intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:72

27
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến đề xuất để hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về các tội phạm chức vụ, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt BïI LAN ANH H×NH Sù HãA TR¸CH NHIÖM CñA PH¸P NH¢N §èi víi c¸c téi ph¹m vÒ chøc vô trong luËt h×nh sù viÖt nam luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2015
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt bïi lan anh H×nh sù hãa tr¸ch nhiÖm cña ph¸p nh©n ®èi víi c¸c téi ph¹m vÒ chøc vô trong luËt h×nh sù viÖt nam Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù vµ tè tông h×nh sù M· sè : 60 38 01 04 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. §µo LÖ Thu Hµ néi - 2015
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Bộ luật hình sự(BLHS) là một đạo luật lớn, quan trọng, có tính đặc thù trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Sau 15 năm thi hành, BLHS năm 1999 đã có những đóng góp quan trọng, thể hiện khá toàn diện chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, trước yêu cầu thượng tôn pháp luật, đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là để phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013 thì việc phải sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 là rất cần thiết. Năm định hướng lớn trong sửa đổi BLHS lần này là thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân; thể chế hóa về mặt hình sự chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường hợp tác quốc tế; hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự; đổi mới tư duy về tội phạm và hình phạt, về cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS), khắc phục những hạn chế trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Trong đó, đáng chú ý là sẽ sửa đổi theo hướng hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân. TNHS của pháp nhân không phải là vấn đề mới mà đây là vấn đề đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự quốc gia cũng như các văn bản pháp luật quốc tế. Xét ở góc độ pháp luật quốc gia, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được quy định trong pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới, như Anh,
  4. Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và gần đây, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu như Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia, v.v.... Trong khu vực Châu Á, một số quốc gia cũng đã ghi nhận TNHS của pháp nhân như Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Trung Quốc… Dưới góc độ pháp luật quốc tế, TNHS pháp nhân đã được khẳng định và nhấn mạnh trong nhiều Công ước của Liên Hợp quốcnhư Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố, Công ước quốc về chống tham nhũng, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia… Ở Việt Nam, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được đưa ra thảo luận và nghiên cứu chính thức trong quá trình xây dựng BLHS năm 1999. Tuy nhiên, tại thời điểm này, vấn đề TNHS của pháp nhân chưa được nghiên cứu sâu về mặt lý luận và thực tiễn, do vậy, vấn đề này vẫn tiếp tục được nghiên cứu. Năm 2009, khi sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, vấn đề TNHS của pháp nhân một lần nữa được đưa ra nghiên cứu, thảo luận để quy định bổ sung vào BLHS. Nhưng do đây là lần sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thật sự cấp bách nhất, bức xúc nhất của thực tiễn tại thời điểm đó để tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạmnên vấn đề TNHS của pháp nhân được thống nhất để lại tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng cả về mặt lý luận và thực tiễn cho lần sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện BLHS. Đến thời điểm hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đã đến lúc cần bổ sung chế định TNHS của pháp nhân để xử lý đối với các trường hợp tổ chức kinh tế (pháp nhân) vì chạy theo lợi ích cục bộ, đã thực hiện nhiều hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, gây hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội, cho nền kinh tế nhưng chỉ xử lý hình sự đối với cá nhân mà trong nhiều trường hợp việc xác định trách nhiệm
  5. cá nhân là rất khó khăn. Trong khi đó, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chỉ bị xử lý bằng các chế tài hành chính, kinh tế, dân sự, không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa. Vì vậy, cần nghiên cứu khả năng bổ sung quy định TNHS của pháp nhân vào BLHS. Trong những năm gần đây ở nước ta thì các tội phạm về chức vụ cũng có những diễn biến phức tạp. Để khắc phục và đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các cán bộ, công chức và mỗi công dân về công tác phòng, chống tham nhũng; để đấu tranh chống những biểu biện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức cũng như những hành vi tiếp tay cho tiêu cực là điều kiện tiên quyết để duy trì sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy nhà nước; để đảm bảo hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, Nhà nước Việt Nam thì việc bổ sung quy định TNHS của pháp nhân đối với một số loại tội trong đó có các tội phạm về chức vụ là cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn các pháp nhân ngày càng thực hiện những hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm và vì vấn đề TNHS của pháp nhân là một vấn đề không mới và đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này trên nhiều bình diện chung nên tác giả luận văn quyết định lựa chọn nghiên cứu vấn đề đối với một nhóm tội phạm cụ thể. Và đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu là: “Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu Có thể nói việc nghiên cứu vấn đề TNHS của pháp nhân trong thời gian gần đây đã được các tác giả đặc biệt quan tâm. Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết đề cập và nghiên cứu đến vấn đề TNHS của pháp nhân.
  6. Năm 2011, Tiến sỹ Cao Thị Oanh đã chủ nhiệm công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ với đề tài “Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức” (Viện khoa học pháp lý); trong công trình nghiên cứu này có một số bài viết của các tác giả như: “Quy định về TNHS của tổ chức ở Trung Quốc” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà; “TNHS của pháp nhân tại Mỹ” của tác giả Nguyễn Khắc Hải; “Cơ sở thực tiễn của việc thiết lập chế định TNHS đơn vị pháp nhân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn; “TNHS của pháp nhân trong luật hình sự một số nước theo truyền thống Common Law”; “TNHS của pháp nhân theo luật hình sự một số nước theo truyền thống châu Âu lục địa” của tác giả Trịnh Quốc Toản… Một số bài viết về vấn đề TNHS của pháp nhân được đăng trên các báo, tạp chí như bài viết: “TNHS của pháp nhân theo pháp luật hình sự một số nước trên thế giới và lựa chọn cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tất Thành trên tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2013; “TNHS của pháp nhân theo luật hình sự một số nước trên thế giới và sự cần thiết phải quy định TNHS pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Lực trên tạp chí Khoa học pháp lý; “TNHS của pháp nhân và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam tương lai” của tác giả Trịnh Quốc Toản trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2006; “Vấn đề TNHS của pháp nhân”của tác giả Nguyễn Quý Công trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2010, “Đề xuất, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung một số quy định tại phần chung của BLHS” của tác giả Dương Văn Thắng trên tạp chí Kiểm sát số 16/2014… Ngoài ra còn có một số cuốn sách tham khảo cũng nghiên cứu vấn đề này như cuốn:”TNHS của pháp nhân trong Pháp luật hình sự” của tác giả Trịnh Quốc Toản - nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “chuyên đề về Luật hình sự (kỷ yếu hội thảo khoa học do nhà pháp luật Việt – Pháp phối hợp
  7. với vụ pháp luật hình sự - hành chính, tổ chức từ ngày 5-7 tháng 10 năm 1995 tại Hà Nội)” – Bộ tư pháp, viện nghiên cứu khoa học pháp lý; “Báo cáo đánh giá quốc gia của Việt Nam (2012), “Đánh giá thực hiện Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng của Việt Nam trong chu trình đánh giá 2011 – 2012 đối với các Điều từ 15-42, chương III “Hình sự hóa và thực thi pháp luật” và các Điều từ 44-50, chương IV “Hợp tác quốc tế” do Li-băng và Italia thực hiện”” – nhà xuất bản Lao động xã hội (2012); Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hải Anh với đề tài “TNHS của pháp nhân – những vẫn đề lý luận và thực tiễn” (2010)… Những công trình nghiên cứu khoa học, những bài viết nói trên đã giới thiệu được các quy định về TNHS pháp nhân ở một số nước, phân tích, so sánh các quy định về TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự một số nước đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới để từ đó đưa ra những quan điểm về việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân tại Việt Nam. Tuy nhiên mỗi công trình chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định nhưng chủ yếu là nghiên cứu vấn đề lý luận TNHS của pháp nhân mà chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung phân tích và chỉ ra sự cần thiết phải quy định TNHS của pháp nhân đối với nhóm tội phạm cụ thể. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến đề xuất để hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về các tội phạm chức vụ, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Với mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất: Đưa ra các quan điểm, cơ sở quy định TNHS của pháp nhân; những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của các tội phạm về chức vụ để từ đó
  8. chỉ ra sự cần thiết việc hình sự hóa TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ. Thứ hai: Trình bày nội dung của một số công ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có quy định vấn đề TNHS của pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm tham nhũng nói riêng để từ đó tổng kết kinh nghiệm cho quá trình lập pháp của Việt Nam. Cuối cùng:Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của luật cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng luật hình sự Việt Nam đồng thời nghiên cứu lý luận TNHS của pháp nhân, kinh nghiệm lập pháp và kinh nghiệm áp dụng luật hình sự về vấn đề TNHS của pháp nhân đối với các tội về chức vụ của một số quốc gia trên thế giới đưa ra một số kiến nghị cụ thể về TNHS của pháp nhân đối với tội phạm về chức vụ trong luật hình sự Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học và những quy định của luật hình sự Việt Nam, các quy định của luật hình sự một số nước trên thế giới về vấn đề TNHS của pháp nhân đối các tội đưa hối hộ và nhận hối lộ, các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc phê chuẩn có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Hiện nay vấn đề liên quan đến TNHS của pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân đối với các tội đưa hối lộ và nhận hối lộ nói riêng đang được quan tâm. Tuy nhiên tác giả chỉ thực hiện luận văn trong phạm vi những vấn đề được nhìn nhận từ góc độ luật hình sự. Đề tài được tiếp cận và được thực hiện dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật, chủ yếu trên cơ sở những quy định hiện hành của luật hình sự Việt Nam và một số công ước quốc tế cũng như luật pháp của một số quốc gia có quy định vấn đề TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm đưa hối lộ và nhận hối lộ.
  9. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm ba chương: - Chương 1:Những vấn đề về TNHS của pháp nhân và cáctội phạm về chức vụtrong Luật hình sự Việt Nam. - Chương 2:Những đòi hỏi của việc quy địnhTNHS của pháp nhân đối với các tội phạm chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam. - Chương 3: Kiến nghị hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam.
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰCỦA PHÁP NHÂN VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀVỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN 1.1.1. Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của pháp nhân TNHS của pháp nhân là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm pháp lý của pháp nhân mới chỉ được quy định trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, hành chính. Trong lĩnh vực hình sự, trách nhiệm của pháp nhân vẫn chưa được quy định. Từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, khoa học hình sự nước ta mới đưa ra những luận chứng chủ yếu cho sự điều chỉnh về mặt luật pháp chế định TNHS của pháp nhân. Tuy chỉ có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này song đã xuất hiện những quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này mà tựu chung lại là hai luồng quan điểm cơ bản. Đó là quan điểm ủng hộ việc thiết lập chế định TNHS nhiệm hình sự của pháp nhân và quan điểm phản đối việc thiết lập chế định này. Tất cả đều đưa ra những lập luận và lý lẽ riêng để chứng minh và bảo vệ quan điểm của mình. Quan điểm cho rằng chủ thể của tội phạm chỉ có thể là thể nhân chiếm ưu thế và tồn tại trong một thời gian dài. Những nhà hình sự học theo quan điểm này cho rằng việc thiết lập TNHS của pháp nhân đã vi phạm một nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự là nguyên tắc lỗi. Theo cách hiểu truyền thống từ trước đến nay, lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của người đó đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị Luật hình sự cấm và thái độ đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Do đó lỗi trong pháp luật hình sự về cơ bản chỉ có ở cá nhân người phạm tội. Ngay cả trong trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng
  11. phạm thì mỗi người tham gia với một vai trò khác nhau, họ có thể là người tổ chức, người giúp sức, người thực hành, người xúi giục nên tính chất, mức độ tham gia của mỗi người là khác nhau vì vậy lỗi của họ là khác nhau. Lỗi trong trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm chỉ đặt ra đối với mỗi người phạm tội chứ không thể quy lỗi chung đối với nhóm đồng phạm đó[1, tr.7]. Không thể có lỗi của tập thể con người mặc dù có thể tập thể con người đó có những quan điểm chung về một số vấn đề như trường hợp đồng phạm hay đồng phạm có tổ chức[8, tr. 26]. Còn pháp nhân là do con người lập ra và hoạt động của nó chỉ có thể được thực hiện thông qua những con người cụ thể nên nó không thể và không bao giờ có lỗi. Pháp nhân chỉ là một thực thể giả tưởng của pháp luật, nó chỉ là cấu trúc pháp lý được thiết lập nhằm phục vụ các lợi ích cá nhân của những thành viên pháp nhân. Các nghị quyết, các quyết định của pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân của các thành viên pháp nhân chứ không phải tự sự mong muốn của chính pháp nhân đó [30, tr. 52].Do vậy không có lỗi nào có thể quy kết cho pháp nhân và theo logic của sự vật và phép biện chứng của triết học - không có lỗi hình sự thì không có TNHS. Trái lại những quan điểm của những nhà hình sự học theo học thuyết truyền thống phản đối việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân, nhưng người ủng hộ thiết lập chế định TNHS của pháp nhân đã đưa ra lập luận phản bác lại những quan điểm trên. Họ cho rằng pháp nhân không phải là một trìu tượng pháp lý thuần túy mà nó có những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, nó có sự tồn tại thực tế trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân và tổ chức trên thực tế. Ý chí của pháp nhân hoàn toàn độc lập với ý chí của các thành viên trong pháp nhân. Trong điều lệ cũng như trong các văn bản của pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, về hoạt động của pháp nhân và pháp nhân có thể tự do tìm kiếm lợi ích riêng của bản thân độc lập với lợi ích cá nhân tạo lên nó [30, tr. 54]. Pháp nhân bao gồm các cá nhân
  12. được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được tổ chức thông qua các cấu trúc pháp lý xác định. Trong mỗi pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên pháp nhân mà pháp nhân hoàn toàn có ý chí riêng của mình, có mong muốn riêng của mình, được xử sự tự do và hưởng các quyền tự chủ của chủ thể và vì vậy, nó cũng có điều kiện để có lỗi khi thực hiện tội phạm. Pháp nhân có thể được so sánh với con người. Denning LJ, một thẩm phán nổi tiếng người Anh trong một phiên tòa xét xử tranh chấp giữa hai công ty tại Anh năm 1957 đã có một nhận định mà sau này thường được dẫn chứng để nói về tư cách pháp nhân: “Một công ty dưới góc độ nào đó giống như cơ thể con người. Nó có bộ não, có hệ thần kinh trung ương kiểm tra những gì nó làm. Nó cũng có tay để cầm công cụ và hành động theo mệnh lệnh của hệ thần kinh trung ương” [40, tr. 2]. Nếu lỗi của thể nhân là sự tự do ý chí của chủ thể, tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn hành vi của mình thì pháp nhân cũng vậy, nó cũng có tự do khi lựa chọn hành vi của nó. Do đó những người theo quan điểm ủng hộ TNHS của pháp nhân khẳng định lại việc quy kết TNHS của pháp nhân là trên cơ sở lỗi chứ không phải quy tội khách quan. Những người theo học thuyết truyền thống chống lại TNHS của pháp nhân ngoài việc đưa ra quan điểm việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân vi phạm nguyên tắc lỗi trong luật hình sự thì theo họ, nó còn vi phạm một nguyên tắc nữa của luật hình sự đó là nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi khi tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội thì trong từng vụ án cụ thể phải căn cứ vào hành vi, sự tham gia cụ thể của họ vào tội phạm bị truy cứu, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, các yếu tố nhân thân của người phạm tội để đưa ra một bản án phù
  13. hợp đối với từng người phạm tội. Mỗi người phạm tội sẽ có hình phạt thỏa đáng. Trong khi một tội phạm được thực hiện trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân, thì hoặc là toàn bộ các thành viên của pháp nhân đã phạm tội cần phải bị trừng trị có sự phân biệt và tương xứng với lỗi của từng người hoặc là chỉ trừng trị một hoặc một số người trong pháp nhân đã liên hiệp hành động phạm tội. Sẽ là đúng, công bằng nếu trừng trị những người đó; sẽ là không công bằng nếu lại trừng trị tất cả những thành viên khác trong pháp nhân chỉ vì lý do họ thuộc về một tập thể hoặc là họ phụ thuộc vào nó [18, tr. 12]. Như vậy, rõ ràng trong cả hai trường hợp đều không có nhu cầu trừng trị vào pháp nhân. Theo Thomas Hobbes, cái giá thực sự khi áp dụng TNHS, xét đến cùng, chính các pháp nhân không phải chịu mà là những cá nhân cụ thể trong pháp nhân như người góp cổ phần, cổ đông, người lao động… phải chịu. Như vậy chế định TNHS của pháp nhân không thể chấp nhận được về phương diện pháp lý cũng như đạo đức [30, tr. 53] Về quan điểm cho rằng việc quy kết TNHS và áp dụng hình phạt với pháp nhân sẽ không công bằng và gây hại cho nguyên tắc cá thể hóa hình phạt thì theo quan điểm của hình sự học hiện đại, những người ủng hộ việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân lý giả rằng: Chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và chỉ đối với chính bản thân chủ thể phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những pháp nhân khi các thực thể này phạm tội. Công bằng không có nghĩa là phải trừng trị các cá nhân này hay cá nhân khác mà công bằng chính là buộc chủ thể thực hiện tội phạm phải chịu hình phạt. Không có lý lẽ công bằng nào lại buộc cá nhân những người cấp dưới vốn chẳng có quyền hành gì và các nhà quản lý có trách nhiệm thành những người phải hứng chịu hậu quả thay cho pháp nhân phạm tội [18, tr. 18]. Cũng không có sự công bằng nào về cùng một hành vi phạm tội lại có những cách đối xử khác nhau. Đối với pháp nhân phạm tội cùng loại thì xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm
  14. hành chính. Còn đối với cá nhân những người lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân lại bị trừng trị bằng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nhiều. Như vậy bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân là thể hiện nguyên tắc công bằng và bình đẳng. Pháp nhân phạm tội thì pháp nhân phải là chủ thể đứng ra chịu TNHS. Nếu pháp nhân phạm tội mà bắt thành viên của pháp nhân phạm tội chịu TNHS còn pháp nhân chỉ bị xử lý chế tài phi hình sự là sự không công bằng. Bản án kết tội đối với một pháp nhân khác với bản án có thể xảy ra của các thành viên pháp nhân, nó không nhằm vào cá nhân các thành viên của pháp nhân mà chính là pháp nhân – chủ thể chịu TNHS. Tiếp nữa những người theo học thuyết truyền thống không chỉ chống lại TNHS của pháp nhân bằng lý lẽ là pháp nhân không có khả năng phạm tội mà họ còn cho rằng các chế tài hình sự nói chung không thể áp dụng được cho pháp nhân và nếu có hình phạt nào áp dụng thì cũng không cần thiết và cũng không có hiệu quả. Những hình phạt đặc trưng, truyền thống và mang lại hiệu quả trong luật hình sự như tử hình, phạt tù…thị lại không thể áp dụng được cho pháp nhân. “Người ta có thể bắt giam như thế nào đối với một thực thể mà bản chất của nó là vô hình?” [18. Tr. 13]. Làm thể nào có thể tước mạng sống của một chủ thể giả tưởng mà bản thân của nó là thiếu sự tồn tại của thực thể hữu hình Như vậy một khi hình phạt không thể được áp dụng thì tất nhiên mục đích của hình phạt cũng không được đặt ra. Một số hình phạt khác mặc dù có khả năng áp dụng được cho pháp nhân như phạt tiền, tịch thu tài sản, tước một số quyền… song nếu áp dụng những hình phạt này sẽ tác động cả những cá nhân là thành viên của pháp nhân không có lỗi, không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều này là sự bất công bằng giữa các thành viên trong pháp nhân, gây phá sản cho pháp nhân, làm ảnh hưởng thu nhập, đời sống của họ,
  15. dẫn đến bất bình đối với pháp luật, ảnh hưởng xã hội. Lúc này mặc dù có thể áp dụng hình phạt đối với pháp nhân song mục đích của hình phạt không đạt được. Mặt khác trong hệ thống pháp luật, trong từng ngành luật tương ứng như luật hành chính, luật dân sự… đã có chế tài pháp lý phi hình sự như chế tài phạt tiền, cấm hoạt động nhất định, giải thể pháp nhân… vì vậy họ cho rằng nếu các chế tài ấy được xây dựng lại một cách khoa học và phù hợp với thực tiễn thì cũng có thể áp dụng đối với pháp nhân chứ không nhất thiết phải ghi nhận các chế tài ấy trong pháp luật hình sự. Quan điểm cho rằng các pháp nhân về bản chất là những thực thể vô hình nên không thể áp dụng hình phạt đối với nó, một số hình phạt trong hệ thống hình phạt nước ta rất đa dạng, một số hình phạt như tử hình hay các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng được với pháp nhân song với sự đa dạng trong hệ thống hình phạt rất nhiều hình phạt có thể áp dụng đối với pháp nhân mà tác động đến những quyền và tài sản mà pháp nhân có. Những hình phạt này đang dần dần phát triển phù hợp với bản chất pháp nhân phạm tội và mục đích của hình phạt đã đạt được. Mặc dù đúng là những hình phạt này đã có trong các chế tài pháp lý phi hình sự song do tính chất phi hình sự mà những chế tài này không đạt được hiệu quả cao khi áp dụng. Trên thực tế đã chứng minh điều đó khi các vụ việc do pháp nhân thực hiện gây thiệt hại cho xã hội tăng nhanh cả về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng. Tóm lại trong khoa học pháp lý hiện nay vấn đề có nên quy định TNHS của pháp nhân hay không còn là vấn đề đang được tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu pháp lý. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua khi mà Ban soạn thảo Dựa án BLHS sửa đổi đã tiến hành phiên họp và nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều tán thành việc quy định TNHS của pháp nhân đối với một nhóm tội, trong đó có các tội phạm về chức vụ. Tác giả cũng ủng hộ quan điểm thiết lập chế độ TNHS của pháp nhân đối với một nhóm tội
  16. phạm trong đó có các tội phạm về chức vụ bởi vì việc thiết lập TNHS của pháp nhân không vướng bất kỳ nguyên tác nào của luật hình sự, đồng thời còn góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về chức vụ trong giai đoạn hiện nay. 1.1.2. Cơ sởcủa việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân *Cơ sở lý luận của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân Như chúng ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Dựa vào khái niêm tội phạm này chúng ta có thể đưa ra những cơ sở lý giải đối với chủ thể của tội phạm là pháp nhân giống như những người ủng hộ quan điểm thiết lập chế định TNHS của pháp nhân lập luận. Trước hết có thể khẳng định pháp nhân là một thực thể có thật. Pháp nhân có những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, có sự tồn tại thực tế của nó trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân. Thực tế pháp luật đã ghi nhận nó trên phương diện pháp lý. Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam quy định pháp nhân được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ xã hội một cách độc lập. Cũng như thể nhân, pháp nhân cũng có hành vi của mình. Tuy nhiên hành vi của pháp nhân khác với thể nhân, hành vi của pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện, người lãnh đạo của pháp nhân. Trong các điều lệ, văn bản về pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, hoạt động của pháp nhân và đó chính là hành vi của pháp nhân. Theo quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ của pháp nhân thì người lãnh đạo, đại diện được thay mặt pháp nhân ra các quyết định, thực hiện các hành vi thuộc thẩm quyền của pháp
  17. nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Với hậu quả có lợi cũng như bất lợi phát sinh từ hành vi theo sự lựa chọn trên cơ sở ý chí của người đại diện, người lãnh đạo đều do pháp nhân thụ hưởng hoặc gánh chịu. Những hoạt động của pháp nhân thường là những hành vi có lợi cho pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân, lợi ích của xã hội nhưng cá biệt cũng có những hoạt động vì lợi ích của mình mà pháp nhân có thể gây thiệt hại cho xã hội ở những mức độ khác nhau và việc gây thiệt hại ở mức độ đáng kể là rất có thể xảy ra. Vì vậy pháp nhân có thể có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Mặt khác, các pháp nhân mặc dù bao gồm các cá nhân nhưng được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được pháp luật thông qua các cấu trúc pháp lý xác định. Pháp nhân có thể tự quyết định một cách tự do và theo đuổi những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo nên pháp nhân đó. Trong các pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên tập đoàn. Pháp nhân hoàn toàn có ý chí của riêng mình bởi vì nó sinh ra, tồn tại và phát triển bằng sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của thành viên của mình. Vì vậy pháp nhân là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng, được xử sự tự do và hưởng quyền tự chủ của chủ thể và có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân. Vì vậy nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và đương nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Như đã phân tích ở trên, lỗi trong luật hình sự là thể hiện tự do ý chí của chủ thể (Tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây thiêt hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn hành vi hợp pháp) thì pháp nhân cũng hoàn toàn tự do khi lựa chọn hành vi của mình. Vì vậy việc quy kết TNHS cho pháp nhân là hoàn toàn hợp lý trên cơ sở lỗi chứ không phải quy tội khách quan. Như vậy hành vi của pháp nhân hoàn toàn có
  18. thể đáp ứng các đặc điểm của tội phạm theo quy định của BLHS Việt Nam hiện hành. Cuối cùng, việc áp dụng hình phạt cho pháp nhân hoàn toàn có khả năng thực thi. Hình phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội và pháp nhân cũng có quyền và lợi ích nhất định, nên về lý thuyết, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân phạm tội là điều có thể. Và khi chúng ta tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân tức là chúng ta đã đạt được mục đích trừng trị, răn đe cũng như phòng ngừa của hình phạt. Do đó có thể khẳng định hoàn toàn có thể quy kết TNHS đối với pháp nhân. Như vậy có thể khẳng định về mặt lý luận, khoa học pháp lý hình sự hiện đại đã giải quyết cơ bản TNHS của pháp nhân. Việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân không vi phạm bất kỳ dấu hiệu nào của tội phạm cũng như nguyên tắc của Luật hình sự. Ngày nay, việc thừa nhận TNHS của pháp nhân là xu hướng phát triển chung trong pháp luật hình sự của nhiều nước và chúng ta hoàn toàn có thể quy định chế định này trong luật hình sự Việt Nam. *Cơ sở thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân Qua thực tế thấy rằng, quan điểm coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm đã có từ lâu và hiện nay nó đã được chính thức thừa nhận ở một số quốc gia trong đó có những quốc gia từ trước tới nay không thừa nhận mà thậm chí còn phê phán. TNHS của pháp nhân đã được ghi nhận và trở thành nguyên tắc cơ bản trong Luật hình sự của mỗi nước theo truyền thống Án lệnhư Anh, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand…Ở châu Âu lục địa, chế định TNHS cũng đã được thừa nhận trong pháp luật hình sự nhiều quốc gia như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha… Vấn đề TNHS của pháp nhân đã được điều chỉnh về
  19. mặt lập pháp không chỉ ở các nước theo truyền thống Common Law, châu Âu lục địa mà còn được thừa nhận ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Singapo, đặc biệt là Trung Quốc – một nước láng giềng của Việt Nam trong thời gian trước còn phản đối việc chấp nhận TNHS của pháp nhân. Không chỉ được ghi nhận trong pháp luật hình sự các quốc gia mà vấn đề TNHS của pháp nhân đã chính thức được khuyến nghị trong nhiều văn bản quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước của liên hiệp quốc về chống tham nhũng 2003, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia… Mặc dù quy định thiết lập TNHS của pháp nhân chỉ là quy định mang tính chất khuyến nghị song trong quyết định phê duyệt thực hiện các Công ước này, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu nghiên cứu bổ sung pháp nhân là chủ thể của hành vi tham nhũng. Có thể thấy xu hướng thừa nhận TNHS của pháp nhân đã ngày càng phổ biến trong pháp luật các quốc gia và là một xu hướng hợp thời đại. Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét, bổ sung chế định này trong pháp luật quốc gia. Ở Việt Nam, nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự cho thấy trước khi ban hành BLHS, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được thiết lập.Trong thời kỳ phong kiến, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được đề cập trong Quốc triều hình luật, Điều 62 chương Tạp luật có quy định: “Những trang trại ven biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ, thì bị xử biếm 3 tư, phải phạt gấp ba tang vật để sung công, lấy một phần thưởng cho người tố giác. Người chủ trang trại ấy mất chức giám trang”. Trước các mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được quy định trong pháp luật của chế độ thực dân phong kiến thời kỳ trước cách mạng tháng Tám như Điều 12 Dụ số 45.1088 ngày 03/5/1945 về trừng trị các vi phạm luật lệ hối đoái, quy định: “Đối với trường hợp vi phạm luật lệ hối đoái thì không những giám đốc, quản trị viên, quản lý của pháp nhân bị truy tố mà chính bản thân
  20. pháp nhân cũng có thể bị truy tố và bị phạt bạc”. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền chế độ cũ ở vùng tạm chiến của thực dân Pháp và ở miền Nam Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 cũng đã ban hành một số văn bản quy định TNHS của pháp nhân như: Điều 33 Dụ số 10 ngày 23/6/1950, Điều 26 Dụ số 33 ngày 16/11/1952… đặc biệt trong BLHS ngày 20/12/1972 của chính quyền Sài Gòn cũ chính thức quy định TNHS của pháp nhân là nguyên tắc chung trong luật hình sự. Điều 8 bộ luật này quy định “Luật hình chi phối mọi cá nhân và pháp nhân cứ trú trên lãnh thổ Việt Nam và mọi sự kiện xảy ra trên lãnh thổ này, kể cả không phận và hải phận”. Điều 69 quy định “Cá nhân và pháp nhân đều có thể bị truy cứu TNHS” và Điều 71 quy định “Pháp nhân có thể bị xử phạt giải tán, phạt vạ và tịch thu tài sản”. Trong hai lần pháp điển hóa BLHS năm 1985 và 1999, mặc dù trong kiến giải lập pháp của các tác giả được đưa ra tại Điều 2 BLHS 1985 quy định “Cơ sở của TNHS” với nội dung “Cơ quan, tổ chức, đơn vị (sau đây gọi là tổ chức) phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do đại diện của mình thực hiện vì lợi ích của tổ chức đó”. Nhưng sau đó trong dự thảo luật lần thứ XI (10/1998) thì kiến giải lập pháp này bị các nhà làm luật Việt Nam loại bỏ. Và BLHS hiện hành vẫn chưa chấp nhận nguyên tắc TNHS pháp nhân bên cạnh nguyên tắc TNHS cá nhân. Một thực tiễn đáng buồn là các vi phạm pháp luật có tính chất tội phạm do pháp nhân thực hiện ở nước ta trong những năm gần đây tăng rất nhanh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề trên nhưng nguyên nhân căn bản và sâu sa nhất đó là sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường. Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những chính sách kinh tế thông thoáng, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO nhằm mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của nhà nước ta đã tạo điều kiện phát triển mọi mặt, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế. Tuy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2