intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

30
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện chính sách này có hiệu quả trong thời gian tới, góp phần xóa nghèo về pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THÚY HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THÚY HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Tú HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 7 TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO 1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 7 1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý 8 1.3. Người được trợ giúp pháp lý 9 1.4. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý 12 1.4.1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý 12 1.4.2. Người thực hiện trợ giúp pháp lý 15 1.4.3. Các hình thức hoạt động trợ giúp pháp lý 18 1.4.3.1. Tư vấn pháp luật 18 1.4.3.2. Tham gia tố tụng 20 1.4.3.3. Đại diện ngoài tố tụng 20 1.4.3.4. Các hình thức trợ giúp pháp lý khác 21 1.5. Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo 21 1.5.1. Quan niệm về đói nghèo 21 1.5.2. Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo 23 1.5.3. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong các 28 5
  4. chương trình giảm nghèo Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP 32 PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO 2.1. Thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương 32 trình giảm nghèo những năm qua 2.1.1. Kết quả khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý, rà soát, tổng hợp 32 danh sách các xã thuộc các chương trình giảm nghèo 2.1.2. Tổ chức tập huấn quán triệt hoạt động trợ giúp pháp lý và 32 hướng dẫn thực hiện các chương trình giảm nghèo 2.1.3. Thành lập và tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý 38 2.1.3.1. Ban chủ nhiệm 38 2.1.3.2. Thành phần tham gia sinh hoạt 39 2.1.3.3. Tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý 40 2.1.3.4. Về kinh phí tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý 43 2.1.3.5. Quản lý tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý 44 2.1.4. Kết quả cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, đáp ứng yêu cầu 45 trợ giúp pháp lý của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số 2.1.5. Tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động 52 2.1.6. Cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật miễn phí 55 2.2. Đánh giá chung 56 2.2.1. Những thuận lợi 56 2.2.2. Những hạn chế 57 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế 62 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC 65 HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO THỜI GIAN TỚI 6
  5. 3.1. Quan điểm, định hướng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp 65 lý trong các Chương trình giảm nghèo 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo 65 3.1.2. Nhu cầu trợ giúp pháp lý của người nghèo, đồng bào dân 72 tộc thiểu số ngày càng tăng 3.2. Một số giải pháp để thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý 75 trong các chương trình giảm nghèo có hiệu quả trong thời gian tới 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động trợ giúp 75 pháp lý trong các chương trình giảm nghèo 3.2.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy thực hiện trợ giúp pháp lý 77 3.2.3. Nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức về hoạt động trợ 80 giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo 3.2.4. Triển khai đồng bộ, có hệ thống tất cả các hoạt động trợ 81 giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo 3.2.5. Tiếp tục thành lập, củng cố kiện toàn tất cả các Câu lạc bộ 82 trợ giúp ở các xã nghèo 3.2.6. Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát 84 các địa phương đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo 3.2.7. Phối hợp, lồng ghép các hoạt động trợ giúp pháp lý với các 85 chính sách khác cùng thuộc các chương trình giảm nghèo KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 7
  6. Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang b¶ng 2.1 Số liệu vụ việc trợ giúp pháp lý từ năm 2007 - 2010 48 2.2 Số người được trợ giúp pháp lý từ năm 2007 - 2010 4
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên cơ sở Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ, hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước ra đời để giúp đỡ pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Để khẳng định tầm quan trọng của công tác trợ giúp pháp lý cũng như tạo cơ sở pháp lý bền vững thúc đẩy công tác này phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người dân, ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007). Cùng với các quy định cụ thể, chặt chẽ về khái niệm, nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý, tổ chức bộ máy, người thực hiện trợ giúp pháp lý, Luật đã quy định các hoạt động trợ giúp pháp lý. Để đưa các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý đi vào cuộc sống, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành đồng bộ nhiều văn bản quy phạm pháp luật (nghị định, quyết định, thông tư) hướng dẫn chi tiết thi hành Luật. Đến nay, hoạt động này đã và đang ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò trong đời sống pháp luật của xã hội, trở thành bộ phận quan trọng trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo và được cụ thể hóa tại điểm d khoản 4 Điều 1 Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (Chương trình 135 giai đoạn II) và điểm d khoản 2 mục V Điều 1 Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 (sau đây gọi là các chương trình giảm nghèo). Có thể nói, mặc dù hoạt động trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân mới được bổ sung vào các chương trình giảm nghèo 8
  8. và bắt đầu được triển khai thực hiện từ quý IV năm 2007, nhưng ngành Tư pháp đã chủ động triển khai thực hiện đồng bộ các hoạt động và mang lại một số kết quả bước đầu, đó là: thành lập và hướng dẫn việc tổ chức sinh hoạt cho các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý lưu động, thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số bằng các hình thức khác nhau, cung cấp thông tin pháp lý… đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý phong phú, đa dạng của nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo, người dân tộc thiểu số và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được tiếp cận với dịch vụ pháp lý, tìm hiểu pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, đồng thời tham gia phát triển kinh tế, vươn lên xóa đói, giảm nghèo, thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tuy đạt được những kết quả đáng khích lệ nêu trên nhưng việc thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo còn một số tồn tại như chưa đáp ứng có hiệu quả tất cả nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân do nhận thức của các cấp chính quyền địa phương còn chưa đầy đủ về hoạt động này; văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo còn một số bất cập; nhiều người vẫn chưa biết và chưa được hưởng lợi từ dịch vụ trợ giúp pháp lý; người dân gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, đặc biệt là người dân sống ở vùng sâu, vùng xa; Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp các tỉnh có nhiều người dân tộc thiểu số chưa có đủ đội ngũ trợ giúp viên và cộng tác viên trợ giúp pháp lý là những người có thể nói tiếng dân tộc, do đó việc sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn; kỹ năng trợ giúp pháp lý của một số Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên trợ giúp pháp lý còn chưa cao, đặc biệt các Trợ giúp viên pháp lý còn rất ít kinh nghiệm trong việc thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng do họ mới chỉ bắt đầu được thực hiện trợ giúp pháp lý theo hình thức này 9
  9. sau khi Luật Trợ giúp pháp lý có hiệu lực vào ngày 01/01/2007; năng lực thực hiện trợ giúp pháp lý của Trợ giúp viên và cộng tác viên trợ giúp pháp lý còn hạn chế trong một số lĩnh vực pháp luật phức tạp và có nhiều thay đổi như pháp luật đất đai, chế độ chính sách,... Xuất phát từ những kết quả đạt được của hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo, để khắc phục những hạn chế, bất cập trên và nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận với dịch vụ mang tính chất ưu đãi của nhà nước dành cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn khác thì việc nghiên cứu đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo" là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn để thực hiện có hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo giai đoạn tiếp theo. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho những đối tượng yếu thế trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan về trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đó là: Luận án Tiến sĩ: "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị Minh Lý; Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến; Luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện 10
  10. các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân; Luận văn thạc sĩ: "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý", của Phan Thị Thu Hà; Luận văn thạc sĩ: "Trợ giúp pháp lý ở cơ sở", của tác giả Đặng Thị Loan; đề tài cấp Bộ: "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay"... Tuy nhiên, về vấn đề hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo", tác giả Luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp khoa học thúc đẩy các hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo thời gian tới để người nghèo, người dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn khác được trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu. 3. Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện chính sách này có hiệu quả trong thời gian tới, góp phần xóa nghèo về pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận, chính trị pháp lý và cơ sở thực tiễn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo. - Phân tích, đánh giá thực trạng triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo để thấy được những mặt ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện. 11
  11. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo trong thời gian tới. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài - Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân. - Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh, đối chiếu. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn. 5. Ý nghĩa của luận văn - Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, luận văn sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo. - Luận văn góp phần chứng minh quá trình phát triển đúng đắn các quy định pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy hoạt động này. Đồng thời, có sự đánh giá sâu sắc, sát thực tình hình thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo, nêu và phân tích yêu cầu về mặt pháp lý và thực tiễn trong thời gian tới đối với hoạt động này. - Luận văn này đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo giai đoạn tiếp theo. 12
  12. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo. Chương 2: Thực trạng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo trong thời gian tới. 13
  13. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƢƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO 1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20, xuất phát từ tiếng Anh là "legal aid". Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì "legal aid" có nghĩa là "trợ cấp pháp lý" [33]. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal aid" trong cụm từ "legal aid schem" có nghĩa là "bảo trợ tư pháp". Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp". Theo Đại Từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 1998 thì "trợ giúp" là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến". Trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 giải thích: trợ giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ "trợ giúp" có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự "giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ". Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các tài liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối 14
  14. tượng chính sách. Năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý đã có quy định chính thức về khái niệm trợ giúp pháp lý: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [42, Điều 3]. 1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý - Trợ giúp pháp lý là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, có đầy đủ những đặc trưng của dịch vụ công như: được xác định là một trong những chức năng xã hội của Nhà nước và là trách nhiệm của Nhà nước; đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý là những người yếu thế, không có đủ điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu, cần có sự trợ giúp của Nhà nước; các chi phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu do ngân sách Nhà nước bảo đảm. - Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại… Trợ giúp pháp lý được coi là một loại hình dịch vụ pháp lý nói chung bởi hình thức và phương thức thực hiện tương tự như dịch vụ pháp lý nói chung. Điểm khác biệt ở đây là trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi, lĩnh vực trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn; trợ giúp pháp lý của Nhà nước được thực hiện theo một trình tự, thủ tục khác so với trình tự, thủ tục thực hiện dịch vụ pháp lý chung do tổ chức và cá nhân khác thực hiện. Người thụ hưởng trợ giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào. 15
  15. - Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những người có hoàn cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội; - Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý, thể hiện qua phương thức hoạt động và mục đích hướng tới của nó. Tính chất pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý thể hiện ở chỗ, trợ giúp pháp lý là một trong các biện pháp thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống bởi Nhà nước phải có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để giúp người dân biết các quy định pháp luật để thực hiện, sử dụng, tuân thủ trong cuộc sống để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt, khi Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật và giải quyết các vấn đề phát sinh hàng ngày trên cơ sở pháp luật thì yêu cầu cần phải giúp cho người dân hiểu biết pháp luật trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. - Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp pháp lý được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân vào chế độ. Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả để Nhà nước giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội. 1.3. Ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý Theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý bao gồm: - Người nghèo là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật. Chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn cho 16
  16. phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Chuẩn nghèo hiện nay được thực hiện theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015. - Người có công với cách mạng bao gồm: Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ. Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ và cả tính mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế trong thời chiến cũng như trong thời bình, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật. Phần lớn những đối tượng này gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống do bị ảnh hưởng của thương tật, suy giảm sức khỏe và khả năng lao động (thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh), mất chỗ dựa chính trong gia đình (thân nhân liệt sĩ),… Chỉ một bộ phận nhỏ trong số họ có thu nhập ổn định. Với loại đối tượng này, chính sách trợ giúp pháp lý của Nhà nước chủ yếu thể hiện sự ưu tiên, ưu đãi, sự biết ơn đối với những cống hiến của họ chứ không căn cứ vào điều kiện thu nhập. - Người già cô đơn không nơi nương tựa: là những người từ 60 tuổi trở lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng. - Người tàn tật không nơi nương tựa: là những người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, 17
  17. học tập gặp nhiều khó khăn mà không có ai nuôi dưỡng, chăm sóc hoặc là người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm mất năng lực hành vi dân sự mà không có nơi nương tựa. - Trẻ em không nơi nương tựa: là người dưới 16 tuổi, không có gia đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng. - Người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật. Ngày 05/3/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn làm căn cứ thực hiện một số chế độ, chính sách đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, xóa đói, giảm nghèo nhằm cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, giảm sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các vùng khác trong cả nước. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở tất cả các vùng, miền của đất nước, nhưng tập trung phần lớn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản. Thu nhập của đồng bào chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngoài một số dân tộc có mặt bằng dân trí cao, mức sống khá như người Hoa (sống ở Thành phố Hồ Chí Minh), người Khơ-me (sống ở đồng bằng sông Cửu Long), người Chàm (sống ở một số tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ), còn lại các dân tộc thiểu số khác đều có trình độ dân trí thấp. Hầu hết các tộc người không có chữ viết riêng, phần đông không biết chữ quốc ngữ. Luật tục (tập quán pháp) giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số, quy định các chuẩn mực ứng xử của con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng, gần như thay thế cho pháp luật của Nhà nước. Do không có điều kiện tiếp cận để tìm hiểu pháp luật của Nhà nước nên trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân tộc thiểu số còn hạn chế. 18
  18. - Các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Hiện Việt Nam đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước: Cu Ba, Bungari, Hungari, Ba Lan, Lào, Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút. Công dân của các nước này cũng có thể được xem xét hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí nếu họ đang ở Việt Nam. 1.4. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý 1.4.1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý Theo Điều 13 Luật Trợ giúp pháp lý thì tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là Trung tâm) do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập. Trung tâm là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, sự chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn của Bộ Tư pháp. Trung tâm có Giám đốc, Phó giám đốc, Trợ giúp viên pháp lý. Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Trung tâm thực hiện các hoạt động chính sau đây: - Truyền thông về trợ giúp pháp lý trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức khác; - Khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Để có thể xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp với nhu cầu được giúp đỡ pháp luật của người dân tại từng địa bàn, các Trung tâm tiến hành khảo sát vướng mắc pháp luật của người dân ở từng địa phương, nhu cầu cần giúp đỡ trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể; 19
  19. - Cử người tiếp dân và thụ lý vụ việc trợ giúp pháp lý: thực hiện tư vấn pháp luật; ra quyết định cử người tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện những hình thức trợ giúp pháp lý khác cho người được trợ giúp pháp lý; - Tổ chức và thực hiện các đợt trợ giúp pháp lý lưu động đến các địa bàn cơ sở xa Trung tâm; - Hướng dẫn hoạt động và cử người trực tiếp tham dự sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý; - Cung cấp tờ gấp pháp luật và nói chuyện chuyên đề pháp luật tại cộng đồng; - Tổ chức tập huấn về kỹ năng trợ giúp pháp lý và cập nhật văn bản pháp luật mới cho Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên; - Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật; - Thực hiện các chức năng quản lý cán bộ, tài chính, cơ sở vật chất theo quy định. Quyền và nghĩa vụ của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước - Thực hiện trợ giúp pháp lý. - Đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc trợ giúp pháp lý. - Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện trợ giúp pháp lý. - Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về trợ giúp pháp lý. - Giải quyết khiếu nại theo quy định tại khoản 1 Điều 49 của Luật Trợ giúp pháp lý. - Giải quyết tranh chấp trong trợ giúp pháp lý. - Kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. 20
  20. Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm: Văn phòng luật sư, Công ty luật theo quy định của pháp luật về luật sư; Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo quy định của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật. Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý phải đăng ký với Sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt động. Các tổ chức này có thể lựa chọn để đăng ký về hình thức, phạm vi, lĩnh vực thực hiện trợ giúp pháp lý phù hợp. Cá nhân luật sư có thể tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên của Trung tâm (đến tháng 6/2011, toàn quốc đã có 242 Văn phòng luật sư, 21 Công ty luật và 57 Trung tâm tư vấn pháp luật đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý). Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật khi tham gia trợ giúp pháp lý có quyền lợi và trách nhiệm sau đây: - Được thực hiện trợ giúp pháp lý trong phạm vi Giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý; phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc Chi nhánh của Trung tâm để thực hiện có hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý. - Được đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý để phục vụ thực hiện trợ giúp pháp lý. - Được giới thiệu người có yêu cầu trợ giúp pháp lý đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc Chi nhánh của Trung tâm để được trợ giúp pháp lý; từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý trong những trường hợp quy định tại Điều 45 Luật Trợ giúp pháp lý. - Được Nhà nước hỗ trợ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý. - Được kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý. 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2