intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

47
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận, thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn xét xử ở Việt Nam về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại, có so sánh với pháp luật nước ngoài và tham khảo thực tiễn tài phán quốc tế, bao gồm những nội dung: Xác định giá trị bồi thường thiệt hại, giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam

  1. ` BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ĐỨC TRỌNG GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 60.38.50 Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ THỊ THANH BÌNH TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
  2. ` LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông tin, số liệu trong luận văn là xác thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả công trình nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ Nguyễn Đức Trọng
  3. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS 2005 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005 BLDS 2015 Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015 Bộ nguyên tắc Unidroit Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế Công ước Viên 1980 Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế LTM 1997 Luật Thương mại ngày 10/5/1997 LTM 2005 Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005 Pháp lệnh HĐKT 1989 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế của Hội đồng nhà nước số 24-LCT/HĐNN8 ngày 25/9/1989
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1   CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ..................................... 7   1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại ...................................... 7   1.1.1. Khái niệm, chức năng và nguyên tắc bồi thường thiệt hại ............................ 7   1.1.2. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại ....................................... 13   1.1.3. Vai trò, yếu tố tác động và yêu cầu của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại .................................................................................................................. 15   1.2. Quy định cụ thể của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại 19   1.2.1. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại ........................................................... 19   1.2.2. Giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi thường .................................................................................................................... 29   1.2.3. Giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá ........... 47   CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN TÀI PHÁN LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................ 49   2.1. Thực tiễn tài phán liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại ...................... 49   2.1.1. Vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại................................................ 49   2.1.2. Giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và vấn đề giảm giá trị bồi thường thiệt hại .......................................................................................................................... 63   2.1.3. Về giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá....... 69   2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về giá trị bồi thường thiệt hại ..................................................................................................................... 72   2.2.1. Thống nhất một số quy định khác biệt giữa LTM 2005 và BLDS 2005 ...... 73   2.2.2. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại ........................................................... 74   2.2.3. Vấn đề miễn, giảm giá trị bồi thường thiệt hại ........................................... 75   2.2.4. Về giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá....... 76   2.2.5. Tăng cường chức năng hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao .... 77   KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79  
  5. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong hoạt động thương mại, sự thoả thuận giữa các bên thông thường được ghi nhận trong hợp đồng. Các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên, việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vẫn có thể xảy ra, dù cố ý hay vô ý. Khi tranh chấp phát sinh từ và liên quan đến hợp đồng thương mại, pháp luật cho phép một bên áp dụng các biện pháp pháp lý đối với bên kia nhằm yêu cầu bên đó chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình. Các biện pháp pháp lý này là chế tài trong thương mại. Trong đó, bồi thường thiệt hại với tư cách là chế tài trong thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm, làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị thiệt hại. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành chưa thống nhất về vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải được đền bù. Khoản 2 Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”; Điều 13 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Như vậy, theo quy định của LTM thì các bên không được phép thỏa thuận với nhau về mức bồi thường thiệt hại nhưng BLDS lại cho phép các bên thỏa thuận về mức bồi thường này. Nếu các bên khi tham gia hợp đồng có cách hiểu khác nhau do sự không thống nhất giữa LTM và BLDS thì sẽ dễ dẫn đến những tranh chấp không đáng có trong quá trình thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, một số quy định trong pháp luật hiện nay vẫn chưa có tính minh bạch, thống nhất như: yếu tố lỗi làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, giá trị tổn thất về tinh thần, vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi thường... Ngoài ra, thực tiễn xét xử của tòa án thể hiện sự chưa nhất quán trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, nhất là trong việc xác định mức độ thiệt hại, khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Pháp luật thương mại hiện hành chưa quy định các căn cứ cụ thể để xác định mức độ thiệt
  6. 2 hại, các khoản thiệt hại được bồi thường, cũng như chưa quy định cụ thể thế nào là các khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Từ yêu cầu cấp thiết nghiên cứu để hoàn thiện quy định của pháp luật thương mại về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại; đồng thời, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại, tác giả chọn đề tài “Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay, qua nghiên cứu của tác giả, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào được công bố nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam, mặc dù cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này và một số vấn đề khác liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại. Cụ thể như sau: 1. Sách chuyên khảo Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam của TS. Nguyễn Ngọc Khánh do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2007: Gồm có bốn chương bao quát những vấn đề cốt yếu nhất của chế định hợp đồng, đi sâu phân tích, lý giải các khía cạnh lý thuyết của chế định này, đặc biệt có đối chiếu, so sánh các cách tiếp cận khác nhau, các cách hiểu khác nhau, các cách xử lý khác nhau về cùng một vấn đề được thể hiện trong các hệ thống pháp luật dân sự chủ yếu của thế giới đương đại. Trong sách này có nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài như: chế tài bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi, xác định thiệt hại, giới hạn trách nhiệm bồi thường… 2. PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (1 tập), tái bản năm 2014 (2 tập) và cuốn Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010, tái bản năm 2013: Các cuốn sách này đề cập các vấn đề căn bản nhất của pháp luật về hợp đồng Việt Nam thông qua bình luận các bản án được chọn lọc, trong đó đề cập nhiều vấn đề liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại như: thiệt hại vật chất và tổn thất tinh thần, yếu tố lỗi, giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại… 3. Luận văn Thạc sỹ Luật học về Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại của tác giả Nguyễn Phú Cường năm 2009: Nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong kinh doanh-
  7. 3 thương mại vào thực tiễn, trong đó đề cập đến vấn đề miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan trực tiếp đến đề tài. 4. Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh do PGS.TS. Phan Huy Hồng làm chủ nhiệm công bố năm 2011 về Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của tòa án và trọng tài tại Việt Nam: Đánh giá, đúc kết thực tiễn xét xử của tòa án, trọng tài thương mại Việt Nam về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, rút ra các kết luận về tính thống nhất, thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật, khả năng hình thành án lệ về một số vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa. Đề tài có nghiên cứu vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong hợp đồng kinh doanh-thương mại. 5. Tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh đã công bố bài “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua Luật Thương mại Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009: Phân tích, so sánh chế định bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam và quốc tế, trong đó đề cập đến vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại qua LTM Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit. 6. Các bài viết “Thỏa thuận hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng” của tác giả Dương Anh Sơn trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2005 và “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng” của tác giả Đỗ Thành Công đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2010 nghiên cứu trực tiếp đến một vấn đề như là một bộ phận của đề tài. Các công trình nêu trên mặc dù có nghiên cứu đến vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại nhưng chỉ đề cập với tính chất là một nội dung nhỏ trong một đề tài nghiên cứu rộng hơn hoặc chỉ nghiên cứu một khía cạnh liên quan đến đề tài, và chưa có tính bao quát, chưa nghiên cứu sâu, toàn diện việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Mặc dù vậy, các công trình này là nguồn tài liệu tham khảo rất có giá trị cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận, thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn xét xử ở Việt Nam về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại, có so sánh với pháp luật nước ngoài và tham khảo thực tiễn tài phán quốc tế, bao gồm những nội dung: xác định giá trị bồi thường thiệt hại, giới hạn giá
  8. 4 trị bồi thường thiệt hại và giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá. Thông qua đó, phân tích những quy định còn bất cập của pháp luật thương mại và kiến nghị hoàn thiện các quy định liên quan đến vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài - Các quy định pháp luật thương mại Việt Nam về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại; - Các quan điểm khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam; - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản; các quy định của pháp luật quốc tế khác như Công Ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit…về xác định giá trị bồi thường thiệt hại, từ đó rút ra kinh nghiệm và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định tương ứng của Việt Nam. 4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu đề tài Phạm vi nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho dù căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường đó xuất phát từ hoạt động kinh doanh thương mại. Đề tài có so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế có điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng như Công ước viên 1980 (CISG), Bộ nguyên tắc Unidroit... để nhằm rút ra các kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài các quy định pháp luật, đề tài cũng sẽ nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật qua các bản án, quyết định của tòa án các cấp, phán quyết của trọng tài thương mại về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại có liên quan đến việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trong luận văn, tác giả phối kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội như: phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp…. Tuỳ thuộc vào nội dung nghiên cứu của từng chương tác giả có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Cụ thể như sau:
  9. 5 Trong chương 1, để làm rõ các vấn đề về lý luận tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước về hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác giả sử dụng các phương pháp phân tích luật, phương pháp giải thích luật, phương pháp so sánh luật và phương pháp lịch sử để nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác liên quan, chỉ ra những điểm mới, tiến bộ (hoặc bất cập) của luật mới so với luật cũ, của luật chung so với luật chuyên ngành, của luật Việt Nam so với luật nước ngoài, luật quốc tế… từ đó, rút ra được những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc, hợp lý nhất để đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Trong chương 2, tác giả thu thập, phân loại một số lượng cần thiết bản án, phán quyết trọng tài theo các vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại, và sử dụng các phương pháp bình luận án, phương pháp tổng hợp và phương pháp quy nạp để phân tích bản án, quyết định của tòa án, phán quyết trọng tài, đánh giá quan điểm của tòa án hay trọng tài trong việc áp dụng pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra các nhận định, kết luận có tính đại diện làm cơ sở để đề xuất, kiến nghị. 5. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và đóng góp mới của luận văn Luận văn có ý nghĩa khoa học nhất định, là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên đặt vấn đề đi sâu xem xét các vấn đề lý luận của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu một số thực tiễn giải quyết các vụ án kinh tế liên quan đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại nhằm làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật liên quan theo hướng hỗ trợ các cơ quan xét xử xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong các vụ việc tranh chấp về bồi thường thiệt hại phát sinh từ hoạt động thương mại. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam; đồng thời, đóng góp những luận điểm nhất định để cơ quan lập pháp tham khảo nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp hơn với thực tiễn thương mại. Những điểm mới của luận văn bao gồm: (i) Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam;
  10. 6 (ii) Đánh giá một cách khách quan thực trạng xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong thực tiễn tài phán; (iii) Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển lĩnh vực kinh doanh, thương mại. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 02 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại Chương 2. Thực tiễn tài phán liên quan đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại và một số kiến nghị
  11. 7 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại 1.1.1. Khái niệm, chức năng và nguyên tắc bồi thường thiệt hại 1.1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại Trong thực tiễn hình thành và phát triển xã hội, mỗi người sống trong đó phải tôn trọng những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những chế định pháp lý xuất hiện sớm nhất trong lịch sử pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở những quốc gia khác nhau, việc bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau về chủ thể, điều kiện, mức, hình thức và phương thức bồi thường, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia. Pháp luật nhiều nước trên thế giới cũng quy định bồi thường thiệt hại là một biện pháp mà bên bị vi phạm áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình, bắt buộc bên vi phạm phải bồi hoàn những tổn thất mà mình bị xâm phạm. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa như Pháp, Nga quy định bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là hai hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Nhưng đối với pháp luật các nước thông luật như Anh, Mỹ thì bồi thường thiệt hại là chế tài được sử dụng chủ yếu, trong trường hợp chưa đến mức hủy bỏ hợp đồng. Họ cho rằng áp dụng chế tài này sẽ hợp lý, khả thi và tiện lợi cho các bên trong quan hệ hợp đồng1. Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại là chế tài trong thương mại được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh thương mại. Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm được tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng2. Trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi thường thiệt hại. Vì thế, có thể coi bồi thường thiệt hại là một giải pháp vạn năng cho 1 Nguyễn Thị Thanh Nữ (2013), Chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, sđd, tr. 9. 2 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 87.
  12. 8 mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng3. Để bảo vệ bên bị vi phạm, pháp luật cho phép bên bị vi phạm được quyền yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường những tổn thất đó, ngay cả khi không có điều khoản bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ cơ sở giải quyết bồi thường trong hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng rất khác nhau, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: (i) Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Trong khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng về cơ bản phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên theo hợp đồng. (ii) Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi4. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, điều kiện phát sinh do các bên thoả thuận đặt ra, đó là nghĩa vụ phải thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho các bên khi tham gia vào hợp đồng. Bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng tức là đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm. Điều 303 LTM 2005 quy định rất rõ căn cứ (điều kiện) phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: “Trừ các trường hợp miễn 3 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 433. 4 Xem Điều 604 BLDS 2005.
  13. 9 trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Như vậy, dưới khía cạnh pháp lý trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong giới hạn nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng trong hoạt động thương mại (nghĩa là bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng thương mại). Theo Điều 303 LTM 2005 bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố: Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Trước hết phải có hành vi vi phạm hợp đồng, đó là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên. Hành vi vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường nếu hành vi đó gây thiệt hại thực tế và là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Ở đây, yếu tố lỗi không là căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM. Tuy nhiên, theo BLDS, lỗi là yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là một loại trách nhiệm dân sự. Cụ thể, khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý”; Điều 364 BLDS 2015 quy định: “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý”. Hiện nay, có các quan điểm khác nhau về việc lỗi có phải là một yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không?5 Theo quan điểm của tác giả, trong hoạt động kinh doanh thương mại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh mà không cần phải xác định lỗi; bởi lẽ, (i) LTM với tư cách là luật chuyên ngành, được ưu tiên áp dụng điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng kinh doanh thương mại trước BLDS, không đòi hỏi lỗi là yếu tố bắt buộc mà có nó mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại; (ii) “Đối chiếu so sánh thì chúng ta thấy yêu cầu “lỗi” không tồn tại trong một số hệ thống pháp luật. Ví dụ, trong Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại “không cần yếu tố lỗi””6; (iii) ở Việt Nam, “trong thực tiễn xét xử 5 Vấn đề yếu tố lỗi, tham khảo thêm: (i) Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa dịch vụ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 428-433; (ii) Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 86-90; (iii) Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 391-415. 6 Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 88.
  14. 10 những năm qua, hầu như chưa bao giờ vấn đề kiểm tra, xem xét trạng thái tâm lý của người vi phạm nghĩa vụ đối với hành vi thực hiện và hậu quả của hành vi thực hiện được đặt ra một cách nghiêm túc, cả từ phía Tòa án lẫn từ những người tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, ngay trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng đã bắt đầu xuất hiện một số văn bản pháp luật chuyên ngành trong đó từ bỏ cách tiếp cận khái niệm lỗi truyền thống của BLDS 2005”7. Như vậy, theo quy định của LTM, quan điểm của pháp luật quốc tế và thực tiễn xét xử ở Việt Nam không yêu cầu lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cần thấy rõ LTM 2005 vẫn có một số quy định, dành cho các trường hợp cá biệt, mà ở đó lỗi vẫn đóng một vai trò nhất định trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại như: Điều 238 về giới hạn trách nhiệm trong hoạt động logictics, Điều 266 về bồi thường thiệt hại trong trường hợp giám định sai, hay Điều 273 về trách nhiệm đối với tổn thất trong thời hạn thuê. Tuy nhiên, nếu các nhà làm luật cho rằng đây là những trường hợp ngoại lệ thì cần phải quy định trong phần chung về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại các trường hợp nào cần thiết phải có yếu tố lỗi thì mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể hiểu bồi thường thiệt hại là một hình thức chế tài vật chất được áp dụng cho bên vi phạm, trừ những trường hợp được miễn trách nhiệm, nhằm bồi thường những tổn thất (thực tế, trực tiếp) mà bên bị vi phạm phải gánh chịu và những khoản lợi đáng lẽ được hưởng cho bên bị vi phạm. Theo đó, “chế tài bồi thường thiệt hại thể hiện mục đích là bù đắp, bồi hoàn toàn bộ thiệt hại thực tế cho bên bị vi phạm hơn là trừng trị bên có hành vi vi phạm hợp đồng”8. 1.1.1.2. Chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại Thứ nhất, bù đắp thiệt hại là mục đích và cũng là chức năng cơ bản, nổi bật nhất của chế tài bồi thường thiệt hại. Sự vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại của một bên trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Do đó, bên vi phạm gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những lợi ích vật chất, đủ để cho phép khôi phục lại tình trạng trước khi vi phạm gây thiệt hại và thỏa mãn những quyền lợi chính đáng mà bên kia đáng lẽ phải được hưởng9. Mục đích của bồi thường thiệt hại là đặt lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại vào vị trí đáng lẽ họ phải 7 Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr. 89. 8 Nguyễn Phú Cường (2009), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 8. 9 Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 432.
  15. 11 có nếu bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ của mình10. Bồi thường thiệt hại không phải là đưa người bị thiệt hại trở về tình trạng ban đầu mà đưa họ vào tình trạng như là hợp đồng đã được thực hiện. Theo đó, những tổn thất và những khoản lợi trực tiếp họ được hưởng từ hợp đồng là những khoản mà bên vi phạm phải bồi thường. Đối với chế định bồi thường thiệt hại trong luật hợp đồng Anh - Mỹ (cả trong luật thực định cũng như trong thực tiễn xét xử), việc khôi phục lại tình trạng như là trước khi giao kết hợp đồng không phải là mục tiêu số một. Việc đặt bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm vào vị thế như là hợp đồng đã được thực hiện đúng và đầy đủ mới là mục đích mà chế định bồi thường thiệt hại trong luật hợp đồng Anh - Mỹ hướng tới11. Thứ hai, bồi thường thiệt hại có chức năng răn đe, nhắc nhở các bên trong hợp đồng phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Bồi thường thiệt hại nhằm mang lại cho bên bị vi phạm hợp đồng một sự thực hiện tương đương và khuyến khích các bên thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng. Chế tài này tác động đến nhận thức của các bên, có tác động thúc đẩy các bên cố gắng thực hiện đúng nội dung của hợp đồng đã xác lập, trừ những trường hợp không thể thực hiện được như trong trường hợp bất khả kháng và buộc phải vi phạm nghĩa vụ. Nếu vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên kia với giá trị như hợp đồng đã được thực hiện bao gồm cả những khoản lợi khi hợp đồng được thực hiện đúng và các thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu từ hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại đặt ra không chỉ để bù đắp tổn thất cho bên bị vi phạm mà còn nhắc nhở các bên phải nghiêm túc thực hiện đúng hợp đồng; đồng thời, giúp cho các bên yên tâm trong thực hiện hợp đồng với suy nghĩ rằng, đối tác sẽ phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng bởi vì nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam kết thì phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra. Thứ ba, bồi thường thiệt hại có chức năng bảo vệ nguyên tắc thiện chí, trung thực trong thực hiện hợp đồng. Thiện chí, trung thực là một trong những nguyên tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng được ghi nhận không chỉ trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam mà còn được quy định trong pháp luật của nhiều nước12. Khi xác lập và thực hiện hợp đồng, các bên đã dự tính được những khoản lợi mà mình sẽ đạt được. Đồng thời, bên này cũng biết những khoản lợi mà bên kia đạt được. Do đó, khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm cũng có thể dự đoán trước những thiệt hại mà bên bị vi phạm phải 10 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 89. 11 Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 441. 12 Dương Anh Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 1(38).
  16. 12 gánh chịu. Chế tài bồi thường thiệt hại góp phần bảo vệ mong muốn thực sự của các bên khi tham gia hợp đồng. 1.1.1.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại Thứ nhất, khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong hợp đồng kinh doanh – thương mại, chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Bồi thường thiệt hại toàn bộ có nghĩa là thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ. Bên bị thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để có thể khôi phục lại lợi ích bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra13. Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 quy định “nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”; Điều 13 BLDS 2015 cũng quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc “phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại cũng được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Bên có quyền có quyền đòi bồi thường toàn bộ những thiệt hại mà mình đã phải gánh chịu từ việc hợp đồng không được thực hiện như dự kiến. Thiệt hại bao gồm những tổn thất mà bên này trong thực tế đã phải gánh chịu và những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được” (Khoản 1 Điều 7.4.2). Tương tự, khoản 2 Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Có thể thấy rằng, bồi thường thiệt hại toàn bộ không chỉ tính đến giá trị tổn thất của bên bị vi phạm phải gánh chịu mà bên vi phạm còn phải bồi thường cả khoản lợi trực tiếp mà bên có quyền đáng lẽ nhận được nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Thứ hai, việc bồi thường thiệt hại phải tuân thủ nguyên tắc không làm sinh lợi cho bên có quyền. Bên bị thiệt hại không được phép nhận sự đền bù vượt ra ngoài phạm vi cần thiết để khắc phục lợi ích vật chất bị tổn thất của mình14. Nguyên tắc này cũng được thể hiện tại Điều 74 Công ước Viên 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”. Trong khi LTM 2005 không đề cập rõ nguyên tắc bồi thường thiệt hại không làm sinh lợi cho bên có quyền thì 13 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 88. 14 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 88.
  17. 13 Điều 229 LTM 1997 quy định cụ thể: “số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng”. Việc bồi thường thiệt hại chỉ nhằm mục đích bù đắp lại những mất mát mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, nó không nhằm mục đích mang đến cho họ những khoản lợi ích vượt ra khỏi mất mát này. Do đó, nội hàm của nguyên tắc này là bên được bồi thường không vì được bồi thường mà có lợi hơn trong trường hợp nghĩa vụ được thực hiện bình thường. 1.1.2. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại Thiệt hại theo nghĩa chung nhất là sự mất mát về người, về lợi ích vật chất hoặc tinh thần được pháp luật bảo vệ15. Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, thiệt hại nên được xem là những mất mát (hoặc sự giảm sút) về lợi ích vật chất hoặc tinh thần. Điều 303 LTM 2005 quy định “thiệt hại thực tế” là một trong những căn cứ pháp lý phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Không chỉ riêng pháp luật Việt Nam mà pháp luật của hầu hết tất cả các nước trên thế giới đều đưa ra nguyên tắc chung: có thiệt hại thì mới bồi thường. Nếu thực tế có xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng nhưng chưa có thiệt hại thì chưa phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại16. Khi có đủ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bên vi phạm hợp đồng có trách nhiệm phải bồi thường cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay, việc xác định giá trị bồi thường như thế nào và bồi thường bằng phương thức nào không có sự thống nhất hoàn toàn trong quy định của pháp luật trên thế giới cũng như trong pháp luật thương mại Việt Nam. Một số văn bản pháp lý quốc tế coi “giá trị bồi thường thiệt hại” là “tiền bồi thường”. Theo Điều 74 Công ước Viên 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải gánh chịu do hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng”. Bộ nguyên tắc Unidroit quy định về “tiền lãi từ khoản tiền bồi thường thiệt hại” (Điều 7.4.10), “phương thức bồi thường bằng tiền” (Điều 7.4.11), “đồng tiền tính toán thiệt hại” (Điều 7.4.12) và “tiền bồi thường ấn định trước trong hợp đồng” (Điều 7.4.13). Pháp luật thương mại Việt Nam trước đây cũng đề cập đến “tiền bồi thường thiệt hại”. Theo Pháp lệnh HĐKT 1989 thì bồi thường thiệt hại được quy định như là một chế tài tiền tệ, “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng, số 15 Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 866: “thiệt hại tt. (hoặc dt.). Bị mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh thần”. 16 Phan Thị Hằng (2012), Chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại quốc tế, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 26.
  18. 14 chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra”17. Khoản 1 Điều 229 LTM 1997 quy định như sau: “Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra”. Khoản 2 Điều 229 LTM 1997 nêu rõ “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra”. Tuy nhiên, quy định cách thức bồi thường thiệt hại chỉ bằng tiền là không hợp lý, mang tính chất bó buộc, bởi bên cạnh việc bồi thường bằng tiền, bên vi phạm vẫn có thể sử dụng tài sản hoặc những cách thức khác theo thỏa thuận để bồi thường cho bên bị vi phạm những thiệt hại mà mình gây ra, điều đó vẫn không ảnh hưởng đến tính chất cơ bản của bồi thường thiệt hại18. “Giá trị bồi thường thiệt hại” là thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong LTM 2005. Theo khoản 2 Điều 302 LTM 2005: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại, BLDS không sử dụng thuật ngữ giá trị bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng mà sử dụng thuật ngữ “mức bồi thường thiệt hại” (khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 419 BLDS 2015). Có tác giả cho rằng “bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực hợp đồng là một khoản tiền. Như vậy, xác định thiệt hại được bồi thường chưa đủ. Chúng ta còn phải quy thiệt hại thành tiền”19. Từ cách tiếp cận trên có thể thấy, “giá trị bồi thường thiệt hại” chính là “khoản tiền” bồi thường được quy đổi từ thiệt hại do bên vi phạm gây ra. Giá trị bồi thường thiệt hại lúc này tương ứng với khoản tiền đó. Và, khoản tiền này chính là thước đo giá trị của những thiệt hại được bồi thường, vì về thực chất, tiền chính là biểu hiện bên ngoài đối với giá trị bên trong của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong hoạt động thương mại. LTM 2005 không đưa khái niệm phản ánh bản chất của giá trị bồi thường thiệt hại mà chỉ liệt kê giá trị bồi thường thiệt hại gồm hai bộ phận, đó là bộ phận giá trị bồi thường thiệt hại thuộc về tổn thất và bộ phận giá trị bồi thường thiệt hại thuộc về khoản lợi (khoản 2 Điều 302). Về bản chất, giá trị bồi thường thiệt hại là số đo của 17 Điểm b khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh HĐKT 1989. 18 Nguyễn Thị Thanh Nữ, tlđd 1, tr. 9. 19 Đỗ Văn Đại (2010), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 580.
  19. 15 một lượng bồi thường thiệt hại và có thể tính bằng một đơn vị tiền tệ nhất định nên trong LTM 1997 và Công ước Viên 1980 sử dụng thuật ngữ “tiền bồi thường thiệt hại”. Số tiền bồi thường thiệt hại được đề cập trong các văn bản luật trên cũng chính là giá trị bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, sử dụng thuật ngữ “giá trị bồi thường thiệt hại” có tính khái quát hơn. Nó thể hiện sự đo lường về những lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất có thể được bồi thường, trong khi đó “số tiền bồi thường” chưa phản ánh hết giá trị thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Sử dụng “số tiền bồi thường thiệt hại” có thể hiểu như là phương thức bồi thường thiệt hại. Tức là, giá trị bồi thường thiệt hại được thể hiện thông qua hình thức bồi thường bằng tiền. Bộ nguyên tắc Unidroit cũng có đề cập đến phương thức bồi thường thiệt hại bằng tiền (Điều 7.4.11). Như vậy, sử dụng giá trị bồi thường thiệt hại không phản ánh hình thức (phương thức) bồi thường thiệt hại mà phản ánh mức độ tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra và khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại chính là giá trị của những tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu do hành vi không thực hiện đúng hợp đồng và giá trị của những khoản lợi đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện theo các nội dung đã thỏa thuận. Giá trị của những tổn thất và giá trị của những khoản lợi này có thể là những giá trị vật chất hoặc giá trị phi vật chất. Đơn vị tính giá trị vật chất thường bằng tiền tệ. Trong khi đó, đơn vị tính giá trị phi vật chất không nhất thiết bằng tiền tệ. Tuy nhiên, có thể quy đổi giá trị phi vật chất thành một lượng tiền tệ nhất định như để bù đắp thiệt hại về tinh thần. Việc sử dụng thuật ngữ “giá trị bồi thường thiệt hại” lột tả bản chất pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại trong việc xác định bồi thường với những khoản giá trị cụ thể, không phản ánh hình thức (phương thức) bồi thường thiệt hại. 1.1.3. Vai trò, yếu tố tác động và yêu cầu của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại 1.1.3.1. Vai trò của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại Thứ nhất, xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại có vai trò quyết định đối với việc thực hiện chế tài bồi thường thiệt hại. Khi có căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vấn đề quan trọng là xác định được giá trị bồi thường thiệt hại. Xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại sẽ thực hiện đúng được chức năng của bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, xác định giá trị bồi thường thiệt hại thường rất phức tạp đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề, như: xác định đúng thành phần giá trị bồi thường thiệt hại, phạm vi giá trị bồi thường thiệt hại, thỏa thuận của các
  20. 16 bên về giá trị bồi thường thiệt hại; xác định đúng giá trị tổn thất và giá trị khoản lợi đáng lẽ được hưởng… Thứ hai, xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại sẽ bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng. Khi tham gia hợp đồng, các bên đều hướng tới những lợi ích nhất định. Lợi ích này có thể là lợi nhuận của thương nhân hoặc là nhu cầu của người tiêu dùng. Các bên khi xác lập và thực hiện hợp đồng đều mong muốn hợp đồng được thực hiện đúng và hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng của mình, thu được khoản lợi nhất định. Lợi ích của các bên tham gia hợp đồng trong hoạt động thương mại rất đa dạng. Với mỗi chủ thể khác nhau, lợi ích này cũng thường không hoàn toàn giống nhau. Đối với thương nhân, đó chủ yếu là lợi nhuận về vật chất và sự tăng lên về giá trị tinh thần (uy tín, thương hiệu). Đối với người tiêu dùng tham gia hợp đồng trong hoạt động thương mại thì quyền lợi của họ là nhu cầu tiêu dùng được đảm bảo (đáp ứng số lượng và chất lượng sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng). Quyền lợi chính đáng của các bên trong hợp đồng được pháp luật bảo vệ. Sự bảo vệ này thể hiện chủ yếu ở việc đưa ra các hình thức trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng, trong đó có bồi thường thiệt hại. Khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm phải chịu thiệt hại nhất định. Xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại là yếu tố quan trọng để quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng không bị xâm phạm. Nghĩa là, bên bị vi phạm được bù đắp những khoản bồi thường hợp lý với những tổn thất mà mình gánh chịu và bên vi phạm chỉ phải bồi thường khoản giá trị thiệt hại tương xứng với hành vi vi phạm do mình gây ra. 1.1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại Xác định giá trị bồi thường thiệt hại là quá trình bên bị vi phạm đánh giá, chứng minh những giá trị thiệt hại phải được bồi thường cho bên bị vi phạm theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại chịu sự tác động, chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Một là yếu tố pháp lý, là yếu tố căn bản để xác định giá trị bồi thường thiệt hại. Quy định của pháp luật càng cụ thể, rõ ràng thì việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại càng được chính xác, thống nhất đảm bảo lợi ích cho cả bên vi phạm lẫn bên bị vi phạm. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này còn chung chung, chưa thống nhất giữa BLDS và LTM. Chẳng hạn, LTM coi “khoản lợi đáng lẽ được hưởng” là một thiệt hại nhưng BLDS không quy định rõ vấn đề này, hay BLDS
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2