intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng vay tiền của hộ gia đình tại ngân hàng thương mại

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại và thực tiễn thực thi hợp đồng này tại một số ngân hàng thương mại qua đó đề xuất những quan điểm, giải pháp tăng cường hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng vay tiền của hộ gia đình tại ngân hàng thương mại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC DUY HỢP ĐỒNG VAY TIỀN CỦA HỘ GIA ĐÌNH TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HàNội–2015 i
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC DUY HỢP ĐỒNG VAY TIỀN CỦA HỘ GIA ĐÌNH TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Chuyên ngành : LUẬT DÂN SỰ Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu Hà Nội – 2015 ii
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Ngọc Duy iii
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ GIA ĐÌNH VÀ 6 HỢP ĐỒNG VAY TIỀN CỦA HỘ GIA ĐÌNH 1.1 Hộ gia đình và Chính sách của Nhà nƣớc về Hộ gia đình 6 1.1.1 Khái quát chung về HGĐ trong quan hệ pháp luật Dân sự 6 1.1.2 Chính sách của Nhà nước áp dụng cho Hộ gia đình 11 1.1.3 Chính sách cho vay áp dụng với Hộ gia đình 12 1.2 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng vay tiền 17 1.2.1 Khái niệm Hợp đồng vay tiền 17 1.2.2 Đặc điểm của Hợp đồng vay 20 1.3 Phân loại Hợp đồng vay tiền 22 Kết luận Chƣơng 1 25 CHƢƠNG 2: HỢP ĐỒNG VAY TIỀN CỦA HỘ GIA ĐÌNH 26 2.1 Giao kết Hợp đồng vay tiền tại NHTM 26 2.2 Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng vay tiền 28 2.2.1 Hình thức của Hợp đồng vay tiền 29 2.2.2 Giới hạn cho vay của ngân hàng thương mại 30 2.2.3 Điều kiện hiệu lực Hợp đồng vay tiền 30 2.2.4 Thời điểm có hiệu lực của Hợp đồng vay tiền 35 2.3 Nội dung Hợp đồng vay tiền của HGĐ 37 2.3.1 Bố cục cơ bản của Hợp đồng vay tiền áp dụng cho khách 37 hàng HGĐ iv
  5. 2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong Hợp đồng 38 2.3.3 Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ vay 42 2.4 Chấm dứt Hợp đồng và gia hạn thực hiện Hợp đồng 44 Kết luận Chƣơng 2 47 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG 48 VAY TIỀN CỦA HGĐ TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN 3.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật về Hợp đồng vay tiền của 48 HGĐ tại NHTM 3.1.1 Việc ký kết Hợp đồng tín dụng khi cho vay Hộ Gia đình 49 3.1.2 Về các biện pháp bảo đảm và vướng mắc về tài sản bảo đảm 55 3.1.3 Thứ tự ưu tiên thanh toán 60 3.1.4 Đăng ký giao dịch bảo đảm 63 3.1.5 Về Cách tính lãi suất và mức cho vay Hộ Gia đình 73 3.2 Kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật về 74 chế định Hộ Gia đình và Hợp đồng vay của HGĐ tại NHTM 3.2.1 Đối với chế định HGĐ và các vấn đề liên quan 74 3.2.2 Đối với các nội dung liên quan đến Hợp đồng vay tiền và 75 pháp luật giao dịch bảo đảm liên quan đến cho vay HGĐ Kết luận Chƣơng 3 78 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO v
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 Luật các TCTD Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 năm 2010 NĐ 163/2006/NĐ-CP Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm. NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng Thương mại BIDV Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam UBND Uỷ ban nhân dân HGĐ Hộ Gia đình TTLT Thông tư Liên tịch GDBĐ/ TSBĐ Giao dịch bảo đảm/ Tài sản bảo đảm VNĐ Đồng Việt Nam % Tỷ lệ phần trăm vi
  7. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Đề tài Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện đổi mới, mở cửa nền kinh tế, xây dựng một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong tiến trình này, các quan hệ tài sản của cá nhân và Hộ gia đình cần có sự quan tâm đúng mức. Các văn kiện của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã khẳng định và chú trọng tăng cường vai trò của Hộ gia đình trong các thành phần kinh tế của nước ta. Trong điều kiện kinh tế xã hội đang phát triển, nhất là sau khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thì vai trò của Hộ gia đình cũng vẫn trở nên quan trọng. Việc nước ta trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất trên thế giới có phần đóng góp quan trọng của các Hộ gia đình. Cho đến nay, trên góc độ pháp lý, Nhà nước đã dành sự quan tâm nhất định tới Hộ gia đình như một chủ thể đặc thù của Luật Dân sự Việt Nam thể hiện qua các quy định tại mục I, Chương V, Phần thứ nhất Bộ luật Dân sự năm 2005. Sự đóng góp của kinh tế Hộ gia đình trong quá trình phát triển sản xuất Nông, Lâm, Thủy sản, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thương mại – dịch vụ ngày càng được khẳng định. Để kinh tế Hộ gia đình phát triển, yếu tố tài chính đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Trong các giao dịch tài chính của Hộ gia đình thì việc vay tiền để phục vụ nhu cầu kinh doanh và tiêu dùng là tương đối phổ biến trong đời sống xã hội. Theo số liệu của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam tại Báo cáo thường niên năm 2013, cho đến hết ngày 30/6/2014 có khoảng 18 triệu hộ gia đình trên tổng số khoảng 24,2 triệu Hộ gia đình trên toàn quốc đã và đang có quan hệ vay tiền tại các ngân hàng thương mại (Phần II, mục 2). [21]. 1
  8. Việc vay tiền của HGĐ tại các Ngân hàng thương mại đã góp phần quan trọng để các HGĐ có vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng qua đó góp phần vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của các Hộ gia đình. Thực tế cho thấy, cả lý luận và thực tiễn về hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình theo quy định của Bộ luật Dân sự chưa được nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết, dẫn tới xuất hiện một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện giao dịch của Hộ gia đình với Ngân hàng thương mại và bên thứ ba có liên quan. Từ vấn đề trên, tác giả cho rằng cần nghiên cứu, làm rõ để nhận thức đầy đủ hơn về Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thƣơng mại” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành Luật Dân sự. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu đề tài “Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thƣơng mại” có nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn bởi lẽ: Hộ gia đình là một chủ thể tương đối đặc thù của pháp luật dân sự Việt Nam, ngoài Việt Nam (theo sự hiểu biết còn hạn chế của tác giả) không có nước nào có quy định về Hộ gia đình với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Các quy định về Hộ gia đình cũng mới xuất hiện gần đây trong pháp luật dân sự Việt Nam và sự quan tâm tới đối tượng này chủ yếu mới chỉ là trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp mà chưa có sự quan tâm và nghiên cứu một cách toàn diện đối với Hộ gia đình, nhất là trong việc vay vốn. Sau khi có Bộ luật Dân sự năm 1995, nghiên cứu về hợp đồng cho vay nói chung đã được thực hiện trong một số cơ sở nghiên cứu và luật như: 2
  9. - Nguyễn Hữu Chính (1997), “Hợp đồng vay tài sản”, Luận văn thạc sỹ Luật học. - Trần Công Đoàn (2004), “Chế định hợp đồng vay tài sản”, Luận văn thạc sỹ Luật học. - Trần Văn Biên (2004), “Hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự”, Luận văn thạc sỹ Luật học. - Đào Hoàng Thắng (2006), “Hợp đồng vay của Hộ gia đình”, Luận văn thạc sỹ Luật học. Ngoài ra, trong giáo trình Luật Dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Viện Đại học Mở Hà Nội cũng có phần viết cơ bản về hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự. Tạp chí Tòa án nhân dân cũng có một số bài viết về việc giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng cho vay. Các tài liệu nghiên cứu về Hộ gia đình hầu như chỉ tập trung vào những khía cạnh kinh tế của Hộ gia đình mà chưa có nhiều nghiên cứu chi tiết về địa vị pháp lý của Hộ gia đình, về hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại ngân hàng thương mại trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu trên, Luận văn góp phần nghiên cứu làm sâu sắc thêm kiến thức lý luận, bổ sung phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu riêng về hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại ngân hàng thương mại hiện nay. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn 3
  10. Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên nguyên tắc duy vật biện chứng; duy vật lịch sử; đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể; khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn - để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 4. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu a) Mục đích: Đối tượng vay tiền tại các ngân hàng thương mại hiện nay rất phong phú, nhưng luận văn chỉ giới hạn mục đích có đối tượng là Hộ gia đình. Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại và thực tiễn thực thi hợp đồng này tại một số ngân hàng thương mại qua đó đề xuất những quan điểm, giải pháp tăng cường hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội. b) Nhiệm vụ: Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ: Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại: khái niệm, đặc điểm, nội dung… Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại, những mâu thuẫn giữa quy định pháp luật và hoạt động thực tiễn. Đề xuất những quan điểm về phương hướng và giải pháp để hoàn thiện các quy định về hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại. 4
  11. c) Phạm vi nghiên cứu: Hợp đồng vay tiền trong sản xuất, kinh doanh là một vấn đề rất rộng lớn, nhưng đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong quan hệ vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng thương mại. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại ngân hàng thương mại; thực trạng thực thi Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện quy định về vấn đề này. 5. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về Hộ gia đình, Hợp đồng vay tiền và Ngân hàng thương mại. Chƣơng 2: Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về Hợp đồng vay tiền của Hộ gia đình tại Ngân hàng Thương mại và hướng hoàn thiện. 5
  12. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ GIA ĐÌNH VÀ HỢP ĐỒNG VAY TIỀN CỦA HỘ GIA ĐÌNH 1.1 Hộ gia đình và Chính sách của Nhà nƣớc về Hộ gia đình 1.1.1 Khái quát chung về HGĐ trong quan hệ pháp luật Dân sự Hộ theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản văn hóa thông tin ấn hành năm 1990 (trang 234) do Nguyễn Như Ý làm chủ biên là “Nhà, đơn vị để quản lý dân số”. Theo Từ điển luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa 2006 thì Hộ gia đình là “tập hợp nhóm người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng”. Như vậy, Hộ gia đình bao gồm những người cùng chung huyết tộc, ăn chung, ở chung, làm việc chung và có chung một ngân quỹ mà nòng cốt ban đầu là quan hệ hôn nhân. Kinh tế hộ đã xuất hiện từ buổi bình minh của xã hội loài người, tồn tại cho đến bây giờ và còn lâu hơn nữa. Hộ gia đình là hộ sinh sống bằng nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, là đơn vị sản xuất cơ bản, sản xuất rất ổn định, là điều kiện quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong cấu trúc của Hộ gia đình, các thành viên của họ gắn bó chặt chẽ với nhau trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống tạo nên sự quan hệ chặt chẽ giữa việc sở hữu, quản lý và sử dụng tài sản. Trong quá trình đó, HGĐ có mối liên kết với các đơn vị khác và với xã hội. Kinh tế hộ nhìn chung là sản xuất, buôn bán nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc hoặc sản xuất hàng hóa với năng suất lao động thấp nhưng lại có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Kinh 6
  13. tế Hộ gia đình ở Việt Nam đã xuất hiện và tồn tại hàng nghìn năm và vẫn sẽ là đơn vị cơ bản trong xã hội và trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Hộ gia đình đang là đối tượng khách hàng rất lớn của các ngân hàng thương mại, số lượng giao dịch tài chính, tín dụng giữa các Hộ gia đình và ngân hàng/Tổ chức tín dụng ngày càng gia tăng. Vậy xét trên khía cạnh pháp lý cần hiểu thế nào là Hộ gia đình và Hộ gia đình loại nào có thể vay vốn của Ngân hàng thương mại? Phân biệt quan hệ vay vốn giữa Hộ gia đình và cá nhân với ngân hàng ra sao? Điều 106 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Như vậy, Hộ gia đình có các điều kiện dưới đây sẽ có thể là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự (vay vốn, mua, bán, thuê, mượn…): - Các thành viên có tài sản chung; - Thông qua các hoạt động, công sức lao động và số tài sản chung nói trên, các thành viên của Hộ gia đình cùng tiến hành các hoạt động kinh tế chung trong việc sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Khái niệm tài sản chung của Hộ gia đình được hiểu theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Dân sự: “Tài sản chung của Hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của Hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của Hộ”. 7
  14. Tài sản chung là tài sản do các thành viên của cả Hộ tạo lập nên trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế chung và các tài sản mặc dù thuộc sở hữu cá nhân nhưng có thỏa thuận góp vào khối tài sản chung hoặc các tài sản được sử dụng vào mục đích hoạt động kinh tế chung. Tài sản chung này gồm quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất (gồm cả đất ở và đất canh tác), rừng, rừng trồng của Hộ gia đình khi được Nhà nước giao đất canh tác, trồng rừng cho Hộ và các tài sản chung được tạo thành theo các căn cứ được quy định tại Điều 170 Bộ luật Dân sự bao gồm: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; được thừa kế tài sản…; Hoạt động kinh tế chung có thể hiểu là việc cùng canh tác trên một thửa ruộng, cùng làm một nghề thủ công như làm giấy, in tranh, đồ mộc, đồ sành sứ, làm đồ thủ công mỹ nghệ, cùng sản xuất một loại sản phẩm… mà mỗi thành viên phụ trách một công đoạn trong quá trình sản xuất hoặc cùng tạo ra một nhóm sản phẩm và tiến hành phân phối, bán, cho thuê… và cùng được hưởng lợi từ các hoạt động kinh tế chung nêu trên. Việc hưởng lợi có thể là trực tiếp (nhận tiền, tài sản chia cho từng người) hoặc thông qua việc thụ hưởng chung các lợi ích như nhà ở, ăn uống, đi lại bằng tài sản chung. Các hoạt động đơn lẻ của thành viên Hộ gia đình như mua bán phục vụ tiêu dùng cá nhân không được coi là hoạt động của Hộ gia đình và Hộ không phải chịu trách nhiệm với hành vi của cá nhân đó. Hộ gia đình có tư cách chủ thể không rõ ràng, không đầy đủ, trọn vẹn như cá nhân và pháp nhân vì thời điểm phát sinh và chấm dứt tư cách chủ thể của Hộ gia đình là khó xác định và không rõ ràng như cá nhân, pháp nhân. Ở cá nhân thời điểm phát sinh và chấm dứt tư cách chủ thể này được xác định theo việc khai sinh, khai tử, tuyên bố chết, mất tích… và ở pháp nhân là thời điểm Quyết định thành lập, đăng ký hoạt động và thời điểm chấm dứt (giải thể/phá sản) pháp 8
  15. nhân. Việc phân biệt quan hệ dân sự của Hộ gia đình và cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng vì từ việc này sẽ dẫn đến việc xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nhân trong Hộ trong việc trả nợ vì khi thành viên của Hộ vay với tư cách cá nhân thì chỉ có thành viên đó chịu trách nhiệm trả nợ còn nếu thành viên Hộ gia đình vay với tư cách là người đại diện cho Hộ gia đình thì trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ là của mọi thành viên đã thành niên và có khả năng lao động trong Hộ. Trách nhiệm liên đới giữa vợ chồng (thành viên chính trong HGĐ) cũng được xem như một điều mặc nhiên trong đời sống hôn nhân. Hôn nhân là cơ sở hình thành quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình trong mỗi hộ, là cơ sở của trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Các chủ thể trong quan hệ hôn nhân này luôn bị ràng buộc với nhau về các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm. Đó không chỉ là các quyền và nghĩa vụ về mặt pháp lý mà còn là các quyền và nghĩa vụ mang tính truyền thống xuất phát từ các chuẩn mực đạo đức cũng như cách ứng xử mang tính tự nhiên giữa vợ và chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình (ông, bà, con, cháu, anh, chị, em). Từ đó buộc các bên trong quan hệ hôn nhân phải cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau. [8] Trách nhiệm liên đới của vợ chồng chỉ phát sinh khi những hành vi, giao dịch do vợ chồng cùng xác lập hoặc có sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc những nghĩa vụ phát sinh nhưng gắn liền với nhu cầu thiết yếu hoặc vì đời sống chung của gia đình. Các quy định của pháp luật cho thấy, trong quan hệ dân sự cũng như quan hệ hôn nhân gia đình, khi các chủ thể thực hiện, xác lập hành vi, hay một giao dịch thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm liên đới của các chủ thể đó. Chẳng hạn như vợ chồng cùng xác lập giao dịch hay vợ chồng cùng có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới. Tuy nhiên, cũng do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân nên trong trường hợp một bên thực hiện giao dịch hay các nghĩa vụ phát sinh từ hành vi của một bên nhưng vẫn làm phát sinh trách nhiệm liên đới đối với bên còn lại. Đó là trường 9
  16. hợp một bên thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình hay nghĩa vụ phát sinh từ tài sản riêng của một bên nhưng để duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình, nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, định đoạt tài sản chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con gây ra,…và hầu như các giao dịch, nghĩa vụ này thường gắn liền nhu cầu thiết yếu hoặc vì đời sống chung của gia đình. Còn nếu các giao dịch do một bên thực hiện hoặc các nghĩa vụ phát sinh đối với một bên nhưng không gắn liền với các nhu cầu và đời sống chung của gia đình thì trách nhiệm liên đới của vợ chồng cũng không được đặt ra. Để xác định các thành viên trong hộ gia đình có phải chịu trách nhiệm liên đới thì phải xác định những nhu cầu nào được xem là nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nhu cầu thiết yếu của gia đình là những nhu cầu căn bản nhất, nhằm đảm bảo cuộc sống gia đình ở mức tối thiểu. Khoản 20 Điều 3 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình”. Tuy nhiên, để xác định có phải nhu cầu thiết yếu hay không còn phải căn cứ vào điều kiện kinh tế của HGĐ. Do đó, nếu xét thấy giao dịch không nhằm đáp ứng nhu cầu sinh họat của gia đình thì các thành viên nói chung, vợ chồng nói riêng không phải chịu trách nhiệm liên đới. Chủ hộ là đại diện của HGĐ trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của Hộ (Điều 107 Bộ luật Dân sự). Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do người đại diện của Hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của Hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của Hộ gia đình. 10
  17. Thông thường người đứng tên Chủ hộ trong sổ đăng ký Hộ khẩu là người đại diện của Hộ gia đình, chủ hộ phải là người đã thành niên. Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho Hộ gia đình. Điều 25 Luật Cư trú năm 2003 cũng đã có quy định: Sổ hộ khẩu được cấp cho từng hộ gia đình. Mỗi hộ gia đình cử một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ làm chủ hộ để thực hiện và hướng dẫn các thành viên trong hộ thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Trường hợp không có người từ đủ 18 tuổi trở lên hoặc có người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được cử một người trong hộ làm Chủ hộ. Trong quan hệ dân sự sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, Bộ luật Dân sự cũng có quy định cụ thể về trách nhiệm của Hộ gia đình trong các giao dịch. Theo đó, Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh Hộ gia đình; Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của Hộ; nếu tài sản chung của Hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của Hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự trong quan hệ vay vốn ngân hàng chỉ Hộ gia đình có tài sản chung, có hoạt động kinh tế chung, chịu trách nhiệm bằng tài sản chung và cả tài sản riêng của thành viên trong Hộ gia đình mới được phép giao dịch với tư cách là Hộ gia đình để vay vốn mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Còn các trường hợp khác, giao dịch với ngân hàng thương mại là những giao dịch với tư cách cá nhân. 1.1.2 Chính sách của Nhà nƣớc áp dụng cho Hộ Gia đình Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế vừa qua, kinh tế hộ nói chung, kinh tế hộ gia đình nói riêng từng bước được phục hồi, phát triển mạnh mẽ và ngày càng được khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong nền 11
  18. kinh tế. Sự phát triển và đóng góp to lớn của kinh tế hộ gia đình trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là thể hiện sự thay đổi nhận thức về kinh tế hộ. Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 10/NQ-TW của Bộ Chính trị, gọi tắt là “Khoán 10” xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, là một bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tiếp theo là Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và đến nay là Luật Đất đai năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014) đã trao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ gia đình nhằm ổn định sản xuất nông nghiệp. Kinh tế hộ đã có môi trường thuận lợi phát huy những kinh nghiệm, tiềm năng phát triển trong sản xuất - kinh doanh. Từ đó, sản xuất nông nghiệp đã có những bước phát triển mới với tốc độ tăng trưởng cao, liên tục và ổn định. Phát huy lợi thế so sánh các vùng sinh thái đã hình thành và tạo lập được các vùng chuyên canh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa… đã góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế, ổn định chính trị, tạo tiền đề phát triển và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.3 Chính sách cho vay áp dụng với Hộ gia đình Vốn là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng giúp hộ gia đình và những người nông dân thực hiện thâm canh, tăng vụ, áp dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến, đầu tư giống, cây con nuôi; thuốc trừ sâu bệnh… Thông qua các hợp đồng tín dụng để vay vốn tại các ngân hàng thương mại, các nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh và ứng dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đã được đáp ứng. Đảng và Chính phủ đã ban hành một loạt chủ trương thích hợp cho từng thời kỳ để đảm bảo đủ vốn cho sản xuất và tiêu dùng của Hộ gia đình. 12
  19. Ngày 28/6/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 202/CT về việc cho vay vốn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp đến hộ sản xuất. Nội dung chủ yếu của Chỉ thị có thể tóm tắt như sau: Các tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay vốn trực tiếp đến hộ sản xuất nhằm tạo điều kiện cho hộ thực sự là “đơn vị kinh tế tự chủ” trong sản xuất; chủ yếu là cho vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu chi phí sản xuất thời vụ và khi có điều kiện sẽ từng bước mở rộng cho vay trung, dài hạn. Mức cho vay, thời hạn cho vay, phương thức cho vay và trả nợ, lãi suất cho vay đối với từng hộ phải căn cứ vào đặc điểm và hiệu quả sản xuất của từng vùng, từng loại cây con, ngành nghề. Ngoài trực tiếp cho vay đến hộ sản xuất, tùy điều kiện cụ thể Ngân hàng cho các tổ chức kinh tế vay ứng trước vật tư kỹ thuật, hoặc đặt tiền cho các hộ sản xuất vay và thu hồi sản phẩm khi có thu hoạch. Vốn vay nói chung phải có tài sản thế chấp, đối với Hộ sản xuất nghèo không có tài sản để thế chấp có thể áp dụng hình thức cho vay “tín chấp”. Nguồn vốn cho các Hộ sản xuất vay chủ yếu là vốn huy động từ dân cư. Hàng năm và trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho Ngân hàng để hình thành quỹ cho vay đối với Hộ sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp… Chỉ thị 202/CT đã bước đầu khẳng định việc cho vay kinh tế hộ là nhu cầu cấp thiết, là xu hướng phát triển tất yếu của nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Người nông dân muốn phát triển kinh tế hàng hóa, muốn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi… không thể không có vốn đầu tư, trong đó có vốn của các ngân hàng thương mại. 13
  20. Chỉ thị 202/CT cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại Nhà nước trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giữ vai trò chủ lực, cùng với các Hợp tác xã tín dụng ở nông thôn phải lo tạo lập nguồn vốn, đáp ứng cho nền kinh tế, cho nông dân. Tuy nhiên, việc cho vay Hộ nông dân thời kỳ này còn nhiều hạn chế, vướng mắc, bởi Chỉ thị mới cho phép làm thử, chưa thể dự liệu hết những diễn biến của nền kinh tế, chưa khắc phục được những vấn đề mới phát sinh. Cần phải có một văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngày 02/3/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/CP ban hành Quy định về công tác khuyến nông. Ngày 26/3/1993 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/TT-NH1 hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Tiếp đến, Chính phủ đã ban hành Nghịđịnh số 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 Về Khuyến Nông, khuyến Ngư với những cơ chế mới thay thế cho Nghị định 14/CP sau nhiều năm thực hiện… Cùng với Luật Đất đai năm 1993, Nghị định số 14/CP từng bước đồng bộ hóa các cơ chế chính sách đối với địa bàn nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh có những căn cứ pháp lý để ra các quy định về chính sách, biện pháp nghiệp vụ tín dụng cụ thể phù hợp với cuộc sống hơn. Về hình thức cho vay được chia thành hai loại: + Cho vay “bán lẻ”: Ngân hàng cho vay trực tiếp, phát tiền vay đến tay người vay. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2