intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

18
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hủy bản án sơ thẩm, đánh giá việc hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của tòa án nhân dân cấp dưới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM ANH QUÂN PHẠM ANH QUÂN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA IX Hà Nội, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM ANH QUÂN HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN Hà Nội, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào. Người cam đoan Phạm Anh Quân
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU……………………………………………………………………... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ……………………...……………………… 7 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án sơ thẩm hình sự……..… 7 1.2. Các căn cứ hủy bản án sơ thẩm hình sự………….………………….... 11 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hủy bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự………………………………………………………………….. 18 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.............................................................. ......... 32 2.1. Tình hình hủy bản án sơ thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh……………………………………………………… 32 2.2. Thực tiễn thi hành các quy định về căn cứ hủy bản án sơ thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh.............................................. 35 Chương 3: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG SAI SÓT, VI PHẠM TRONG HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 53 3.1. Nguyên nhân của những sai sót, vi phạm trong hủy bản án sơ thẩm hình sự………………………………………………………………………. 53 3.2. Một số kiến nghị......................................................................................... 59 KẾT LUẬN....................................................................................................... 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đấu tranh phòng, chống tội phạm không chỉ dừng lại ở việc ban hành Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định hành vi nào là hành vi phạm tội, hình phạt và trách nhiệm hình sự (TNHS) kèm theo mà còn thể hiện ở việc đưa tội phạm ra xét xử theo các thủ tục do pháp luật quy định. Với tinh thần đó, các cơ quan tố tụng nói chung và Tòa án các cấp nói riêng đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu trong công tác xét xử, qua đó đạt được những kết quả đáng ghi nhận, thể hiện qua chất lượng của lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử với nhiều chuyển biến tích cực; tình trạng bắt giữ người trái pháp luật, truy tố oan, sai được hạn chế đến mức thấp nhất, công tác xét xử được thận trọng, hoạt động tranh tụng được đề cao, tính dân chủ, công khai, khách quan của phiên tòa ngày càng được phát huy. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động xét xử các vụ án hình sự vẫn chưa đạt được yêu cầu, mục tiêu đề ra vì trong thực tế nhiều bản án của tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên tuyên hủy, sửa theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vẫn còn xảy ra. Khi Tòa án cấp trên quyết định hủy bản án hay sửa bản án hình sự của Tòa án cấp dưới ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, tính chất mức độ hành vi vi phạm, cũng như việc xác định lỗi của người bị kết tội. Chính vì vậy, hủy bản án có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu như việc hủy bản án của Tòa án cấp dưới chính là việc Tòa án cấp trên không thể khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới hoặc do có những tình tiết mới phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án mà ở giai đoạn xét xử sơ thẩm không có tình tiết đó thì việc hủy bản án (trừ trường hợp hủy và đình chỉ vụ án) chủ yếu là nhằm tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp 1
  7. dưới khắc phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng để tiến hành điều tra, xét xử lại hoặc chỉ để xét xử lại vụ án một cách khách quan và đúng đắn. Nếu đánh giá sửa bản án hay hủy bản án hình sự ở góc độ liên hệ cùng với hiệu lực thi hành của bản án thì bản án bị sửa có hiệu lực ngay cho dù quyết định sửa đúng hay sai nhưng đối với bản án bị hủy thì phải quay trở lại giai đoạn tố tụng trước đó, có thể phải điều tra lại hoặc xét xử lại. Do đó, việc để nhiều vụ án phải xử lý lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng không chỉ gây thiệt hại lớn cho ngân sách của nhà nước, xã hội, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng và nhất là làm mất lòng tin của nhân dân vào công lý. Ngoài ra, mặc dù vấn đề hủy bản án hình sự là rất quan trọng nhưng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và một số văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật đối với vấn đề này vẫn chưa thật sự chặt chẽ, chưa đồng bộ, nhất là quy định hủy bản án trong một số trường hợp cụ thể nên đã tạo ra không ít khó khăn, lúng túng cho Tòa án cấp trên khi áp dụng và trong một số ít trường hợp là kẽ hở gây ra nhũng nhiễu, tiêu cực. Chính vì vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có thể các bản án hình sự bị hủy là yêu cầu đặt ra cấp thiết, có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ giúp làm sáng tỏ về mặt khoa học mà còn là cơ sở để đánh giá tính thực tiễn của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), hiệu quả về mặt xã hội trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Tất cả những vấn đề nêu trên là lý do mà học viên chọn đề tài “Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thực tế hiện nay, hủy bản án là một vấn đề được các cấp các ngành hết sức quan tâm, cũng như những cán bộ làm công tác khoa học, trong đó cũng có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như sau: 2
  8. - Về luận văn: Huỳnh Lập Thành (2001) Giai đoạn xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2004), Luận án tiến sỹ Luật học, Phúc thẩm trong tố tụng hình sự, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam); Nguyễn Văn Huyên (2002) Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật, Hà Nội; Phan Thị Thanh Mai (2003) Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Về bài báo khoa học: Đinh Văn Quế (2004) “Những trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003”, Tạp chí Tòa án, số 20; Đinh Văn Quế (2004) “Những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm”, Tạp chí Tòa án số 17; Đỗ Đại Hữu (2006) “Xác định Tòa án xét xử lại, khi Tòa án tối cao hủy bản án, quyết định của Tòa cấp dưới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 72; Phạm Thanh Hải (2007) “Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án”, Tạp chí Tòa án, số 4; Vũ Gia Lâm (2012) “Về quyền hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại của Tòa án cấp phúc thẩm”, Tạp chí Luật học, số 11; Đinh Văn Quế (2013) “Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng có tội – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án, số 8; Hoàng Thị Liên (2005) “Xử lý thế nào trong trường hợp tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại theo hướng nặng hơn đối với bị cáo”, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, số 5. Tuy nhiên các tài liệu, bài báo khoa học, luận văn trên do phạm vi nghiên cứu nên chỉ phân tích, bình luận, giải thích một số vấn đề về hủy bản án mà chưa đi sâu phân tích làm rõ quá trình thực hiện hủy bản án sơ thẩm 3
  9. như thế nào, cũng chưa có tài liệu nào đề cập đến hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử án hình sự trong cải cách tư pháp hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hủy bản án sơ thẩm, đánh giá việc hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của tòa án nhân dân cấp dưới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về hủy bản án, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án; các nguyên tắc áp dụng đối với hủy bản án sơ thẩm hình sự. - Phân tích đánh giá từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm hình sự. Nêu kết quả và những hạn chế trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của tòa án nhân dân cấp dưới thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Nêu một số kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của TAND cấp dưới dẫn đến việc TAND cấp cao hủy bản án, bảo đảm tốt hơn chất lượng xét xử của các tòa án cấp tỉnh và cấp huyện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự hiện hành về hủy bản án và thực tiễn áp dụng ở Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4
  10. Về thời gian: Từ năm 2017 đến năm 2019. Về không gian: Vấn đề hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM trên địa bàn 23 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền. Các kiến nghị luận văn đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn tiến hành thu thập số liệu thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp cao TPHCM trong các năm 2017, 2018, 2019. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc áp dụng đối với hủy bản án sơ thẩm hình sự. Từ đó làm rõ các căn cứ, trình tự, thẩm quyền và thủ tục hủy bản án sơ thẩm hình sự của TAND cấp cao TPHCM. 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn Qua việc phân tích các quy định của pháp luật TTHS, chỉ ra những bất cập, tồn tại góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh trong thực tiễn công tác. Từ đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra nguyên 5
  11. nhân để xảy ra tình trạng hủy bản án sơ thẩm hình sự và đưa ra kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng này trong thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung chính của luận văn được sắp xếp gồm các chương như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về hủy bản án sơ thẩm hình sự. Chương 2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về hủy bản án sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Nguyên nhân của những sai sót, vi phạm trong hủy bản án sơ thẩm và các giải pháp khắc phục. 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án sơ thẩm hình sự 1.1.1. Khái niệm hủy bản án sơ thẩm hình sự Trong từ điển Tiếng Việt có nêu khái niệm về “hủy” đó là làm cho không còn tồn tại hoặc không còn có giá trị nữa. Tuy nhiên, với cách tiếp cận này còn rất chung chung, chưa xác định được các căn cứ để thực hiện việc hủy bản án, chưa quy định rõ phạm vi áp dụng cũng như chủ thể nào sẽ trực tiếp được giao quyền hủy bản án? Vì vậy, theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành “Hủy bản án” là việc Toà án cấp trên có thẩm quyển ra quyết định bằng văn bản nhằm chấm dứt hiệu lực thi hành đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới khi phát hiện bản án, quyết định đó có sai sót. Qua đó, có thể đưa ra khái niệm hủy bản án trong TTHS như sau: “Hủy bản án là một trong những quyền của Tòa án cấp trên đối với bản án quyết định của Tòa án cấp dưới khi có kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp trên xét thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật nhằm hủy bỏ một phần hay toàn bộ nội dung trong quyết định của Tòa án cấp dưới để tiến hành điều tra, xét xử lại những nội dung trong vụ án đó hoặc quyết định đình chỉ vụ án”. Từ khái niệm trên, có thể đưa ra một số đặc điểm của hủy bản án trong TTHS như sau: Thứ nhất, Tòa án cấp trên có quyền hủy bản án của Tòa án cấp dưới để xét xử lại khi bản án đó bị kháng cáo, kháng nghị. Thủ tục phúc thẩm được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc hai cấp xét xử, nội dung của nguyên tắc này là bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phải 7
  13. được xét xử lại ở cấp phúc thẩm, còn nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy định thì có hiệu lực thi hành. Thứ hai, quyền hủy bản án được thực hiện khi có các căn cứ theo luật định, tức là phải tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc pháp chế trong tố tụng. Như vậy, trong trường hợp vụ án đó có đầy đủ các căn cứ theo luật quy định thì cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện quyền hủy bản án, tức phải tuân thủ các quy định mà pháp luật tố tụng hình sự đã đặt ra, không được làm sai hoặc cố tình vi phạm những quy định đó khi áp dụng. 1.1.2. Mục đích Thứ nhất, việc hủy bản án trong TTHS nhằm mục đích giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới trong quá trình giải quyết vụ án phát hiện ra những sai phạm, thiếu sót của mình qua đó có cách thức khắc phục, tạo điều kiện để đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Đây được xem là yếu tố quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được những bản án có vi phạm, tính chất mức độ như thế nào, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quyền lợi cơ bản của công dân ra sao để quyết định có tiếp tục thi hành bản án hay hoãn thi hành bản án. Thứ hai, Đối với trường hợp bị cáo, bị hại, đại diện pháp luật hay Viện Kiểm sát (VKS) có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu hủy bản án, sửa bản án hay giữ nguyên bản án. Trong trường hợp này thì tòa án mới quyết định thủ tục xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm để đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại, đại diện pháp luật … cũng như nhằm xác định các tình tiết còn chưa đầy đủ trong vụ án, đảm bảo quá trình giải quyết vụ án được đầy đủ, đúng đắn, khách quan và công bằng. Thứ ba, Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước để thực thi pháp luật, vì vậy đây được xem là chủ thể quan trọng góp phần làm sáng tỏ vụ án, chứng minh được các tình tiết trong vụ án đó, ai là người có hành vi vi phạm, tính 8
  14. chất, mức độ thiệt hại cũng như hậu quả xảy ra từ những hành vi đó như thế nào và tất nhiên hình phạt đưa ra phải tương xứng với hành vi vi phạm đó mà pháp luật quy định. Như vậy rõ ràng Tòa án phải xác định được những kháng cáo, kháng nghị đó có căn cứ và hợp pháp hay không để đưa ra quyết định có hủy bản án theo đúng thẩm quyền nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội danh, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, qua đó đảm bảo tính răn đe, giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội; tạo uy tín lòng tin của người dân vào các cơ quan thi hành pháp luật, nhất là tòa án. Như vậy, mục đích của hủy bản án chính là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; đồng thời phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức. 1.1.3. Ý nghĩa Hủy bản án, quyết định của Tòa án là một biện pháp quan trọng góp phần hạn chế tình trạng oan, sai đối với các bản án, quyết định của Tòa án; nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp ở nước ta và xu thế phát triển chung của thời đại trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, hủy bản án có ý nghĩa hết sức quan trọng trên các mặt sau: - Về mặt xã hội: Nếu như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử của vụ án có những sai sót thì việc hủy bản án sẽ góp phần khẳng định tính khách quan, dân chủ của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như quyền lợi của người tham gia tố tụng, trong việc chứng minh tính công bằng được xã hội thừa nhận. Đồng thời qua đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn bất cập, những tình tiết chưa rõ ràng của vụ án, đảm bảo sự tin tưởng của người dân 9
  15. nói chung và những người đang trong quá trình áp dụng các biện pháp nhằm phục vụ quá trình điều tra xử lý án nói riêng an tâm vào chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội được nêu cao. Việc hủy bản án cũng góp phần khẳng định vai trò và đảm bảo uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng, tránh để xảy ra tình trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm. - Về mặt pháp lý: Việc hủy bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là căn cứ, cơ sở pháp lý quan trọng để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, là cơ sở để hình thành nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. - Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức: Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đây được xem là một trong những mục tiêu quan trọng của Nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là một trong những nhiệm vụ của pháp luật nói chung cũng như pháp luật TTHS nói riêng. Tại Điều 8 BLTTHS năm 2015 [15, tr.4] quy định cụ thể và chi tiết trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Như vậy, hủy bản án sẽ là căn cứ, điều kiện để các cơ quan thực thi pháp luật xem xét, đánh giá lại tính chất vụ án, mức độ hành vi của bị can, khung hình phạt… đã đúng, khách quan và chính xác chưa, qua đó nhằm bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tăng cường dân chủ trong TTHS. Đồng thời, nguyên tắc này cũng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm việc xác định sự thật vụ án được khách quan, toàn diện, chính xác và đầy đủ. 10
  16. 1.2. Các căn cứ hủy bản án sơ thẩm hình sự Khoa học luật tố tụng hình sự phân chia các căn cứ hủy bản án sơ thẩm thành hai nhóm: Các căn cứ của luật hình thức (do BLTTHS quy định) và các căn cứ luật nội dung (do BLHS quy định) 1.2.1. Các căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Thủ tục tố tụng thể hiện tính chặt chẽ của quá trình điều tra, truy tố, xét xử, tính dân chủ của hoạt động tư pháp. Vì vậy việc vi phạm thủ tục tố tụng ở mức độ nghiêm trọng là căn cứ để hủy bản án. Thứ nhất, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật: Quyết định đình chỉ vụ án là quyết định tố tụng do VKS đưa ra trong giai đoạn truy tố và do Tòa án quyết định trong giai đoạn xét xử làm chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án. Chính vì vậy, đối với những vụ án đã có quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án thì nghiễm nhiên quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật và trong trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố hay xét xử đối với họ. Khi đã xác định được người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố vụ án hình sự (VAHS), trừ trường hợp họ thực hiện một hành vi khác mà luật hình sự coi là tội phạm. Thứ hai, tội phạm mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một trong những quy định của pháp luật TTHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại. Tuy nhiên, trong thực tiễn có những trường hợp việc khởi tố VAHS để truy cứu trách nhiệm người thực hiện hành vi phạm tội có thể gây thêm những tổn thất khác cho bị hại so với việc không khởi tố VAHS như gây thêm những tổn thất về tinh thần, làm lộ bí mật đời tư của bị hại, phá vỡ sự tha thứ, hòa giải và thỏa 11
  17. thuận bồi thường giữa các bên... Chính vì vậy, pháp luật TTHS quy định đối với một số trường hợp tội phạm xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không phải là rất lớn hoặc đặc biệt lớn, không có tình tiết định khung tăng nặng thì việc khởi tố vụ án chỉ có thể được thực hiện khi có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của họ. BLTTHS năm 2015 quy định có 10 tội phạm thuộc trường hợp chỉ được khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại, gồm khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS. So với BLTTHS năm 2003, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại trong BLTTHS năm 2015 có nhiều điểm mới như: BLTTHS năm 2015 mở rộng phạm vi chủ thể có tư cách bị hại, đồng nghĩa với phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố VAHS cũng được mở rộng. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 155 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định “Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức” [15, tr.69]. Quy định của BLTTHS năm 2015 là hợp lý vì cả bị hại và người đại diện của họ đều là chủ thể của quyền rút yêu cầu khởi tố, việc quy định cả hai chủ thể trên đều không được yêu cầu khởi tố lại là phù hợp về kỹ thuật lập pháp. Thứ ba, cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm: Có nhiều dạng bỏ lọt tội phạm khác nhau, chẳng hạn VKS truy tố bị cáo ba tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét xử bị cáo hai tội; các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một tội hoặc nhiều tội khác nhưng VKS không truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm không thể xét xử các hành vi mà VKS không truy tố… Đối với trường hợp bỏ lọt người phạm tội (có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi 12
  18. tố bị can hoặc đã khởi tố bị can nhưng được đình chỉ điều tra…) việc giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm cũng tương tự như đối với trường hợp bỏ lọt tội phạm. Như vậy có thể thấy, trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra (CQĐT) đã điều tra không đầy đủ (vi phạm trong việc lập biên bản hiện trường, thu giữ vật chứng, nhận định tội danh…), bỏ lọt tội phạm, quá trình kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên (KSV) thụ lý vụ án không phát hiện ra những sai sót, vi phạm trên để khắc phục, Toà án cấp sơ thẩm trước và trong khi xét xử cũng không phát hiện, làm rõ. Những sai sót trong quá trình điều tra, truy tố vụ án, dẫn tới khi bản án bị kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm phát hiện thấy những vi phạm trên của bản án sơ thẩm; Quan điểm xử lý vụ án và mức hình phạt đối với các bị cáo giữa hai ngành Kiểm sát và Toà án trong một số tình tiết của vụ án vẫn chưa thống nhất. Thứ tư, việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được: Tại điểm b, khoản 1, Điều 358 BLTTHS năm 2015 quy định về hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại như sau: “việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” [15, tr.141], điều đó cho thấy, người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm hình sự để Tòa án cấp sơ thẩm xem xét lại theo trình tự sơ thẩm kết án người đó phạm tội. Do đó, nếu VKS đã truy tố một người về một tội quy định tại BLHS năm 2015 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố người đó không phạm tội, thì VKS mới có quyền kháng nghị và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Tuy nhiên, nếu một người đã bị khởi tố nhưng trong quá trình điều tra, truy tố CQĐT hoặc VKS đã đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với người đó mà khi xét xử sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm cũng thấy có căn cứ xác định 13
  19. người đó phạm tội thì VKS không được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu tại phiên tòa sơ thẩm, qua xét hỏi và tranh luận, VKS thấy việc đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án đối với một người rõ ràng là không đúng pháp luật và Tòa án cấp sơ thẩm không có kiến nghị phục hồi điều tra thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật VKS sẽ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để hủy bản án sơ thẩm hoặc quyết định phục hồi điều tra để truy tố người mà CQĐT hoặc VKS đã đình chỉ (nếu việc điều tra không ảnh hưởng đến các bị cáo khác trong cùng vụ án). Thứ năm, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để xảy ra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: Ở đây các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thực hiện đúng hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu của các bước trong quá trình giải quyết vụ án, cũng có thể vì thiếu các tài liệu chứng cứ mà đánh giá sai các tình tiết vụ án dẫn đến việc xác định sai sự thật vụ án cũng như tính khách quan và toàn diện của vụ án đó. Theo Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn về xét xử sơ thẩm VAHS thì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là: - Có hành vi không thực hiện những quy định bắt buộc trong BLTTHS khi tiến hành tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; - Có hành vi thực hiện nhưng thực hiện không đúng theo trình tự, thủ tục đã quy định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; - Các hành vi trên phải xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…; - Bỏ qua hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thủ tục làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện (như đối với các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc bị truy tố ở khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì trong quá 14
  20. trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải chỉ định Luật sư, nhưng bỏ qua không thực hiện là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được pháp luật quy định). Những vi phạm thuộc các trường hợp trên đều coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và phải được điều tra, truy tố lại hoặc xét xử lại nên Tòa phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm; còn những vi phạm ngoài phạm vi khái niệm này thì được coi là những vi phạm tố tụng không nghiêm trọng và chỉ thực hiện việc kiến nghị sửa chữa, khắc phục như vi phạm về thời hạn điều tra, thời hạn xét xử … cũng là vi phạm tố tụng nhưng không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng. 1.2.2. Các căn cứ theo quy định của Bộ luật Hình sự Thứ nhất, không có sự việc phạm tội: Không có sự việc phạm tội tức có thể thông tin về tội phạm là không chính xác, hoàn toàn không có sự việc xảy ra như thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận hoặc có sự việc xảy ra nhưng sự việc đó không có dấu hiệu của tội phạm. Ví dụ như một người không thực hiện hành vi phạm tội, mà Tòa án cấp sơ thẩm có sai lầm trong việc kết án người đó phạm tội, sai lầm này có thể do CQĐT hoặc VKS trong quá trình điều tra, cũng có thể do Tòa án. Việc VKS truy tố không đúng người, đúng tội, nhưng quá trình xét xử Hội đồng xét xử không căn cứ vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa để làm căn cứ kết án dẫn đến làm oan người vô tội. Thứ hai, hành vi không cấu thành tội phạm: Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi của người hoặc pháp nhân nào đó không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Ví dụ như người thực hiện hành vi gây thiệt hại, không có năng lực trách nhiệm hình sự, không có lỗi; người 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2