intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ ở cấp xã và đánh giá thực trạng các văn bản, quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện hiện nay; luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các văn bản, quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN HOµN THIÖN QUY CHÕ THùC HIÖN D¢N CHñ ë CÊP X· LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN HOµN THIÖN QUY CHÕ THùC HIÖN D¢N CHñ ë CÊP X· Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Lan
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ .................................................................................. 6 1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở và quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ...... 6 1.1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở .................................................................... 6 1.1.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ................................................... 17 1.2. Nội dung quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ................................ 27 1.2.1. Hệ thống văn bản, quy định của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ..... 27 1.2.2. Nội dung quy định quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ..................... 28 1.3. Các tiêu chí hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ........ 42 1.3.1. Tiêu chí chung của việc hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ................................................................................................... 42 1.3.2. Tiêu chí riêng của hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã .......... 45 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ .............................................................................................. 48 2.1. Thực trạng quy định về quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. ...... 48 2.1.1. Thực trạng về văn bản quy định thực hiện dân chủ ở cấp xã.............. 48 2.1.2. Thực trạng về quy định thực hiện dân chủ ở cấp xã ........................... 50 2.2. Thực trạng thực hiện các nội dung thực hiện dân chủ ở cấp xã ....... 51 2.2.1. Thực trạng thực hiện công khai để dân biết ........................................ 51
  5. 2.2.2. Thực trạng thực hiện dân bàn, dân tham gia ý kiến ............................ 56 2.2.3. Thực trạng thực hiện dân giám sát ...................................................... 58 Chương 3: HOÀN THIỆN QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ .............................................................................................. 61 3.1. Nhu cầu hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã .............. 61 3.1.1. Nhu cầu xuất phát từ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN......... 61 3.1.2. Nhu cầu xuất phát từ quá trình hội nhập quốc tế ................................ 63 3.1.3. Nhu cầu của cải cách nền hành chính quốc gia................................... 64 3.1.4. Nhu cầu của quá trình dân chủ ............................................................ 65 3.2. Quan điểm, phương hướng hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã........................................................................................ 68 3.2.1. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã cần đầy đủ và cụ thể ................. 68 3.2.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã cần hoàn thiện, đổi mới phù hợp với điều kiện mới và cần được điều chỉnh ở cấp độ Luật ............ 70 3.3. Giải pháp hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã ........... 70 3.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản về thực hiện dân chủ ở cấp xã .............. 70 3.3.2. Hoàn thiện quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã ........................... 75 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 94
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐND: Hội đồng nhân dân KTTT: Kinh tế thị trường LHQ: Liên Hiệp Quốc MTTQ: Mặt trận tổ quốc QCDC: Quy chế dân chủ UBND: Ủy ban nhân dân UBTUMTTQVN: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thi ̣của Bô ̣ Chin ́ h tri,̣ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29-NQ/CP ngày 11/5/1998 và sau đó là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã . Trước yêu cầ u về viê ̣c thực hiê ̣n dân chủ ở cấp xã , để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện, ngày 20/4/2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, về việc thực hiê ̣n dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tiế p đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng, khóa X đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW, ngày 04/3/2010 về tiế p tục thực hiê ̣n Chỉ thi ̣số 30-CT/TW của Bô ̣ Chiń h tri ̣khóa VIII về thực hiê ̣n quy chế dân chủ ở cơ sở. Hiện nay Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong việc thực hiện dân chủ của nhân dân ở cấp xã. Thực tế cho thấy việc ban hành Pháp lệnh đã đạt được những kết quả rất rất lớn, góp phần quan trọng củng cố quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy vậy, quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: Quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi được; phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống. Ở Việt Nam, xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở trực tiếp nhất, gần dân nhất trong hệ thống chính trị; là nơi người 1
  8. dân thực hiện quyền dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết các công việc trong cộng đồng dân cư, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; là nơi dân sản xuất, kinh doanh, lao động, và học tập. Xã, phường, thị trấn cũng là nơi nảy sinh và giải quyết những công việc hàng ngày trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội; cũng là nơi hiện thực hóa mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Dân chủ ở xã, phường, thị trấn là thực hiện những nội dung dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi, đến với từng người dân nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, trật tự công cộng. Do đó, để người dân địa phương phát huy tối đa quyền làm chủ của mình, đòi hỏi các văn bản, quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã phải được hoàn thiện. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển khai nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã" là việc làm cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quy chế về thực hiện dân chủ ở cấp xã là tập hợp những văn bản, quy định đã và đang được triển khai thực hiện trên thực tế. Hiện nay việc thực hiện dân chủ ở cấp xã được quy định cụ thể nhất trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20/4/2007 và một số văn bản, quy định đó là: Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTUMTTQVN, ngày 17/4/2008 Hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; các quy định về Ban 2
  9. thanh tra nhân dân cấp xã được quy định tại Điều 68, Điều 69, Điều 70 và Điều 71 Luật Thanh tra 2010; Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP- BVHTT-BTTUBTUMTTQVN, ngày 31/3/2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư; Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng và Thông tư liên tịch số 04/2006/ TTLT/KH&ĐT-UBTUMTTQVN-TC, ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài chính. Do nội dung của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã rất sâu, rộng, ngoài các văn bản, quy định trên còn được quy định tản mạn ở nhiều văn bản, quy định khác. Vì vậy bài viết, công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ: Tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai thực hiện các nội dung thực hiện dân chủ ở cấp xã như nội dung công khai để nhân dân biết, nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp hoặc biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, nội dung nhân dân tham gia ý kiến và nội dung nhân dân giám sát. Đồng thời đánh giá về thực trạng hệ thống các văn bản, quy định thực hiện dân chủ ở cấp xã và quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ ở cấp xã và đánh giá thực trạng các văn bản, quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện hiện nay; luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các văn bản, quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện nay. Luận văn có nhiệm vụ: 3
  10. - Tìm hiểu, phân tích một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu: Khái niệm, đặc điểm nền dân chủ, bản chất, vai trò của dân chủ ở cơ sở; khái niệm, nội dung, vai trò và tiêu chí hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã; - Phân tích, đánh giá thực trạng thi hành các nội dung thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện nay; - Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, bước đầu đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các văn bản, quy định về thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng bao gồm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, cơ quan hành chính, doanh nghiệp, trường học… Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng thi hành và quan điểm hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã được cụ thể trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số 34/2007/PL- UBTVQH11, ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và một số văn bản, quy định tại Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTUMTTQVN, ngày 17/4/2008 và các quy định về Ban thanh tra nhân dân cấp xã; Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTUMTTQVN, ngày 31/3/2000 Hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư; Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng; Thông tư liên tịch số 04/2006/ TTLT/KH&ĐT-UBTUMTTQVN-TC, ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài chính. 4
  11. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng; - Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử - cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh, điều tra xã hội học. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm, tiêu chí hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã; - Phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng và những nguyên nhân tồn tại của quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã; - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở. - Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy trong các trường pháp lý cũng như nghiên cứu hoàn thiện pháp luật thực hiện quyền dân chủ ở Việt Nam trong thời gian tới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. Chương 2. Thực trạng quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. Chương 3. Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã. 5
  12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ 1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở và quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã 1.1.1. Thực hiện dân chủ ở cơ sở 1.1.1.1. Khái niệm dân chủ Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do 2 từ hợp thành Demos (dân chúng) và Cratos (quyền lực hay cai trị). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [36, tr. 653]. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân là một trong những hình thức tổ chức chính trị Nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Dân chủ XHCN là một hình thức dân chủ do nhân dân lao động chủ động thiết lập trong tiến trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội chính trị tiên phong của nó, là Đảng cộng sản. Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph. Ăng - ghen đã cho rằng: "Trước hết giai cấp công nhân phải tự mình tổ chức thành giai cấp thống trị và giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp của nó là giành lấy quyền lực Nhà nước" [38]. Như vậy dân chủ XHCN có mục đích tự thân, giành lấy dân chủ là để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người lao động. 6
  13. C.Mác đã dự báo điều đó rằng: "Thay cho xã hội tư bản cũ với những giai cấp và đối kháng, giai cấp của nó sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [38, tr. 628]. Sau này, Lênin tiếp tục phát triển tư tưởng ấy trong điều kiện mới. Theo Lênin thì dân chủ gắn bó hữu cơ, mật thiết với CNXH. Người viết: Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng XHCN nếu họ không chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dần được nhân loại đi đến thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ. Nghiên cứu lý thuyết về dân chủ có nhiệm vụ làm sáng tỏ bản chất, những đặc điểm hình thành, những trình độ phát triển cùng những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dân chủ trong mỗi thời kỳ nhất định và cuối cùng là phải vạch ra những điều kiện để thực hiện dân chủ trong xã hội gắn liền với những quy định tất yếu, khách quan của cơ sở kinh tế và chính trị xã hội của xã hội đó. Để làm được điều đó phải xác định hướng tiếp cận về dân chủ như sau: Thứ nhất: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát triển với tư cách là sản phẩm, là kết quả trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động chính trị của các giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Chế độ dân chủ của một xã hội thường tìm thấy phương thức biểu hiện phổ biến của nó ở chế độ nhà nước. Nhà nước như là một thiết chế chính trị để thực hiện dân chủ tuy không phải bất cứ chế độ nhà nước nào cũng là chế độ dân chủ. Lịch sử đã từng biết tới các hình thức nhà nước chuyên chế, quân chủ (dưới các triều đại 7
  14. và chế độ phong kiến) cũng như nhà nước phát xít, các khuynh hướng độc tài và phát xít hoá nhà nước trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Đó là những chế độ nhà nước phản dân chủ, xung đột gay gắt với quyền dân chủ của công dân và xã hội nói chung. Sự trùng hợp giữa dân chủ với nhà nước đòi hỏi tổ chức và bộ máy Nhà nước được xây dựng nên cùng với công cụ của nó là pháp luật phải ít nhiều mang tính chất tiến bộ, đáp ứng được những mức độ nào đó của lợi ích nhân dân và nhu cầu xã hội. Do vậy các cuộc đấu tranh cho dân chủ diễn ra trong lịch sử bao giờ cũng phản ánh và gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh xã hội. Nó đụng chạm trực tiếp tới những cải cách hoặc phá bỏ chế độ Nhà nước này hay chế độ Nhà nước khác. Quyền thống trị của giai cấp này hay giai cấp khác. Xét trên bình diện xã hội và quản lý xã hội, giải quyết vấn đề dân chủ có nội dung căn bản của nó ở chỗ giải quyết vấn đề Nhà nước. Lênin viết: …Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chừng nào mà ý chí của đa số vẫn còn mờ tối, chừng nào mà người ta vẫn có thể, dù chỉ là hơi giống như thế thôi, cho ý chí đó là còn mờ tối, thì chừng đó người ta vẫn còn đưa ra cho nhân dân một Chính phủ của bọn tư sản phản cách mạng dưới chiêu bài Chính phủ "dân chủ". Nhưng tình trạng đó không thể kéo dài được. Trong vài tháng đã trôi qua kể từ ngày 27/2 trở đi, ý chí của đa số công nhân và nông dân, tức là tuyệt đại đa số dân cư trong nước, đã thể hiện ra rõ rệt nhưng không phải chỉ dưới một hình thức chung mà thôi. Ý chí đó đã biểu hiện rõ trong các tổ chức có tính chất quần chúng - các Xô - Viết đại biểu công nhân, binh sĩ và nông dân. Vậy làm sao người ta lại có thể phản đối việc chuyển toàn bộ chính quyền Nhà nước về tay các Xô - Viết ấy được? Như thế không có nghĩa khác hơn là từ bỏ dân chủ [57, tr. 515 - 516]. 8
  15. Xét từ góc độ lợi ích trong xã hội đã phân chia thành giai cấp và hình thành Nhà nước thì không thể có dân chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân chủ chung cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp của dân chủ đã và sẽ còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và Nhà nước. Dân chủ chủ nô trong chế độ chiến hữu nô lệ, dân chủ tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dân chủ XHCN trong CNXH là những hình thức và trình độ khác nhau của sự phát triển dân chủ trong lịch sử. Dân chủ của ai, quyền lực thuộc về giai cấp hay lực lượng xã hội nào, giải quyết vấn đề lợi ích và quyền lực trên lập trường giai cấp nào trong những điều kiện lịch sử - cụ thể của một chế độ xã hội… Tính xác định có trong những câu hỏi đó cho thấy không thể có câu trả lời trừu tượng, phi lịch sử, thoát ly khỏi những giới hạn và ràng buộc giai cấp trong vấn đề dân chủ. Điều này chứng tỏ rằng, mọi nghiên cứu về dân chủ nếu không tựa vững chắc trên cơ sở kinh tế - xã hội và có sự nhất quán về quan điểm chính trị, tính thống nhất và sự chi phối lẫn nhau giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp xác định thì không thể chỉ ra bản chất của dân chủ. Lý luận về tính giai cấp của dân chủ, vì lẽ đó là yếu tố quan trọng nhất, là điểm xuất phát dẫn tới các vấn đề khác có trong lý thuyết và tư tưởng về dân chủ. Thứ hai: Dân chủ không chỉ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế xã hội mà dân chủ còn là thành tựu của nền văn hoá nhân loại, là thước đo về trình độ giải phóng con người và xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển của dân chủ là những nấc thang khác nhau của tiến bộ xã hội. Phản ánh những kết quả khác nhau theo xu hướng ngày càng cao hơn và hoàn thiện hơn của tổ chức xã hội, của quản lý Nhà nước và quản lý xã hội nói chung. Sự phát triển của dân chủ đồng thời là nhân tố kích thích và cũng là kết quả sự 9
  16. mở rộng và nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Việc quần chúng nhận được nhiều hay ít những khả năng và điều kiện để tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, các công việc quản lý xã hội, các hoạt động chính trị, điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển thực tế của dân chủ xã hội. Của pháp luật dân chủ và tiến bộ xã hội. Với dân chủ, con người chuyển từ thế bị động, lệ thuộc bởi giai cấp bóc lột, thống trị tới chỗ xác lập vai trò chủ thể, tích cực trong xã hội mà mình trở thành người chủ. Việc nhân dân lao động giành lấy dân chủ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội cũ bằng chế độ xã hội mới tiên tiến hơn, dân chủ hơn có ý nghĩa tích cực về chính trị và văn hoá. Để có quan niệm đúng đắn và toàn diện về bản chất của dân chủ XHCN cần phải khắc phục tính chất phiến diện trước đây thường dẫn tới đồng nhất giản đơn giữa dân chủ với Nhà nước, với chế độ Nhà nước và từ đó quan niệm rằng sự tiêu vong của Nhà nước (đến một lúc nào đó trong tiến trình phát triển của lịch sử) cũng đồng thời là sự tiêu vong của dân chủ. Điều đó đem lại cảm giác rằng, dường như dân chủ là một vấn đề tạm thời, vấn đề quyền lực của giai cấp thống trị gắn liền với tổ chức và bộ máy Nhà nước. Cũng do đó, trong quan niệm truyền thống dân chủ chỉ được xem như một phạm trù lịch sử. Phương pháp tiếp cận hệ thống khắc phục tình trạng ấy bằng cách xác định một tập hợp các yếu tố nổi bật và quan trọng nhất dưới đây: 1. Dân chủ được xét với tư cách là hình thức tổ chức xã hội, là phương thức quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, Quy chế, chế độ được bảo đảm về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ chức, bộ máy Nhà nước. Dân chủ trở thành một hình thức tổ chức Nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối với xã hội. Lẽ đương nhiên, chủ thể trực tiếp của quyền lực đó trước hết thuộc về một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nào nắm quyền điều khiển, chi phối xã hội. Trong mối tương 10
  17. quan với quyền lực Nhà nước và chế độ nhà nước, dân chủ ở đây được hiểu là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa này và trong mối quan hệ giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ mới là một phạm trù lịch sử. Nói cách khác dân chủ chỉ là phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà nước. Sự tiêu vong của nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực bằng Nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân chủ mà thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính bản thân họ. Nó cũng không làm mất đi các giá trị của dân chủ mà trung tâm của các giá trị này là tự do, là thành quả đấu tranh xã hội để giành lấy tự do cho con người, con người trở thành tự do, làm chủ và sáng tạo. Nền dân chủ, chế độ dân chủ từng xuất hiện từ thời cổ đại và sẽ còn tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự kiến của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi hoàn toàn, khi ấy Nhà nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong của chế độ dân chủ. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin đã nhấn mạnh rằng: Trong những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta luôn luôn phạm một sai lầm mà Ăng ghen đã căn dặn phải đề phòng ở đây… Sai lầm ấy là: Người ta luôn quên rằng thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu vong cũng là chế độ dân chủ tiêu vong… và chế độ dân chủ là một hình thức Nhà nước, một trong những hình thái của Nhà nước…. chế độ dân chủ càng hoàn bị bao nhiêu thì nó càng gần đến lúc trở thành thừa bấy nhiêu [54, tr. 33, 101]. 2. Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Dân chủ với tư cách 11
  18. quyền lực của nhân dân được coi như một giá trị đứng ngang hàng với các giá trị cơ bản khác của con người, như tự do, bình đẳng, tôn trọng phẩm giá con người. Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân. Sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa dân chủ và CNXH là ở đó. CNXH tìm thấy dân chủ một thuộc tính bản chất, một trong những động lực phát triển nội tại của mình. Dân chủ trên con đường tiến hoá và phát triển tìm thấy ở hình thức tổ chức xã hội XHCN những khả năng và điều kiện tốt nhất để bộc lộ đầy đủ tiềm lực, sức mạnh bản chất, chân giá trị của mình. 1.1.1.2. Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong lao động và sinh sống, nhân dân luôn gắn bó mật thiết với một đơn vị, một tổ chức, một địa bàn dân cư nhất định. Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trên một hệ thống có tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Đó chính là xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở… nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN, được tổ chức thành 04 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự nhiên của 12
  19. con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Nhân dân có quyền được biết, được bàn và tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián tiếp và dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở. Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm chính sách pháp luật một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước. Mỗi bước phát triển của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Dân chủ phải gắn liền với pháp luật và thực hiện pháp luật. Song việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng, dân chủ gắn liền với kỷ cương. Hiện tại, các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở của Nhà nước ta mới chỉ thể chế đối với cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong đó, dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một nội dung quan trọng chủ yếu đề cập đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền 04 cấp ở nước ta theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Còn rất nhiều loại hình cơ sở khác chưa có quy định về thực hiện dân chủ đặt ra cho Đảng. Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là quyền trực tiếp của người dân (mặc dù gồm cả dân chủ đại diện) được tiến hành từ cấp xã trở xuống (đến cấp thôn, xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp) theo phương châm dân biết, dân 13
  20. bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ ở cơ sở trước hết là dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền ở cơ sở. 1.1.1.3. Các phương thức thực hiện dân chủ ở cơ sở: Pháp luật ghi nhận các quyền dân chủ của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, song dù ghi nhận đầy đủ đến đâu cũng trở nên không có ý nghĩa nếu không có các phương thức thực hiện nó trong cuộc sống. Phương thức thực hiện quyền dân chủ là cách thức, phương pháp để đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống, làm cho nó trở thành hiện thực trực tiếp và phổ biến trong đời sống cộng đồng và của quản lý xã hội. Vai trò quyết định đối với việc thực hành dân chủ thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua hai hình thức là dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp) và dân chủ trực tiếp. - Dân chủ đại diện: Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ thể quyền lực (tức nhân dân) vẫn giữ cho mình quyền và chức năng tác động, giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan đại diện. Dân chủ đại diện là một hình thức thực hiện dân chủ quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong quy trình thực hiện quyền lực của nhân dân và đã được thực tiễn hoạt động Nhà nước trong các quốc gia dân chủ ghi nhận. Hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ đại diện là chế độ đại nghị tư sản, ra đời trong lòng chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế, trở thành công cụ của giai cấp tư sản trong quá trình đang lên. Ở Việt Nam, dân chủ đại diện với các quan điểm của chế độ "dân uỷ" đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946) và tiếp tục khẳng định trong tất cả các bản 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2