia. Với ý nghĩa thực tiễn và lý luận quan trọng đó, tác giả chọn đề tài Điều kiện bảo hộ sáng chế theo quy định pháp luật Việt Nam là đề tài luận văn của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế. 2
  9. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Làm rõ bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế, vai trò của nó trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế cũng như ý nghĩa của nó đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật ở nước ta. - Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế và sử dụng sáng chế của Việt Nam, đồng thời có sự so sánh tương quan thực tiễn bảo hộ sáng chế với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác. - Dựa trên sự phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả tìm ra nguyên nhân và đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó góp phần vào việc gia tăng các đơn đăng ký bảo hộ độc quyền sáng chế ở Việt Nam 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Đồng thời, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn khi nghiên cứu đề tài này. 5. Kết cấu của Đề tài Chương 1. Lý luận chung về sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế Chương 2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện bảo hộ đối với sáng chế Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế và một số giải pháp hoàn thiện 3
  10. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ SÁNG CHẾ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ 1.1. Khát quát chung về sáng chế 1.1.1. Khái niệm Sáng chế là một khái niệm dùng để chỉ những giải pháp kỹ thuật mới do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Trong đó, giải pháp kỹ thuật được hiểu là một phương thức để giải quyết một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực kỹ thuật hoặc có thể hiểu giải pháp kỹ thuật là cơ cấu, phương pháp hay chất mới hay sử dụng cơ cấu, phương pháp cũ theo chức năng mới [30, tr. 116], nó được thể hiện dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình giải quyết một vấn đề được xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [3, Điều 4]. Nói một cách khác, giải pháp kỹ thuật hướng đến mục tiêu làm chủ thiên nhiên của con người. Một đối tượng sẽ được coi là giải pháp kỹ thuật nếu nó tạo điều kiện cho con người khai thác thế giới tự nhiên và thông qua đó thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. Quá trình này có thể được diễn ra bằng cách tận dụng các nguồn lực hoặc các quy luật của tự nhiên như bằng cách tác động trực tiếp vào thiên nhiên. Cùng với những tiến bộ và sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật thế giới, khái niệm sáng chế cũng đang được liên tục mở rộng. Sáng chế không đơn giản chỉ bao hàm các công cụ, máy móc hữu hình mà còn là cả các quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật của tự nhiên. Thậm chí, ở một số quốc gia, khái niệm sáng chế đã được mở rộng ra đến mức vượt ra khỏi quan điểm truyền thống về “bản chất kỹ 4
  11. thuật” của sáng chế vốn đã được biết đến rộng rãi ở các nước. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, phương pháp kinh doanh được coi là sáng chế và được bảo hộ độc quyền. Theo kết quả tổng kết của cơ quan sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), số các giải pháp kinh doanh được cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ năm 1996 là 700. Đến năm 2000, con số này đã lên đến 2600. Kể từ ngày 1/8/2000, Hàn Quốc cũng đã chính thức thừa nhận phương pháp kinh doanh như là một đối tượng có khả năng được bảo hộ sáng chế… Dưới góc độ pháp luật quốc tế, sáng chế với tên tiếng Anh là Invention, theo tài liệu do WIPO phát hành được định nghĩa: “Sáng chế là sản phẩm mới hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật” [25]. Dưới góc độ khoa học pháp lý, Từ điển Luật học có định nghĩa: “Sáng chế được hiểu là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội” [32, tr. 665]. Ngoài ra, theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, sáng tạo và áp dụng được” [34]. Dưới góc độ pháp luật thực định Tại Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 định nghĩa: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên” [32, Điều 4, Khoản 12]. Quy định này giống như các văn bản pháp luật trước đó quy định về khái niệm sáng chế thì sáng chế phải là một giải pháp kỹ thuật, tức là phải góp phần giải quyết một số vấn đề kỹ thuật cụ thể. Tuy nhiên, khái niệm trong Luật SHTT năm 2005 đã bổ sung thêm dạng thức thể hiện của sáng chế đó là sản phẩm hoặc quy trình và phải nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Ví dụ: Việc tìm ra chất kháng sinh chưa phải là một sáng chế vì chất này có sẵn trong tự nhiên và không là giải pháp cho một vấn đề cụ thể. 5
  12. Nhưng nếu dùng chất đó để tạo ra thuốc kháng sinh Penicilin thì việc làm này nhằm mục đích chữa bệnh, và loại thuốc này được coi là sáng chế. Như vậy, dưới các góc độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, nhưng suy cho cùng sáng chế được tồn tại chủ yếu thông qua 02 dạng của giải pháp kỹ thuật là sản phẩm và quy trình, thông qua đó, chúng đã tạo điều kiện cho xã hội loài người trải qua những bước phát triển tột bậc, ngày càng văn minh và hiện đại. Có thể nói, sáng chế là đó sự thỏa thuận của xã hội đối với các nhà phát minh [35, tr. 131]. Theo đó, trong một thời hạn nhất định, “nhà phát minh” được độc quyền ngăn cấm người khác không được sao chép, sử dụng hoặc bán một sáng chế đã được cấp văn bằng bảo hộ. Đổi lại, “nhà phát minh” sẽ công bố các chi tiết của sáng chế cho công chúng biết. Hệ thống cấp bằng sáng chế là phần thưởng của xã hội dành cho những nỗ lực sáng tạo của nhà phát minh, đồng thời cũng là kênh quan trọng để cập nhật tri thức nhân loại từ những phát minh đó. 1.1.2. Đặc điểm sáng chế Thứ nhất, sáng chế là giải pháp kỹ thuật phải giải quyết được một vấn đề cụ thể bằng việc áp dụng các quy luật tự nhiên. Sáng chế là sản phẩm, quy trình công nghệ, do con người tạo ra, không phải là những gì (đã tồn tại trong thiên nhiên) được con người phát hiện ra và thuộc tính cơ bản của sáng chế là đặc tính kỹ thuật, bởi vì sáng chế là giải pháp kỹ thuật, tức là biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết một vấn đề và việc giải quyết vấn đề này được thể hiện bằng việc áp dụng quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên là những quy luật khoa học của tự nhiên được khám phá thông qua thực nghiệm. Như vậy, những ý tưởng hoặc ý đồ chỉ nêu vấn đề mà không đưa ra cách giải quyết vấn đề không được bảo hộ là sáng chế; hoặc vấn đề được giải quyết không phải là vấn đề kỹ thuật hoặc không giải quyết được bằng cách thức kỹ thuật thì cũng không được coi là sáng chế. 6
  13. Sáng chế không tồn tại trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn. Tuy nhiên các nhà khoa học xã hội phải bàn tới sáng chế khi phân tích ý nghĩa kinh tế - xã hội, pháp lý của nó. Thứ hai, sáng chế có thể tồn tại dưới dạng: sản phẩm hoặc quy trình. Giải pháp kỹ thuật được hiểu là biện pháp để giải quyết một vấn đề mang đặc tính kỹ thuật, giải pháp kỹ thuật có thể là sản phẩm hoặc quy trình, trong đó: Sáng chế là sản phẩm bao gồm: (i) Sản phẩm dưới dạng vật thể: Được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu, chi tiết về kết cấu. Các dấu hiệu, chi tiết này liên kết với nhau để thực hiện một chức năng, công dụng nhất định nhằm đáp ứng một nhu cầu con người. Ví dụ: Dụng cụ, máy móc, thiết bị… (ii) Sản phẩm dạng chất thể: Được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu, đặc điểm về sự hiện diện, tỷ lệ và trạng thái các phân tử tạo thành và có một chức năng nhất định. Ví dụ: Vật liệu, chất liệu, thực phẩm… (iii) Sản phẩm dạng vật liệu sinh học: Được thể hiện bằng tổng hợp các thông tin về một sản phẩm có chứa thông tin di truyền bị biến đổi dưới tác động của con người; có khả năng tự tái tạo lại. Ví dụ: Gen thực vật, gen động vật… Sáng chế là quy trình được thể hiện bằng tập hợp các thông tin xác định cách thức tiến hành một quá trình, công việc được xác định bằng các đặc điểm về trình tự, điều kiện, thành phần tham gia, biện pháp, phương tiện thực hiện các thao tác nhằm đạt được một mục đích nhất định như: Quy trình công nghệ, phương pháp chuẩn đoán, dự đoán, kiểm tra… Theo bảng phân loại sáng chế Quốc tế (IPC) sáng chế còn có thể chia thành 8 lĩnh vực: (i) Dụng cụ thiết yếu cho con người; (ii) Quy trình công nghệ, giao thông vận tải; (iii) Hóa học, luyện kim; (iv) Dệt may, giấy; (v) 7
  14. Xây dựng; (vi) Máy cơ khí, chiếu sáng, nhiệt, vũ khí, chất nổ; (vii) Cơ học; (viii) Đồ điện. Thứ ba, sáng chế có khả năng áp dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống, nó có giá trị thương mại và mang lại lợi ích kinh tế cho chính chủ sở hữu của sáng chế. Trên cơ sở sự sáng tạo, sức lao động bỏ ra, sáng chế với những giải pháp kỹ thuật được hình thành và bảo hộ được áp dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời nó cũng đem lại giá trị kinh tế cho chính chủ sở hữu sáng chế, bởi họ chính là “nhà phát minh” ra sáng chế. 1.2. Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác 1.2.1. Phân biệt sáng chế với phát minh Xét dưới góc độ ngôn ngữ, phát minh được hiểu một cách đơn thuần là việc tìm ra cái có cống hiến lớn cho khoa học và loài người [33, tr.768]. Ở cấp độ cao hơn, theo từ điển Bách khoa Việt Nam, phát minh được hiểu là sự phát hiện một vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên mà con người chưa từng biết tới. Phát minh làm thay đổi, nâng cao trình độ nhận thức của con người đối với tự nhiên và tạo cơ sở để con người lợi dụng, chế ngự tự nhiên. Phát minh khoa học là yếu tố quyết định đối với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Phát minh thường gắn với những nghiên cứu khoa học cơ bản trong khoa học lý thuyết và khoa học ứng dụng. Phát minh phản ánh các mối quan hệ hiện thực khách quan cơ bản và tính chất của các hiện tượng trong thế giới hiện thực. Dưới góc độ khoa học pháp lý, theo tác giả Vũ Cao Đàm, phát minh được hiểu là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người. 8
  15. Như vậy, trên thực tế, khái niệm sáng chế và phát minh có một số điểm tương đồng nên thường bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, trong tài liệu chính thức của tổ chức WIPO phát hành có khẳng định: sáng chế là sản phẩm mới hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật. Điều này khác với phát minh, đó là những cái tồn tại mà chưa tìm ra được. Có thể phân biệt sáng chế với phát minh thông qua một số nội dung sau cụ thể sau: Thứ nhất, về yếu tố tính mới: phát minh chỉ có trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, đã tồn tại khách quan (bởi vậy không có tính mới), trong khi đó thuộc tính quan trọng nhất bắt buộc phải có của sáng chế là tính mới. Thứ hai, về giá trị giải thích sự vật, hiện tượng: phát minh đó là sự phát hiện một vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên mà con người chưa từng biết tới, do đó nó có khả năng giải thích thế giới, giải thích sự phát triển của sự vật, hiện tượng, trong khi đó sáng chế không có khả năng này. Thứ ba, về khả năng áp dụng trực tiếp: phát minh mới chỉ dừng lại ở sự “phát hiện” mang tính chất sơ khai nhất, nên chưa thể áp dụng trực tiếp vào sản xuất đời sống, nhưng sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên có khả năng áp dụng trực tiếp vào đời sống xã hội, đem lại những giá trị thương mại – kinh tế. Thứ tư, về giá trị thương mại, phát minh không có giá trị thương mại, bởi đơn thuần nó chưa được áp dụng trực tiếp vào sản xuất đời sống, trong khi đó sáng chế lại có đặc tính này, người ta có thể mua, bán sáng chế. Ví dụ: Năm 1982, kỹ sư người Đức Rudolf Diesel phát minh ra động cơ diesel. Do tính ưu việt của động cơ này mà người ta có thể ứng dụng nó vào sáng chế tạo ra các loại máy móc được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp đặc biệt là ngành giao thông vận tải. Như vậy, động cơ Diesel là phát minh, còn máy móc chạy bằng động cơ diesel là sáng chế. 9
  16. 1.2.2. Phân biệt sáng chế với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, mẫu hữu ích/giải phát hữu ích tên tiếng Anh là Utility Model, nó được pháp luật một số quốc gia quy định cụ thể, trong đó, sáng chế có thể được bảo hộ dưới dạng “mẫu hữu ích”. Tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà “mẫu hữu ích” có thể được gọi là “giải pháp hữu ích” hoặc “sáng chế nhỏ”… Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, “mẫu hữu ích” đề cập đến hình dạng của sản phẩm, cơ cấu, hoặc sự kết hợp của họ về các giải pháp kỹ thuật thực tế, còn được gọi là Gizmo hoặc bằng sáng chế nhỏ. Đó là mức độ sáng tạo và kỹ thuật thấp hơn so với các bằng sáng chế, nhưng giá trị thực tế tuyệt vời để có bằng sáng chế về việc phê duyệt đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian bảo vệ, giảm phí cách để bảo vệ chúng. Trên mẫu hữu ích, một số quốc gia không phản đối bảo hộ sáng chế của nó như là một riêng biệt, nhưng sẽ được đặt để bảo vệ bằng sáng chế phát minh của họ. Hơn nữa, một số quốc gia được phân loại như các đối tượng độc lập bảo vệ bằng sáng chế mẫu hữu ích, mô hình tiện ích này chủ yếu đề cập Gizmo. Còn “giải pháp hữu ích” được hiểu là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giải pháp được coi là mới nếu nó chưa được bộc lộ công khai trên thế giới dưới bất kỳ hình thức nào đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện được ngay [32, tr. 286]. Như vậy, xét dưới góc độ hình thức bên ngoài, sáng chế và mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích có nhiều điểm tương đồng, như: (i) đều có tính mới; (ii) đều có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội; có giá trị thương mại; (iii) đều được pháp luật bảo hộ… Tuy nhiên, trên thực tế, sáng chế và mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích vẫn tồn tại những điểm khác biệt nhất định, cụ thể: Thứ nhất, về mức độ bảo hộ, các yêu cầu để mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích được bảo hộ với mức độ ít nghiêm ngặt hơn so với sáng chế. 10
  17. Thứ hai, về thời hạn bảo hộ, thời hạn bảo hộ đối với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích ngắn hơn so với thời gian bảo hộ sáng chế (thường là 7 đến 10 năm, tùy thuộc vào quy định của pháp luật của mỗi quốc gia). Thứ ba, về phạm vi bảo hộ, điều này được thể hiện mỗi quốc gia mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích chỉ được bảo hộ đối với một số lĩnh vực công nghệ và chỉ bảo hộ sản phẩm mà không bảo hộ quy trình, điều này hoàn toàn khác với sáng chế, sáng chế được pháp luật bảo hộ đối với tất cả lĩnh vực công nghệ và bảo hộ cả quy trình. Thậm chí, không phải pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới đều bảo hộ mẫu hữu ích, mà chỉ có một số quốc gia có loại hình bảo hộ này. Luật SHTT Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “mẫu hữu ích” mà sử dụng thuật ngữ “giải pháp hữu ích”, theo đó, sáng chế được bảo hộ dưới mọi hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau: (i) Có tính mới và (ii) Có khả năng áp dụng công nghiệp [3, Điều 58]. Sở dĩ pháp luật Việt Nam có quy định chính thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích cho sáng chế vì so với trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta hiện nay thì tiêu chuẩn của một giải pháp kỹ thuật mới được cấp bằng độc quyền sáng chế là tương đối cao. Do đó, không phải giải pháp kỹ thuật nào khi nộp đơn yêu cầu bảo hộ cũng đáp ứng được các tiêu chuẩn để được cấp bằng độc quyền sáng chế nên việc quy định hình thức bằng độc quyền giải pháp hữu ích là biện pháp mở rộng đối tượng được bảo hộ, tạo điều kiện để các chủ thể sáng tạo có thể thu lại những thành quả lao động của mình, phù hợp với trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta hiện nay. 1.2.3. Phân biệt sáng chế với bí mật kinh doanh Bí mật kinh doanh được hiểu theo nghĩa chung nhất là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh 11
  18. doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trong đó, sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi: (i) áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hoá và (ii) bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng bí mật kinh doanh. Các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh bao gồm: (i) Bí mật về nhân thân; (ii) Bí mật về quản lý nhà nước; (iii) Bí mật về quốc phòng, an ninh và (iv) Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh. Như vậy, có thể phân biệt sáng chế và bí mật kinh doanh qua một số tiêu chí sau: Thứ nhất về phạm vi khái niệm: Đây có thể được xác định là điểm khác biệt đầu tiên và lớn nhất giữa sáng chế và bí mật kinh doanh, khái niệm bí mật kinh doanh có phạm vi bao quát rộng hơn rất nhiều so với nội dung của khái niệm sáng chế. Đó có thể là thông tin về danh sách khách hàng, thông tin về cơ hội đầu tư và cũng có thể là một giải pháp kỹ thuật, một đề án, giải phát kinh doanh trong tương lại... Thứ hai, về điều kiện bảo hộ: nếu như đối với sáng chế, điều kiện được bảo hộ đối với sáng chế khi mà giải pháp kỹ thuật của sáng chế đáp ứng được tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp, còn với bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) Không phải là 12
  19. hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; (ii) Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; (iii) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được. 1.3. Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 1.3.1. Khái niệm điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo nghĩa chung nhất là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp [32, tr.42]. Đối tượng của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Người nào sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp của người khác đang trong thời gian bảo hộ mà không xin phép chủ sở hữu các đối tượng này thì bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (trừ các trường hợp có quy định riêng) và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm ba nội dung: Thứ nhất là ban hành các quy định của pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp; Thứ hai là cấp văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp cho các chủ thể khác nhau khi đáp ứng các yêu cầu theo quy định (xác lập quyền); Thứ ba là bằng các phương thức, biện pháp khác nhau bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ văn bằng (bảo vệ quyền). Là một bộ phận cấu thành của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, pháp luật về bảo hộ 13
  20. quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đã được thiếp lập nhằm hướng tới việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo, sáng chế trong xã hội, đồng thời nhằm ngăn chặn những vi phạm tiềm tàng, xâm hại đến các lợi ích chính đáng của nhà sáng chế. Nó như là một cơ chế độc lập quyền có thời hạn cho sở hữu sáng chế trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44, tr. 13]. Theo đó, chủ sở hữu sáng chế được độc quyền hưởng những lợi ích về mặt kinh tế và thương mại từ việc khai thác, sử dụng sáng chế trong một giới hạn nhất định về thời gian và không gian được bảo hộ. Hay nói cách khác, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế bị giới hạn theo lãnh thổ và theo thời gian. Giải pháp kỹ thuật được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ không thể bị người khác khai thác, sử dụng cho mục đích thương mại trong phạm vi quốc gia bảo hộ ngoài chủ sở hữu sáng chế đó. Chủ sở hữu sáng chế có quyền khởi kiện chống lại bất kỳ người nào có hành vi khai thác sáng chế được bảo hộ độc quyền trong phạm vi quốc gia đó mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế. Trên một phương diện nào đó, có thể thấy rằng, bản chất của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế không khác gì một loại “hợp đồng xã hội”. Trong đó, mục đích cơ bản của “hợp đồng xã hội” này là “đổi lại việc bộc lộ những ý tưởng kỹ thuật có giá trị tiềm năng được mô tả trong bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế bằng việc thực hiện quyền cấm người khác khai thác ý tưởng được mô tả, có thể đảm bảo cho mình độc quyền khai thác ý tưởng của mình” [46, tr. 2]. Quan hệ trao đổi này nhằm khuyến khích việc bộc lộ công nghệ giá trị, nhờ đó, thúc đẩy tiến bộ công nghệ và các tiến bộ xã hội. Như vậy, từ nhận thức chung như trên, có thể hiểu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đó là việc Nhà nước với công cụ là hệ pháp luật pháp sở hữu trí tuệ xác lập quyền cho các chủ thể (có thể là cá nhân, tổ chức) đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự xâm hại nào của chủ thể khác (có thể là cá nhân, tổ chức). 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2