intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tại tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

30
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật học "Đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tại tỉnh Thanh Hóa" trình bày các nội dung chính sau: Lý luận chung về đội ngũ Thẩm phán; Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở tỉnh Thanh Hóa; Quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán ở tỉnh Thanh Hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tại tỉnh Thanh Hóa

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ CÚC ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ CÚC ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA Chuyên ngành: LUẬT HÀNH CHÍNH- HIẾN PHÁP Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Sử HÀ NỘI 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Cúc
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1 1.Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................................2 3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài................................................................................6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .............................................................7 7. Cơ cấu của luận văn...............................................................................................8 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN ...........................9 1.1. Thẩm phán trong hệ thống các chức danh tư pháp .............................................9 1.2. Định hướng và nội dung của cải cách tư pháp ở Việt nam hiện nay ...............13 1.3. Những yêu cầu đòi hỏi của cải cách tư pháp đối với việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam ......................................................................................................21 1.4. Phương thức đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán .................................26 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ............................................................................28 Kết luân Chương 1...................................................................................................36 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN Ở TỈNH THANH HÓA .................................................................................................................................37 2.1. Tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Thanh Hóa ..........................................37 2.2. Số lượng, chất lượng và những kết quả và hạn chế của đội ngũ Thẩm phán TAND tỉnh Thanh Hóa ............................................................................................40 2.3. Đánh giá về các bảo đảm cho việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở Thanh Hóa .................................................................................................................................50 Kết luân Chương 2...................................................................................................53 Chương 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ PHÁN Ở TỈNH THANH HÓA .............................54 3.1. Quan điểm định hướng xây dựng dựng đội ngũ Thẩm phán ...........................54 3.2. Các giải pháp chung nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ..........................................................................................55 3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán ở tỉnh Thanh Hóa ...........................................................................................................................64 Kết luân Chương 3...................................................................................................71 KẾT LUẬN ............................................................................................................72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................75
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á CB,CC: Cán bộ, công chức CCTP: Cải cách tư pháp CNH-HĐH: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa HĐND: Hội đồng nhân dân HTND: Hội thẩm nhân dân NN: Nhà nước NNPQ: Nhà nước pháp quyền NQ-TW: Nghị quyết -Trung ương PLTP&HTND: Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân TA: Tòa án TH: Thanh Hóa TTV: Thẩm tra viên TAND: Toà án nhân dân TANDTC: Toà án nhân dân tối cao TK: Thư ký TP: Thẩm phán TPCC: Thẩm phán cao cấp TPTS: Thẩm phán trung cấp TPSC: Thẩm phán sơ cấp UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội VKS ND: Viện kiểm sát nhân dân WTO: Tổ chức thương mại quốc tế XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  6. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Thứ nhất, hiện nay Việt Nam đã và đang tiến hành cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán là yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xét xử. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ ra nhiều vấn đề mới trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ thẩm phán. Đặc biệt, là hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là nội dung chủ yếu của chiến lược. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) đã nêu rõ một số định hướng về cải cách tư pháp: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan sai… Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng”. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và sau đó là Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn…”. Do đó, yêu cầu đối với đội ngũ Thẩm phán có kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế xã hội, đạo đức, kiến thức thực tiễn và đặc biệt là kỹ năng xét xử các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của hệ thống TAND. Do đó, chỉ ra yêu cầu mới trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán các cấp là phải nâng cao chất lượng hơn nữa, để đạt được mục tiêu về chất lượng đội ngũ Thẩm phán đã đề ra. Thứ hai, trong những năm qua, hoạt động quản lý nhà nước đối với đội 1
  7. ngũ Thẩm phán đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp, phòng ngừa tội phạm góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế nhất định, như văn bản quản lý còn thiếu đồng bộ, cơ chế chính sách phát triển đội ngũ Thẩm phán có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, công tác tạo nguồn thẩm phán…còn những hạn chế nhất định. Hiện nay, chất lượng đội ngũ Thẩm phán hiện nay còn có những hạn chế, tình trạng xét xử oan, sai tuy ít nhưng còn tồn tại. Một số vụ án có yếu tố nước ngoài, sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với một số Thẩm phán còn những hạn chế nhất định. Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài “Đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tại tình Thanh Hóa” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu, tổng quan các tài liệu có liên quan đến đề tài, học viên nhận thấy có một số công trình nghiên cứu có liên quan tới chủ đề của luận văn theo theo các nội dung sau: Một là, các đề tài nghiên cứu về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước. - Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người và tài phán hành chính, PGS.TS. Nguyễn Như Phát, trong sách Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương (đồng chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015; - Về kiểm soát quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay, của PGS.TS. Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 năm 2006. - Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước, GS.TS. Nguyễn 2
  8. Đăng Dung, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 25/2009; Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề về quyền lực nhà nước, quyền tư pháp, vai trò, hệ thống TAND với vị trí là chủ thể thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền đã được các nhà nghiên cứu phân tích, làm rõ. Qua đó, học viên nhận thức rõ hơn những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án, vai trò vị trí của Thẩm phán trong bộ máy nhà nước của một số nước trên thế giới, về tổ chức hệ thống Tòa án trong bộ máy nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ. Hai là, các đề tài nghiên cứu về cải cách tư pháp, các đề tài chủ yếu nghiên cứu những nội dung liên quan đến cải cách tư pháp hiện nay và việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND, gồm một số công trình nghiên cứu sau đây: - Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX.04.06 do TS. Uông Chu Lưu làm Chủ nhiệm đề tài; - Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, GS. TSKH. Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004; - Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm, của GS. TSKH. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2003; - Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, của tác giả Phạm Văn Hùng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135/2006. - Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học của Lê Thành Dương, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 2002; - Bàn về quản lý Thẩm phán tòa án nhân dân các cấp, Đỗ Gia Thư, Tạp chí TAND, số 1/2005. 3
  9. - Thực trạng và yêu cầu kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính ở Việt Nam hiện nay, của Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hữu Xương, trong sách Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, PGS. TS. Nguyễn Như Phát và PGS. TS. Nguyễn Thị Việt Hương (đồng chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015; Ba là, Một số công trình nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán. - Các Báo cáo công tác định kỳ của TAND tối cao và của Bộ Tư pháp (trong thời gian Bộ Tư pháp quản lý toà án địa phương về tổ chức) - Báo cáo tổng kết công tác ngành hàng năm; Báo cáo công tác định kỳ trước Quốc hội của TAND tối cao và của Bộ Tư pháp, trong đó có chỉ ra các số liệu về kết quả tuyển chọn, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán trong các giai đoạn...Tuy nhiên, các số liệu này thường tản mạn, không hệ thống, nó chỉ thể hiện kết quả ở từng lĩnh vực nhất định và chỉ ở tại thời điểm báo cáo. Nhưng nó cũng có vai trò quan trọng nhất định, để tác giả có thể tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. - Đề tài khoa học: Ban Nội chính Trung ương năm 2000 có đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp trong sạch, vững mạnh”, mã số: KHBĐ (1999) - 19. Đề tài nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay; Bộ Tư pháp năm 2000 với đề tài: “Pháp lệnh về Thẩm phán và hội thẩm TAND - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” (số đăng ký: 2000 - 58- 140). Đề tài đã chỉ ra một số quy định trong Pháp lệnh năm 1993 không còn phù hợp và chưa đầy đủ, từ đó kiến nghị điều chỉnh, bổ sung làm cơ sở xây đựng dự thảo Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm TAND mới; Đề tài của Tòa án nhân dân tối cao năm 2004: “Đổi mới công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán TAND địa phương”. Đề tài nghiên cứu đưa ra một số quan điểm, giải pháp đổi mới 4
  10. quản lý, đào tạo, bồi dưỡng đối với Thẩm phán TAND địa phương hiện nay; Bộ Tư Pháp, Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng môn đạo đức nghề nghiệp tư pháp cho các chức danh tư pháp (2004); Đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam (2006); Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương (2007); Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng tập hệ thống hóa các vụ án điển hình dùng làm tài liệu cho công tác đào tạo các chức danh tư pháp (2008); Hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp (2009). - Luận án, luận văn, sách, tạp chí khoa học: Nguyễn Thị Anh Thư, Đào tạo và sử dụng Thẩm phán hành chính ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật Hiến pháp và luật hành chính thực hiện tại Học viện Khoa học xã hôi, 2016, Đỗ Gia Thư, Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Luận án Tiến sĩ Luật học thực hiện tại Viện Nhà nước và Pháp luật, 2006; Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Đình Thắng – Nxb. Chính trị Quốc gia, 2009; Phạm Văn Lợi (2004), Chế định Thẩm phán - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; “Mô hình tuyển dụng – đào tạo Thẩm phán hiện nay của một số quốc gia và Việt Nam, nhìn từ góc độ so sánh”, Tạp chí Nghề luật, số 4/2009, trình bày sơ lược về mô hình tuyển chọn và đào tạo Thẩm phán ở 6 nước khác nhau (Bỉ, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia, Nhật Bản), “Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán hành chính ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Danh Tú, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 10/2017, đưa ra một số đề xuất để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán hành chính; Giới thiệu về Học viện Tư pháp Cộng hòa Liên bang Đức và hoạt động đào tạo nâng cao cho Thẩm phán, công tố viên ở Học viện Tư pháp Đức của tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga và Nguyễn Trường Thiệp, Tạp chí Nghề Luật, số 4/2019. * Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua những công trình nghiên cứu đã tổng quan, tác giả nhận thấy một số 5
  11. những kết quả và hạn chế mà các công trình đã đạt được, cụ thể: Một là, trong các công trình nghiên cứu mà học viên đã khảo cứu, các tác giả đã có những phân tích cụ thể và đưa ra những đánh giá về các vấn đề của cải cách tư pháp. Các công trình cũng tập trung nghiên cứu về quyền lực nhà nước, vị trí vai trò của hệ thống TAND, vị trí, vài trò củaThẩm phán và thực trạng tổ chức và hoạt động TAND các cấp. Các công trình đã phân tích, làm rõ các yếu tố tác động đến chất lượng và hiệu quả trong hoạt động của hệ thống TAND; từ đó chỉ ra một số kiến nghị và giải pháp đổi mới tổ chức hệ thống TAND. Hai là, số lượng các nghiên cứu về đội ngũ Thẩm phán ở Việt nam hiện nay còn hạn chế về số lượng. Tuy nhiên, những kết quả trên đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng về vị trí, vai trò của đội ngũ Thẩm phán. Những số liệu, kết quả của các công trình trên có giá trị tham khảo để học viên hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài - Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán và thực tiễn quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán TAND tỉnh Thanh Hóa; chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và đưa ra được những giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán nói chung, đội ngũ Thẩm phán TAND tỉnh Thanh Hóa nói riêng. - Nhiệm vụ nghiên cứu Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ Thẩm phán về đội ngũ Thẩm phán; Hai là, phân tích thực xây dựng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Từ đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; Ba là, đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng đôi ngũ 6
  12. Thẩm phán nói chung, đội ngũ Thẩm phán TAND tỉnh Thanh hóa nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ Thẩm phán và thực tiễn xây dựng đội ngũ Thẩm phán tại TAND tỉnh Thanh Hóa Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực trạng xây dựng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: - Phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm xem xét đối tượng nghiên cứu trong môi trường vật chất mà sự vật, hiện tượng, quá trình đó tồn tại, từ đó đánh giá vấn đề từ những yếu tố quy định (mang tính bản chất) của chúng; - Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ, đào tạo cán bộ, yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Phương pháp nghiên cứu: - Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành đa ngành, phương pháp Logic và lịch sử; phân tích - tổng hợp; so sánh; quy nạp; diễn dịch; khái quát hóa; phân tích văn bản… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận - Làm rõ một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán, xây dựng đội ngũ Thẩm phán, quản lý nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán. Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và tiễn xây 7
  13. dựng đội ngũ Thẩm phán tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Chỉ ra những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của thành tựu và hạn chế. - Đánh giá những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong quy định của pháp luật và thực trạng xây dựng đội ngũ Thẩm phán tại TAND tỉnh Thanh Hóa - Trên cơ sở phân tích thực trạng quy định của pháp luật, hoạt động xây dựng đội ngũ Thẩm phán tại TAND tỉnh Thanh Hóa, luận văn đã đề ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong thời gian tới phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung gồm có 3 chương gồm: Chương 1: Lý luận chung về đội ngũ Thẩm phán. Chương 2: Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở tỉnh Thanh Hóa. Chương 3: Quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán ở tỉnh Thanh Hóa. 8
  14. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN 1.1. Thẩm phán trong hệ thống các chức danh tư pháp 1.1.1 Khái niệm Thẩm phán Khái niệm Thẩm phán, quy định tại Điều 1, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án” [18, tr.1]. Như vậy, Thẩm phán là những công chức nhà nước được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, hành chính, lao động và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án. Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2018 quy định: Thẩm phán là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; Có trình độ cử nhân luật trở lên; Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử; Có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật; Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, Thẩm phán là một chức danh tư pháp, làm việc tại Tòa án, có đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 được Chủ Tịch nước bổ nhiệm làm nhiệm vụ xét xử [21, Điều 65]. Ngạch Thẩm phán có 04 ngạch: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thẩm phán cao cấp; Thẩm phán trung cấp; Thẩm phán sơ cấp. Nhiệm kỳ Thẩm phán Thẩm phán là những người có địa vị pháp lý cao, biểu hiện của nền công lý quốc gia, thực hiện quyền xét xử của Nhà nước theo pháp luật. Pháp luật của 9
  15. mỗi quốc gia đều có những quy định chặt chẽ về Thẩm phán, trong đó quy định nhiệm kỳ Thẩm phán, ở các nước trên thế giới chủ yếu phân thành hai loại: chế độ suốt đời (Bổ nhiệm cho đến tuổi nghỉ hưu) và chế độ nhiệm kỳ; cũng có nước áp dụng cả hai chế độ. Hiện nay, ở Việt Nam Thẩm phán được bổ nhiệm theo chế độ nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định trong một khoảng thời gian nhất định. “Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm” [21, Điều 74] Trong những năm qua, với việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội liên quan tới công tác tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (đây gọi tắt là Nghị quyết 08-NQ/TW) và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49-NQ/TW), thì đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhân dân đã từng bước được kiện toàn cả về số lượng và nâng cao về chất lượng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán và các cán bộ có chức danh tư pháp; cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc của các Tòa án cũng đã được quan tâm đầu tư có hiệu quả, giúp cho Tòa án các cấp có những điều kiện thuận lợi hơn để triển khai thực hiện các nhiệm vụ của mình. Trong bối cảnh tình hình tội phạm và các tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và khiếu kiện hành chính diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất; việc mở rộng hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng cũng làm phát sinh càng nhiều các tranh chấp có yếu tố nước ngoài liên quan tới lĩnh vực pháp luật quốc tế và với xu thế mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các vi phạm, cũng như giải quyết các tranh chấp trong xã hội, thì yêu cầu tăng cường về số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán đối với các Tòa án là một nhiệm vụ cấp thiết. 1.1.2 Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp Thứ nhất, về công tác xét xử 10
  16. Hoạt động của TAND tập trung chủ yếu trong công tác xét xử. Tòa án nhân danh nước CHXHCNVN được trao thẩm quyền xét xử các loại án bao gồm: Hình sự, Dân sự, Kinh tế, Hành chính, Lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.Thẩm phán được Nhà nước trao quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án theo luật định đó là thực hiện chức năng xét xử những vụ án: hình sự, dân sự, hành chính (Dân sự bao gồm: tranh chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân gia đình; những tranh chấp về kinh doanh - thương mại; những tranh chấp về lao động).Vai trò của Thẩm phán trong công tác xét xử như sau: Một là, đối với công tác giải quyết án hình sự. Cùng với sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của đất nước, mặt trái từ sự phát triển đó là tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, có chiều hướng tăng lên về số lượng, tính chất của các vụ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, các vụ trọng án ngày một gia tăng, thành phần tội phạm đa dạng, manh động, tinh vi… đặc biệt là sự tham gia ngày càng nhiều của người phạm tội là thanh thiếu niên, đang là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Hiện nay còn xuất hiện các loại tội phạm mới về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, vv... làm cho tình hình an ninh, chính trị của đất nước bị đe dọa. Chính vì vậy, công tác xét xử của Tòa án đối với các vụ án hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ những thành quả cách mạng, các giá trị tốt đẹp của dân tộc, cũng như bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nhân dân, góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất nước. Khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự Thẩm phán phải thực hiện thẩm quyền tiến hành tố tụng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2019 và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Do đó, đòi hỏi Thẩm phán toàn hệ thống Tòa án phải nâng cao năng lực chuyên môn, nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, bản lĩnh chính trị và đạo đức , nỗ lực hơn nữa trong quá trình xét xử đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thông qua xét xử các vụ án hình sự, Thẩm phán góp phần to lớn vào việc trừng trị kịp thời, có hiệu 11
  17. quả những kẻ phạm tội nhằm duy trì trật tự kỷ cương phép nước, không chỉ buộc bị cáo phải hành xử đúng pháp luật mà còn tạo nên một môi trường bền vững an toàn cho cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động. Hai là, đối với công tác giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động Thẩm phán xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng. Số lượng các vụ án dân sự,hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động mà Tòa án các cấp phải thụ lý và giải quyết hàng năm tương đối lớn. Đối với quyền xét xử các vụ án kinh doanh thương mại và các vụ án về lao động, đây là mảng khối lượng kiến thức tương đối rộng, đội ngũ Thẩm phán Tòa án lại thiếu kiến thức về thị trường, các quan hệ kinh tế và quan hệ lao động tương đối phức tạp, liên quan đến lợi ích của nhiều bên. NQ 49-NQ/TW nêu nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Toà án, Toà án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Ba là, Xét xử các vụ án hành chính: Án hành chính là một trong những loại án có tính chất đặc biệt khi người khởi kiện thường là người dân và người bị kiện là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, là xét xử các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước. Luật tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực thi hành đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong khiếu kiện hành chính, mở rộng thẩm quyền giải quyết án hành chính của TAND, do đó số lượng án hành chính tăng nhanh. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền. 12
  18. Thứ hai, Thông qua thực hiện hoạt động xét xử của Thẩm phán có vai trò trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông đối với mọi tầng lớp nhân dân Một là, trong hoạt động của Tòa án thì xét xử là trọng tâm, tuy nhiên việc xét xử muốn đạt hiệu quả cao thì không thể thiếu vai trò của hoạt động tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân thông qua công tác xét xử. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác này, Luật tổ chức TAND năm 2018 đã quy định: “Toà án phối hợp với cơ quan, tổ chức phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Toà án” [21, Điều 17]. Tòa án đã tích cực tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho người dân, đặc biệt là thông qua công tác xét xử lưu động các vụ án hình sự. Chính từ việc thực hiện tốt công tác xét xử lưu động, Tòa án đã giúp người dân hiểu các quy định của pháp luật hình sự, thấy được ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đồng xã hội, đồng thời định hướng cho cách ứng xử của người dân phù hợp với quy định của pháp luật, giáo dục họ ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Hai là, Thẩm phán có vai trò trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua hoạt động xét xử công khai tại các phiên Toà. Điều đó góp phần quan trọng đưa pháp luật vào thực tiễn vào cuộc sống, nâng cao nhận thức ơhaps luật của người dân, từ đó góp phần ngăn ngừa tội phạm, ổn định xã hội... 1.2. Định hướng và nội dung của cải cách tư pháp ở Việt nam hiện nay 1.2.1 Bối cảnh của cải cách tư pháp Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, là cơ sở để Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một nền tư pháp kiểu mới – nền tư pháp nhân dân đã từng bước được thiết lập. Lần đầu tiên trong lịch sử tư pháp nước ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta trên cơ sở dự án Sắc lệnh Cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng 13
  19. với những mục đích rất rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được “dân chủ hoá”, “để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng cần được hợp lý và giản dị hơn” [12]. Kể từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng ta, chủ trương đổi mới toàn diện đất nước được đặt ra và triển khai. Cải cách tư pháp là một đòi hỏi mang tính quy luật khách quan, cấp thiết để có thể thích ứng với những đổi mới về văn hóa, kinh tế, xã hội, hệ thống chính trị; v.v... Do vậy, yêu cầu đó đã chính thức được chỉ ra tại các Đại hội tiếp theo của Đảng và ghi nhận trong các Nghị quyết 8 Trung ương khóa VII, Nghị quyết 3 và 7 Trung ương khóa VIII và đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW. Nghị quyết 49 được ban hành phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Cùng với việc Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) xác lập nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, cải cách tư pháp được triển khai từng bước đồng bộ với cải cách pháp luật và cải cách hành chính [10] nhằm đổi mới tổng thể bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền, thúc đẩy đổi mới chính trị theo kịp và đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của đổi mới kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội những năm tới. Trong đó có yêu cầu về việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ vào những đặc trưng đó của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp" [10, tr.2] là một trong những đòi hỏi bức xúc hiện nay, là một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới, cải 14
  20. cách hệ thống cơ quan tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt động, năng lực của cán bộ đã được quán triệt là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Thể chế hoá chủ trương của Đảng, trong 30 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Nhờ đó, tư pháp Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được củng cố và phát triển từng bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Đề cao hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng à hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Các cơ quan tư pháp đã luôn tích cực và có vai trò quan trọng nhất trong việc thực nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong quá trình đổi mới. Quyền lực Nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp trong nhà nước XHCN Việt Nam. Quyền tư pháp là một trong ba quyền hợp thành quyền lực Nhà nước, được hiểu là hoạt động xét xử của các Toà án và những hoạt động của cơ quan Nhà nước, các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án như điều tra, công tố, bổ trợ tư pháp, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa, lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì công lý. Toà án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp, sử dụng công khai các kết 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2