intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa trong thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

22
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá tổng quan về loại hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài. Luận văn cũng nêu ra thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam. Để thực hiện mục đích này, đề tài sẽ phải làm rõ cơ sở lý luận về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa trong thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ MINH HỢP ĐỒNG LI- XĂNG NHÃN HIỆU HÀNG HÓA TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ MINH HỢP ĐỒNG LI- XĂNG NHÃN HIỆU HÀNG HÓA TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tiến Vinh Hà Nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Minh
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ NHÃN HIỆU VÀ LI- XĂNG NHÃN 6 HIỆU HÀNG HÓA 1.1. Tổng quan về nhãn hiệu 6 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu 6 1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu 10 1.1.3 Phân loại nhãn hiệu 12 1.2. Li- xăng nhãn hiệu hàng hóa 16 1.2.1. Khái niệm li- xăng nhãn hiệu hàng hóa 16 1.2.2. Các loại li- xăng nhãn hiệu hàng hóa phổ biến 16 1.2.3. Vai trò của hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa 18 1.2.4. Lợi ích thương mại của việc li- xăng nhãn hiệu hàng hóa 20 Chƣơng 2: HỢP ĐỒNG LI- XĂNG NHÃN HIỆU HÀNG HÓA 24 THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ TỔ CHỨC QUỐC TẾ TRÊN THÊ GIỚI 2.1. Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật của 24 một số quốc gia và tổ chức quốc tế trên thế giới 2.1.1. Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật 24 Liên minh Châu Âu 2.1.2. Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật 29 Hoa Kỳ 2.1.3. Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật 32 Trung Quốc
  5. 2.2. Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt 33 Nam 2.2.1. Cơ sở pháp lý 33 2.2.2. Những đặc điểm của hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng 35 hóa theo pháp luật Việt Nam 2.2.3. Các điều khoản hạn chế li- xăng trong hợp đồng li- xăng 40 nhãn hiệu hàng hóa 2.2.4. Vấn đề đăng ký hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa 42 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG HỢP ĐỒNG LI- XĂNG NHÃN HIỆU 44 HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 3.1. Thực trạng hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa ở Việt 44 Nam 3.1.1. Thực trạng hoạt động bảo hộ quyền SHTT đối với nhãn 44 hiệu hàng hóa ở Việt Nam 3.1.2. Thực trạng giao kết, thực hiện hợp đồng li- xăng nhãn 47 hiệu hàng hóa ở Việt Nam 3.2. Giải pháp khắc phục bất cập của quá trình giao kết và thực 58 hiện hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam 3.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chuyển giao quyền 58 SHCN nói chung và li- xăng nhãn hiệu hàng hóa nói riêng 3.2.2. Những giải pháp khắc phục bất cập 59 3.2.3. Giải pháp khắc phục bất cập từ nhận thức của xã hội 64 3.2.4. Các giải pháp khác 66 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SHTT : Sở hữu trí tuệ SHCN : Sở hữu công nghiệp WTO :Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) TNHH : Trách nhiệm hữu hạn GCN : Giấy chứng nhận ĐKHĐSD : Đăng ký hợp đồng sử dụng QĐ : Quyết định TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao OHIM : Tổ chức nhãn hiệu thương mại và kiểu dáng của Liên minh Châu Âu (Office for Harmonization in the internal market) EU : Liên minh Châu Âu (European Union) EC : Hội đồng Châu Âu (European Commission)
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 3.1.1. Số lượng hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa từ năm 2006 đến 2014 ...................................................................................................................... 47
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trước xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chính sách “Tích cực và chủ động hội nhập vào nền kinh tế quốc tế và khu vực”, việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO là một bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập của chúng ta vì cùng với việc gia nhập WTO đã tạo ra điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới khi mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần được gỡ bỏ. Việt Nam có nhiều cơ hội to lớn để phát triển kinh tế đất nước nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là thách thức từ việc thực thi các cam kết trong Hiệp định TRIPS/WTO về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu nói riêng. Một trong những công cụ giúp cho việc xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường một cách dễ dàng, nhanh chóng, tạo lợi thế so sánh giữa các doanh nghiệp chính là nhãn hiệu. Nhãn hiệu là dấu hiệu giúp cho người tiêu dùng có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp này với hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp khác đồng thời nó cũng khẳng định giá trị của doanh nghiệp trong lòng người tiêu dùng. Xu hướng tự nhiên của khách hàng sẽ là lựa chọn các nhãn hiệu mà họ từng nghe nhắc đến nhiều nhất hoặc truyền miệng hoặc qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó, việc tạo dựng vị thế trên thị trường, mở rộng hoạt động kinh doanh hoặc phát triển sản phẩm mới thường được thực hiện nhanh chóng hơn thông qua việc chuyền giao các quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu. Cơ sở pháp lý cho hoạt động này chính là hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa (Sau đây gọi là: Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa). 1
  9. Đây là loại hợp đồng mang tính chuyên biệt cao. Việc giao kết và thực hiện chúng có những đặc điểm khác biệt so với việc giao kết và thực hiện các hợp đồng khác.Tuy nhiên, hầu như chưa có các nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng giao kết và thực hiện loại hợp đồng này ở Việt Nam. Vì vậy, cần phải có một sự khảo cứu tổng hợp nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng như hiện nay vào thương mại quốc tế. Vì vậy, đề tài “Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa trong thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài” có ý nghĩa cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Cho đến nay, SHTT nói chung, nhãn hiệu hàng hóa nói riêng vẫn còn là mảnh đất mới khai phá còn đầy mới mẻ và phức tạp đối với các nhà hoạt động thực tiễn cũng như các nhà lý luận Việt Nam. Tư duy pháp lý về tài sản trí tuệ mới thực sự được du nhập cấp tập vào nước ta trong khoảng 10 đến 15 năm năm trở lại đây - một con số quá là ngắn ngủi so với lịch sử hình thành và phát triển của tài sản vô hình và pháp luật bảo hộ chúng. Tuy vậy, trong khoảng thời gian đó, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn đã làm được khá nhiều công việc có ý nghĩa đối với việc phát triển những tri thức khoa học về quyền SHTT cũng như về pháp luật bảo hộ quyền SHTT, góp phần nâng cao hiểu biết, nhận thức của doanh nghiệp, của nhân dân về vấn đề này. Số lượng các công trình khoa học, các cuộc hội thảo, các bài viết về quyền SHTT ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Các vấn đề về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa đã được phân tích bởi nhiều tác giả trong và ngoài nước trong nhiều công trình khác nhau. Ở nước ngoài, các công trình, tài liệu về các khía cạnh chung của quyền sở hữu trí tuệ trong đó có QSHCN đối với nhãn hiệu như WIPO (2005), Cẩm 2
  10. nang sở hữu trí tuệ, Bản dịch của Cục SHTT; A philosophy of Intelletual Property của Giáo sư Peter Drahos, NXB Ashgate Dartmouth năm 1996; Các công trình, tài liệu liên quan đến pháp luật SHTT nói chung và pháp luật về QSHCN đối với nhãn hiệu nói riêng tiêu biểu như: Patent, Trademark and Copyright laws của Giáo sư Jeffrey M. Smuels (1996), NXB BNA Books năm 1996; Các công trình nghiên cứu về kinh tế liên quan QSHCN đối với nhãn hiệu như Trademark Valuation của Giáo sư Smith Gordon V năm 1997; Merchandising Property- Licensing and Joint venture profit Strategies của Giáo sư Jeremiah, Joanna R. năm 1997; Taxation of intellectual Property của Giáo sư Marvin Petry, NXB Lexis năm 2000. Tại Việt Nam, vào những năm gần đây, nhất là từ những năm cuối của quá trình đàm phán gia nhập WTO, vấn đề quyền SHTT nói chung là QSHCN đối với nhãn hiệu nói riêng được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, đã có một số công trình, tài liệu, bản dịch nghiên cứu về vấn đề này. Tiêu biểu trong số đó là các công trình, bài viết của các tác giả như: Nguyễn Thanh Tâm (2006), QSHCN trong hoạt động thương mại, Nhà xuất bản Tư pháp; Kamil Idris (2005), Sở hữu trí tuệ một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế- WIPO, Cục SHTT dịch và xuất bản; Trần Việt Hùng, Tình hình đăng ký sở hữucông nghiệp và thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam, Hội thảo tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999; PGS.TS Đoàn Năng, Về thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2000. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nói trên mới chỉ bản đến những khía cạnh tổng quát về quyền sở hữu trí tuệ hoặc QSHCN đối với nhãn hiệu nói chung. Hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào đề cập đến thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam. 3
  11. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá tổng quan về loại hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài. Luận văn cũng nêu ra thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam. Để thực hiện mục đích này, đề tài sẽ phải làm rõ cơ sở lý luận về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa. Theo đó, đề tài sẽ đề xuất giải pháp khắc phục những bất cập của quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian là từ năm 2005 (thời điểm Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đầu tiên ra đời) cho tới nay; Về không gian, đề tài nghiên cứu tổng quan về nhãn hiệu hàng hóa và thực trạng giao kết, thực hiện hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu và phân tích (dùng để phân tích và tìm hiểu nội dung các quy định trong các văn bản: pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam, Pháp và một số nước khác cũng như các tài liệu liên quan); nghiên cứu tài liệu (các vấn đề lý luận liên quan); phân tích các dữ liệu phản ánh thực trạng thực hiện và giao kết hợp đồng. Phương pháp tổng hợp (trên cơ sở phân tích các yếu tố/phần tử mà tổng hợp kết quả và đưa ra kết luận cho các vấn đề nghiên cứu…). Phương pháp tổng hợp (trên cơ sở phân tích các yếu tố/phần tử mà tổng hợp kết quả và đưa ra kết luận cho các vấn đề nghiên cứu….). 4
  12. Phương pháp thống kê (thống kê dữ liệu liên quan đến việc thực hiện và giao kết hợp đồng theo các tiêu chí khác nhau như số lượng các loại hợp đồng, chủ thể giao kết hợp đồng, đối tượng của hợp đồng…). Toàn bộ đề tài được thực hện dựa trên nền tảng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac- Lê nin và các quan điểm phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước. 6. Kết cấu của đề tài Tên đề tài: “Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa trong thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài”. Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan về nhãn hiệu và li- xăng nhãn hiệu hàng hóa. Chương 2. Hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và theo pháp luật của một số quốc gia và tổ chức quốc tế trên thế giới. Chương 3. Thực trạng hợp đồng li- xăng nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam và giải pháp khắc phục. 5
  13. Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ NHÃN HIỆU VÀ LI- XĂNG NHÃN HIỆU HÀNG HÓA 1.1. Tổng quan về nhãn hiệu 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu Từ thời xa xưa cách đây hàng ngàn năm con người đã biết sử dụng các dấu hiệu tuy còn rất giản đơn để đánh dấu các sản phẩm do mình tạo ra. Điều này được chứng minh khi các nhà khảo cổ học tiến hành khai quật ở nhiều nơi trên thế giới và đã phát hiện thấy trên các hiện vật thu được là các bình gốm sứ có rất nhiều dấu hiệu của các nhà sản xuất (chủ yếu là các chủ sở hữu các xưởng sản xuất thủ công) đánh dấu sản phẩm của họ. Thông qua phương pháp khoa học, các nhà khoa học đã xác định nhãn hiệu hàng hóa xuất hiện từ thời trung cổ. Chỉ riêng trong lĩnh vực sản xuất đồ gốm, các nhà khảo cổ học đã xác định được 6000 nhãn hiệu của các loại đồ gốm thời La mã cổ đại (Sisfilla) đã được sử dụng để nhận biết các loại đồ gốm được sản xuất từ những xưởng thủ công nhất định. Tuy nhiên, các nhãn hiệu này thông thường mới chỉ là các vết khắc của các hình vẽ nhỏ hoặc các dạng hình học. Đây là các dấu hiệu đơn giản. Mặc dù còn rất đơn giản nhưng các dấu hiệu đó được coi là "tổ tiên" của nhãn hiệu hàng hóa ngày nay. Các dấu hiệu được sử dụng, nhiều trường hợp là các chữ ký của các chủ sở hữu trên các sản phẩm, là các dấu hiệu có chức năng xác định xưởng sản xuất ra loại đồ gốm đó (xác định nguồn gốc sản phẩm) và phân biệt sản phẩm của xưởng này với sản phẩm của xưởng khác. Trong thời kỳ này chưa có tự do cạnh tranh thương mại, nhưng các dấu hiệu đó trở thành công cụ nhằm loại bỏ sự lẫn lộn, nhầm lẫn sản phẩm của các chủ sở hữu khác nhau trong quá trình vận chuyển, xác định sản phẩm thuộc về chủ sở hữu hợp pháp. 6
  14. Khi sản xuất phát triển, được đánh dấu bằng hàng loạt các cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật thứ nhất, thứ hai và thứ ba, nhu cầu buôn bán, xuất khẩu hàng hóa ngày càng tăng, vượt ra khỏi tầm quốc gia, các nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của thương mại quốc tế và kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến cho người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hóa cùng chủng loại. Các loại hàng hóa này thường không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng chỉ thường khác nhau về chất lượng, giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho riêng mình từ những hàng hóa cạnh tranh. Do vậy, hàng hóa cần phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hóa trên thị trường chính là nhãn hiệu. Theo nhà nghiên cứu Andrea Semprini, trong tác phẩm “Que Sais je? La Marque" (Tôi hiểu gì về nhãn hiệu) thì nhãn hiệu có bốn đặc tính quan trọng như sau: Thứ nhất, khi nhãn hiệu được gắn lên sản phẩm thì người ta đã đánh dấu sự nhận dạng, nhận biết sản phẩm đó thông qua nhãn hiệu để nhận biết và xác định rõ sản phẩm được vận chuyển đến tay ai cần phải xác định được nguồn gốc lô sản phẩm đó. Thứ hai, các dấu hiệu trên sản phẩm đánh dấu sự chiếm hữu sản phẩm đó. Thông thường sản phẩm được làm ra tại các xưởng thủ công, xuất xưởng và được phân phối đến địa chỉ cuối cùng là người mua sản phẩm đó. Tuy nhiên trong quá trình lưu thông, trao đổi xuất hiện người môi giới. Họ là những người mua sản phẩm của người sản xuất và bán lại cho người tiêu 7
  15. dùng. Khi sản phẩm ở trong tay họ thì họ có thể thêm những dấu hiệu nhận biết riêng vào những dấu hiệu đã tồn tại trước đó. Sự tồn tại nhiều dấu hiệu khác nhau trên cùng một sản phẩm trong các giai đoạn khác nhau của sự tồn tại một sản phẩm thể hiện sự chiếm hữu sản phẩm đó. Thứ ba, các dấu hiệu trên sản phẩm có mục đích phân biệt sản phẩm của xưởng sản xuất này với xưởng sản xuất khác. Đồng thời cũng phục vụ cho việc dễ dàng nhận biết nguồn gốc của sản phẩm. Thứ tư, các dấu hiệu trên sản phẩm mang lại cho sản phẩm sự ghi nhận về chất lượng. Theo Philip Kotler một chuyên gia marketing hàng đầu của thế giới thì: Nhãn hiệu sản phẩm là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công dụng dùng để xác nhận hàng hóa hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt chúng với các hàng hóa, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh. Nhãn hiệu là sự đảm bảo cho một chất lượng bền vững và là một biểu tượng phức hợp bao gồm sáu yếu tố: đặc tính, lợi thế, giá trị, ý tưởng, cá tính của nhãn hiệu và khách hàng sử dụng. Liên quan đến các đặc tính, nhãn hiệu phản ánh những yếu tố riêng biệt của sản phẩm. Lợi thế đề cập tới những lợi ích về mặt vật chất và tinh thần mà việc sử dụng một sản phẩm đem lại. Một nhãn hiệu hướng tới một giá trị nhất định và người tiêu dùng đánh giá các nhãn hiệu dựa trên những giá trị mà các nhãn hiệu này đem lại cho họ. Một nhãn hiệu cũng thể hiện cho một số ý tưởng mà hầu hết là liên quan đến cách mà người ta có thể nhận ra sản phẩm. Cá tính của nhãn hiệu đề cập tới những yếu tố mang tính chuyên biệt so với nhãn hiệu khác cùng loại. Khách hàng hay tập khách hàng đưa ra một số gợi ý về những người mua đối với các nhãn hiệu. Theo Luật mẫu của WIPO về nhãn hiệu, tên thương mại và cạnh tranh không lành mạnh năm 1967 đã đưa ra một định nghĩa như sau: “ Nhãn hiệu là 8
  16. bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa của một doanh nghiệp này với đối thủ cạnh tranh”. Trong thực tế kinh doanh, không chỉ có các nhà sản xuất đưa hàng hóa ra thị trường mà còn có cả các nhà cung cấp dịch vụ cũng cung cấp dịch vụ ra thị trường. Vì vậy, tất yếu đòi hỏi cũng phải có dấu hiệu để người tiêu dùng có thể phân biệt được dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ với nhau. Những dấu hiệu được sử dụng trong trường hợp này được gọi là nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu dịch vụ, về bản chất cũng giống như nhãn hiệu hàng hoá. Do đó, khái niệm nhãn hiệu hiện nay theo các điều ước quốc tế về nhãn hiệu và pháp luật của nhiều nước được quy định với hàm nghĩa bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Điều này được khẳng định trong Điều 15 Hiệp định TRIPS [36]: “Bất kì một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu”. Theo luật Việt Nam, tại khoản 16 Điều 4 Luật SHTT sửa đổi và bổ sung năm 2009 khái niệm về nhãn hiệu được quy định như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Từ định nghĩa này một số nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về nhãn hiệu: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa của các tổ chức và cá nhân khác nhau” [3] . Nhãn hiệu ở đây dùng để phân biệt hàng hóa hữu hình của các cá nhân và doanh nghiệp. Cũng theo Điều 72 Luật SHTT năm 2009 “Nhãn hiệu được bảo hộ là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc có khả năng phân biệt hàng hóa của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa của chủ thể khác”. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế thị trường tiền tư bản, nhãn hiệu chuyển thành một công cụ 9
  17. quan trọng hơn là giúp người mua, người tiêu dùng dễ dàng phân biệt hàng hóa của một nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác, giúp họ dễ dàng chọn lựa hàng hóa theo nhu cầu và sở thích. [9] Nhãn hiệu do đó dần trở thành một đối tượng có giá trị, và cụ thể hơn là một tài sản vô hình quan trọng của nhà sản xuất, giúp làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa mang nhãn hiệu. Từ đó, nhu cầu xác lập và bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu cũng trở nên rất cần thiết. Các quy định đầu tiên về đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu ra đời tại Hoa Kỳ khoảng nửa cuối thế kỷ 18. Luật Nhãn hiệu đầu tiên của Pháp có hiệu lực năm 1857 và sau đó là của Anh năm 1862. Cho đến nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đều có luật hoặc các quy định pháp lý bảo hộ nhãn hiệu. Các hiệp ước quốc tế quy định các nguyên tắc chung về đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu trên phạm vi toàn cầu cũng được ký kết, điển hình là Công ước Paris về bảo hộ Sở hữu công nghiệp, Hiệp định TRIPS của WTO… Các liên minh đa quốc gia tạo thuận lợi cho việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trong từng khu vực cụ thể hoặc toàn cầu cũng được thiết lập, điển hình là hệ thống Nhãn hiệu Cộng đồng Châu Âu (CTM), các tổ chức đăng ký chung nhãn hiệu khu vực Châu Phi như ARIPO và OAPI. Văn phòng nhãn hiệu Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan, Luxemburg)… và điển hình là Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu Madrid do WIPO quản trị, bao gồm đến nay là 90 quốc gia thành viên trải rộng trên cả năm châu lục. 1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu Từ định nghĩa về nhãn hiệu hàng hóa nêu tại Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2009, có thể thấy Luật này nhằm nhấn mạnh rằng nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Quy định này cho thấy đây cũng là chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu. Tuy nhiên, bên cạnh chức năng phân biệt, nhãn hiệu hàng hóa còn có các chức năng quan trọng khác bao gồm: chức năng thông tin về nguồn gốc hàng 10
  18. hóa, chức năng quảng cáo và thúc đẩy nhà sản xuất đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm [16]. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa ngày càng phong phú về mẫu mã và đa dạng về chủng loại cũng như chất lượng, vì thế căn cứ để người tiêu dùng lựa chọn một sản phẩm chính là nhãn hiệu được nhà sản xuất gắn trên sản phẩm khi đưa ra thị trường. Một khi người tiêu dùng hài lòng với sản phẩm đó, có khả năng họ sẽ giúp phân biệt hàng hóa đó dễ dàng trong số các sản phẩm giống hoặc tương tự. Tóm lại, ta có thể nêu ra các chức năng chính của nhãn hiệu như sau: Thứ nhất, nhãn hiệu có chức năng thông tin về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ: Người tiêu dùng quyết định chọn mua một sản phẩm nào đó mà không hề do dự vì trước đây họ đã mua hàng hóa đó rồi, đã biết hàng hóa của nhà sản xuất nào và hoàn toàn tin tưởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Vì thế, chỉ cần nhìn vào nhãn hiệu, người tiêu dùng có quyền nghĩ rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu đó đều có cùng nguồn gốc hoặc có mối liên hệ giữa các nhà sản xuất khác nhau sử dụng nhãn hiệu giống nhau với chất lượng bảo đảm như nhau. Thứ hai, nhãn hiệu có chức năng quảng cáo: Nhãn hiệu đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh và danh tiếng sản phẩm của công ty đối với người tiêu dùng. Hình ảnh và danh tiếng của sản phẩm tạo niềm tin, làm cơ sở để hình thành những khách hàng trung thành vì người tiêu dùng có một sự gắn kết tình cảm với một số nhãn hiệu nhất định dựa trên một số phẩm chất đặc điểm mà họ mong muốn mà sản phẩm mang những nhãn hiệu đó đem lại. Thêm vào đó, nhãn hiệu cũng có chức năng tạo ra động lực khuyến khích các công ty đầu tư vào việc duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm đảm bảo rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu của họ có một danh tiếng tốt. 11
  19. Thứ ba, nhãn hiệu có chức năng kiểm tra và tổ chức thị trường: Sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa thu hút nhà sản xuất đi đến lựa chọn nhãn hiệu hàng hóa làm phương tiện để kiểm tra thị trường. Nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng chiếm lĩnh thị trường, thị phần càng lớn, thì nhà sản xuất có nhiều cơ hội để kiểm tra và tổ chức thị trường có lợi cho mình. [8] 1.1.3. Phân loại nhãn hiệu - Phân loại nhãn hiệu dựa vào dấu hiệu được sử dụng Dựa vào dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu thì có ba loại nhãn hiệu là: Nhãn hiệu là chữ, nhãn hiệu là hình và nhãn hiệu là kết hợp của chữ và hình.  Nhãn hiệu là chữ bao gồm các chữ cái có thể kèm theo số, từ ngữ, khẩu hiệu trong kinh doanh… Ví dụ: Nhãn hiệu Cocacola, Lavie, hay Nokia với khẩu hiệu “Connecting People”.  Nhãn hiệu là hình là nhãn hiệu mà trên đó là hình vẽ, ảnh chụp, biểu tượng và hình khối. Ví dụ: nhãn hiệu ô tô của công ty Toyota là ba hình elip lồng vào nhau.  Nhãn hiệu kết hợp là loại nhãn hiệu kết hợp cả từ ngữ và hình ảnh. Ví dụ: nhãn hiệu Honda của Công ty Honda là dòng chữ Honda và hình cánh chim. - Phân loại nhãn hiệu dựa vào tính chất, chức năng của nhãn hiệu Dựa vào tiêu chí này, nhãn hiệu bao gồm: nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu liên kết.  “Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó” (Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009). Nhãn hiệu tập thể có thể do một tổ chức, hiệp hội sở hữu song chính bản thân hiệp hội 12
  20. này lại không sử dụng nhãn hiệu tập thể mà các thành viên của hiệp hội đó có thể sử dụng nhãn hiệu này. Hiệp hội được thành lập để đảm bảo sự tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng bởi chính các thành viên của hiệp hội. Các thành viên có thể sử dụng nhãn hiệu tập thể nếu họ tuân thủ yêu cầu đặt ra trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Chức năng của nhãn hiệu tập thể là thông tin cho công chúng biết về những phẩm chất đặc trưng của sản phẩm sử dụng nhãn hiệu tập thể. Một doanh nghiệp được quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể có quyền dùng kèm thêm, cùng với nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu của riêng mình. Các quy chế về sử dụng nhãn hiệu tập thể thường phải có trong đơn xin đăng ký nhãn hiệu tập thể và bất kỳ sự thay đổi nào về quy chế này phải được thông báo với cơ quan nhà nước. Ví dụ: Nhãn hiệu Gạo bao thai Định Hóa là nhãn hiệu tập thể do Hội nông dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ ngày 26/10/2007 [30] . Tại một số quốc gia như Đức, Thụy Điển, Phần Lan, … đăng ký nhãn hiệu tập thể có thể bị hủy nếu nhãn hiệu đó trái với quy chế hoặc theo cách thức làm cho công chúng hiểu sai lệch hay nhầm lẫn. Bởi vậy, nhãn hiệu tập thể đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người tiêu dùng chống lại các hành vi lừa dối.  “Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu” (Khoản 18 Điều 4 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009). Nhãn hiệu chứng nhận được cấp khi đáp ứng các tiêu chuẩn định sẵn nhưng không giới hạn đối với thành viên. Nhãn hiệu có thể được sử dụng bởi bất kỳ người nào có sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn định sẵn. Tại nhiều quốc gia, điểm khác biệt chính giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận đó là 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2