intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:72

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kết cấu của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1 - Lý luận về kháng nghị phúc thẩm và những quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự; Chương 2 - Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định; Chương 3 - Một số yêu cầu và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH QUANG TRIỀU KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỚI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, năm 2020
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với vị trí và vai trò của mình, VKSND tiến hành các hoạt động TTHS xuyên suốt ngay từ quá trình nhận thông tin tố giác tội phạm cho đến khi bản án, quyết định được thi hành. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố của VKS thể hiện thông qua việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Bên cạnh đó, VKS còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Để đảm bảo việc pháp luật được thực hiện nghiêm minh, đúng đắn, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLHS hay BLTTHS, hoặc sau phiên tòa XXST mà phát hiện thấy quá trình TTHS từ khi khởi tố VAHS đến khi truy tố, xét xử có VPPL cả về hình thức và nội dung thì VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp sử dụng quyền KNPT để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định đó. Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một trong những hoạt động quan trọng nhằm thể hiện chức năng của ngành Kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc KNPT của VKSND tỉnh Bình Định còn nhiều hạn chế. Công tác kiểm sát bản án, biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, kiểm sát các nguồn tài liệu khác thực hiện đạt hiệu quả chưa cao, do đó chưa phát hiện được những vi phạm của cấp sơ thẩm. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ KSV có trình độ nhận thức chưa sâu, chất lượng bản KNPT chưa đạt, nên có nhiều quyết định KNPT của VKS ban hành chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án VKS phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. 1
  3. Công tác KNPT hình sự chưa chưa phát huy được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của ngành KSND trong tiến trình giải quyết VAHS theo TTHS do chưa được quan tâm đúng mức [37, tr.8]. Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác KNPT các VAHS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến công tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam, tiêu biểu như công trình nêu trên, liên quan đến lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự của VKSND các cấp còn có những bài viết khá được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân. Những công trình khoa học đã nêu ở trên là nguồn tài liệu quý giá, quan trọng không thể thiếu giúp tác giả nắm vững phần lý luận trong việc thực hiện đề tài luận văn. Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về công tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài luận văn, như: Các đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học nêu trên đã nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự của VKSND ở những phương diện khác nhau, lý luận được trình bày rõ ràng, mạch lạc, cụ thể, đã tập trung giải quyết một số vấn đề nhất định trong nghiên cứu và được nghiên cứu số liệu thực tiễn trên những địa bàn, địa phương khác nhau. Có thể đánh giá rằng, những luận văn trên, luận án nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về KNPT hình sự của VKSND thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bình Định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn Thạc sĩ luật học là không 2
  4. bị trùng lắp với các công trình khoa học đã nghiên cứu từ trước, đồng thời đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài, luận văn đã kế thừa một cách có chọn lọc những hạt nhân hợp lý để góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về KNPT hình sự; phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định từ giai đoạn năm 2015 đến năm 2019, nêu lên được những tồn tại, hạn chế của thực trạng đó; luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận văn Cao học Luật nêu lên một số nhiệm vụ cần phải giải quyết, cụ thể như sau: - Một là, nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận về KNPT hình sự như khái niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, trình tự thủ tục, hậu quả pháp lý của việc KNPT hình sự. - Hai là, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTHS hiện hành quy định về công tác KNPT của VKSND các cấp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài bao gồm: nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng công tác KNPT hình sự, có sự so sánh đối chiếu giữa BLTTHS năm 2003 với BLTTHS năm 2015; Luật tổ chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3
  5. - Phạm vi về nội dung: đề tài nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hiện công tác KNPT hình sự. - Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu thực trạng công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định dưới góc độ LHS và TTHS trên địa bàn tỉnh Bình Định. - Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được sử dụng trong luận văn tác giả đã thu thập tại địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, về cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu thành công đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích số liệu thống kê, tổng hợp đánh giá thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định tại Chương 2 của luận văn - Phương pháp thống kê hình sự: được sử dụng để tiến hành thống kê hình sự trên cơ sở báo cáo số liệu của VKND tỉnh Bình Định qua đó làm rõ thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định. - Phương pháp chuyên gia: được sử dụng thông qua trực tiếp phỏng vấn, trao đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong công tác KNPT các VAHS nhằm làm sáng tỏ những vấn đề 4
  6. lý luận và thực tiễn về công tác KNPT của VKSND tỉnh Bình Định. - Phân tích nghiên cứu điển hình: được sử dụng lựa chọn một số vụ án điển hình được VKSND tỉnh Bình Định KNPT để dùng minh hoạ một số nhiệm vụ của đề tài luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã hệ thống, làm rõ được những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn công tác KNPT hình sự ở tỉnh Bình Định, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới. Ngoài ra, các giải pháp này có thể được áp dụng ở các địa phương khác có đặc điểm tình hình tội phạm, thực trạng công tác tư pháp tương tự. Bên cạnh đó, luận văn còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên, sinh viên trong việc nghiên cứu về KNPT hình sự phục vụ cho công tác, giảng dạy, học tập, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo về LHS. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Lý luận về kháng nghị phúc thẩm và những quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định 5
  7. 6
  8. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ 1.1. Lý luận về kháng nghị phúc thẩm 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm 1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm Theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì: “kháng nghị: là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị” [43, tr.894]; “phúc thẩm: là xét lại những vụ án do Tòa án dưới đưa lên” [43, tr.1087]. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì: “Kháng nghị của VKS là việc VKS khi thực hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật, KNPT chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm [39, tr.731]. Khoa học pháp lý Việt Nam cũng hay nói đến khái niệm KNPT hình sự nhưng hiện nay theo quy định trong BLTTHS năm 2015, trong quy định của các văn pháp pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu khoa học vẫn chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất thế nào là KNPT hình sự. Có tác giả cho rằng KNPT là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có VPPL nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp 7
  9. luật, nghiêm minh và kịp thời [24, tr.65]. Một số khác lại định nghĩa KNPT là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật [42, tr.4]. Theo chúng tôi, qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành và các công trình, tài liệu và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các nhà nghiên cứu về TTHS, chúng tôi đưa ra định nghĩa về công tác KNPT hình sự như sau: KNPT hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nướcViệt Nam giao cho Viện KSND thể hiện quan điểm của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. 1.1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự - Là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho VKSND trong TTHS Cùng với xu hướng chung của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra là “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”[1] thì việc tìm hiểu quy định của BLTTHS về XXPT, làm rõ một số bất cập trong các quy định của BLTTHS về XXPT từ đó nêu lên các kiến nghị hoàn thiện sẽ góp phần là vô cùng cần thiết, làm cho các quy định của BLTTHS sát với thực tiễn, nâng cao công tác giải quyết các vụ án hình sự (VAHS) tại Tòa án cấp phúc thẩm - Đối tượng của KNPT là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. KNPT là một trong những căn cứ để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Từ quy định này có thể hiểu, trong quá trình giải quyết VAHS, để xuất hiện giai đoạn XXPT thì bản án hoặc quyết định của TACST phải có kháng cáo, kháng nghị và phạm vi bản án bị kháng cáo, kháng nghị cũng là căn cứ để xác định 8
  10. phạm vi XXPT. Điều này cũng khẳng định không phải VAHS nào cũng trải qua hai cấp xét xử mà chỉ những vụ án sau khi có bản án, quyết định của TACST bị kháng cáo, kháng nghị đúng theo quy định của pháp luật. Là cấp xét xử thứ hai, khắc hẳn với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đây cũng là một trong những quy định cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (nguyên tắc hai cấp xét xử) được quy định tại khoản 1 Điều 20 BLTTHS. Việc xác định XXPT là cấp xét xử thứ hai sau xét xử sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng để cụ thể hóa các nội dung có liên quan đến thủ tục tố tụng như: trình tự, thủ tục tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử, tiến hành phiên tòa phúc thẩm, thẩm quyền của cấp XXPT … - KNPT góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được bảo đảm. Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. khi có một trong các vi phạm này thì hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Ngoài ra, nếu một người mà hành vi của họ đã đáp ứng đầy đủ tất cả các yêu tố cấu thành một tội cụ thể được quy định trong BLHS nhưng TACST lại tuyên họ không phạm tội thì TACPT không được sửa án tuyên bố bị cáo phạm tội mà phải hủy án để xét xử sơ thẩm lại. Quy định này đã khắc phục hạn chế quy định của BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo. Bên cạnh các căn cứ bên trên, khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng. Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì HĐXXPT ra quyết định tiếp tục tạm giam 9
  11. bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung [13, tr.18]. 1.1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm - Việc quy định và thực hiện hiệu quả công tác KNPT hình sự có ý nghĩa, vai trò lớn góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm pháp chế XHCN được thực thi. HĐXXPT chỉ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi việc điều tra không đầy đủ có ảnh hưởng đế việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, cần phải hiểu điều tra không đầy đủ bao gồm cả trường hợp đó điều tra đối với vấn đề cần phải chứng minh nhưng việc điều tra đó có vi phạm pháp luật (thủ tục tố tụng) làm cho tài liệu, chứng cứ thu thập không thể dùng để giải quyết vụ án. Ngoài ra, khi có việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ, HĐXXPT cần xem xét việc thiếu sót đó có thể khắc phục tại phiên tòa hay không. Nếu có thể làm rõ tại phiên tòa thì cũng không hủy án để điều tra lại. VKSND thực hiện tốt việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về công tác KNPT hình sự không những góp phần giải quyết VAHS đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn góp phần không nhỏ bảo vệ công lý, quyền con người, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm pháp chế XHCN. - Việc quy định và thực hiện quyền KNPT là căn cứ quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Ngoài thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị, chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày mở phiên tòa, TACPT phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm XXPT vụ án để họ tham gia phiên tòa phúc thẩm. Tại phiên tòa, HĐXXPT cũng phải hỏi xem họ đã 10
  12. được thông báo trong thời hạn luật định hay không; có yêu cầu hoãn phiên tòa nếu chưa được giao hoặc giao không đúng thời hạn hay không. Thủ tục này phải được bổ sung vào Điều 247 BLTTHS về thủ tục phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung của thông báo tham gia phiên tòa XXPT theo chúng tôi cũng chưa đầy đủ. Để Viện kiểm sát có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa có thể thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa, theo chúng tôi, cần phải thông báo cho những chủ thể này đầy đủ những nội dung tương tự như nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử ở cấp sơ thẩm. Trên cơ sở nội dung được thông báo đó, các chủ thể tham gia phiên tòa có thể xem xét có cần yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hay không; có cần yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm tài liệu, đồ vật có liên quan hay không [14, tr.3]. 1.1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm Hiệu lực của KNPT hình sự là sự phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem xét và quyết định của Tòa án trong giới hạn XXST, để khắc phục các vướng mắc về phạm vi XXPT, Điều 241 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Nếu có kháng cáo, kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, TACPT xét xử lại toàn bộ vụ án. Nếu có kháng cáo, kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, TACPT chỉ xét xử lại phần vụ án có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. TACPT có thể xét xử lại vụ án tại các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp ở phần đó có điểm cần xem xét để xét xử theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Thứ hai, để đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của các bên tham gia phiên tòa phúc thẩm và để Tòa án thực hiện đúng chức năng xét xử của mình, cần được sửa đổi như sau: “Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa 11
  13. vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật”. 1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung của kháng nghị phúc thẩm 1.1.2.1. Nhiệm vụ của kháng nghị phúc thẩm - Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Toà án. Pháp chế XHCN chính phủ thực hiện quyền hành pháp cao nhất. Còn Tòa án nhân dân được giao quyền tư pháp, xét xử. Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng và được bảo vệ bằng một cơ chế bảo hiến. Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Việc giám sát này có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ Hiến pháp, giống như những thiết chế bảo hiến khác trên thế giới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan được giao trách nhiệm thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban này có các thẩm quyền đình chỉ và trình Quốc hội bãi bỏ việc thi hành văn bản trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Thực tế đã chỉ ra, Toà án cấp sơ thẩm có những vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự về định tội danh, áp dụng điều khoản bộ luật, định khung hình phạt…Hay căn cứ kháng nghị do có những vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ. Do đó, nội dung kháng nghị chưa xác định chính xác những vi phạm pháp luật của bản án hoặc quyết định sơ thẩm làm căn cứ để kháng nghị, chỉ đề cập một cách chung chung như: xét thấy án sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội; hoặc hình phạt áp dụng đối với bị cáo là không tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, mức án sơ thẩm là chưa thoả đáng, án xử quá nặng hay quá nhẹ mà chưa phân tích rõ căn cứ, cơ sở kháng nghị. Chính vì chưa bám sát vào các căn cứ kháng nghị hoặc đưa ra căn cứ kháng nghị thiếu chính xác, 12
  14. không thuyết phục nên số kháng nghị của Viện kiểm sát ban hành không được Toà án chấp nhận chiếm một tỷ lệ lớn. Ví dụ: trong ba năm (2015, 2016, 2017) số kháng nghị không được Toà án chấp nhận do không đủ căn cứ pháp lý chiếm 27,4% tổng số kháng nghị đã ban hành toàn ngành kiểm sát, số kháng nghị được chấp nhận. Thực hiện tốt công tác KNPT hình sự có vai trò rất lớn trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử. 1.1.2.2. Nội dung của kháng nghị phúc thẩm - Đối tượng kháng nghị phúc thẩm Việc đưa ra đối tượng kháng nghị do có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự và kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm Quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm là một nội dung quan trọng, vì nhờ có quy định này, Tòa án cấp phúc thẩm có thể khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới trực tiếp, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước. Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong giải quyết vụ án, áp dụng quy định này có một số bất cập, vướng mắc. - Thẩm quyền (chủ thể) kháng nghị phúc thẩm Theo ý kiến của tôi, quy định mới là không hợp lý, bởi lẽ một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự đó là nguyên tắc tự nguyện cam kết và thỏa thuận. Khi bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại cũng được coi như giữa bị cáo, bị hại hoặc nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự đã thống nhất ý chí với phán quyết về phần bồi thường thiệt hại trong bản án sơ thẩm. Khi các bên đã cùng thống nhất ý chí thì việc HĐXX phúc thẩm tự ý giảm 13
  15. mức bồi thường thiệt hại là không cần thiết. Thậm chí, việc làm này của HĐXX phúc thẩm trong một số trường hợp còn vi phạm nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận về dân sự, đồng thời xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người được bồi thường. Theo tôi, nên bổ sung thêm về vấn đề bồi thường thiệt hại thì HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án chỉ khi có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi thường thiệt hại. - Thông báo về việc kháng nghị phúc thẩm Theo quy định trên thì kháng nghị phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bất lợi cho bị cáo dựa trên kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của bị hại, ngoài chủ thể này ra thì kháng cáo của các chủ thể khác không phải là cơ sở để HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo. Theo đó nếu người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự trong phạm vi kháng cáo của mình có kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng không có lợi cho bị cáo thì không được chấp nhận. Trên thực tế, không phải bị hại nào cũng có khả năng tự mình kháng cáo (trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, bị hại đã chết…), khi đó quyền kháng cáo của họ phải được thực hiện thông qua người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo quy định tại khoản thì việc tăng mức bồi thường thiệt hại chỉ được HĐXX phúc thẩm xem xét và quyết định cơ sở có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo bị hại. Tuy nhiên, ngoài bị hại thì người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự cũng có quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại. Cụ thể, tại điểm m khoản 2 Điều 62 và khoản quy định người đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm; tại 14
  16. điểm quy định nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến bồi thường thiệt hại; điểm h khoản 2 Điều 84 BLTTHS 2015 quy định người bảo vệ và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Theo đó người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự cũng có quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại nếu họ nhận thấy phần quyết định của bản án sơ thẩm về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với bị hại hoặc nguyên đơn dân sự là chưa phù hợp. Như vậy, quy định tại là một thiếu sót về mặt kỹ thuật lập pháp cần phải khắc phục. - Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị Chưa có quy định cụ thể về căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Mặc dù, Điều 33 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các vụ án hình sự số đã cã quy định các căn cứ kháng nghị phúc thẩm, nhưng đây mới chỉ là căn cứ được áp dụng trong nội bộ ngành Kiểm sát. Do vậy, nhiều trường hợp chưa có sự thống nhất giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc đánh giá những vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc ra bản án, quyết định sơ thẩm để làm căn cứ kháng nghị. Vì vậy, BLTTHS năm 2003 cần bổ sung điều luật mới quy định đầy đủ và cụ thể các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm như: việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện và không đầy đủ, kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, bản án hoặc quyết định sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS… Những căn cứ kháng nghị này là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm. Trên cơ sở kế thừa Điều 33 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các vụ án hình sù số, chóng tôi đề nghị bổ sung vào BLTTHS năm 2003 15
  17. một điều luật mới về căn cứ kháng nghị phúc thẩm với nội dung như sau: “Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, khi có một trong các căn cứ trên”. 1.2. Quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực của xét xử cấp sơ thẩm vụ án hình sự 1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và rồi lại tự mình xét xử vụ án – điều này sẽ dẫn đến một hệ quả như sau: Nếu có dấu hiệu tội phạm, có người phạm tội thật thì việc Tòa án quyết định khởi tố là đúng, hướng đi đúng với việc điều tra của Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát; nhưng nếu đó là bản án trắng, tức là không có tội phạm hay người phạm tội thì Tòa án sẽ phải tuyên án trắng chính vụ án mà mình đã khởi tố. Điều này còn dễ dàng dẫn đến hiện tượng, Tòa án muốn bảo vệ quan điểm khởi tố ban đầu của mình, và đương nhiên nó sẽ không còn vô tư, khách quan trong quá trình xét xử nữa. Về bản chất, thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự3. Viện kiểm sát kiến nghị về mức bồi thường, bồi hoàn là vi phạm nguyên tắc động cơ hành động trong việc kháng nghị vì Viện kiểm sát là chủ thể của quyền công tố, không phải là chủ thể của tố quyền dân sự trong vụ án hình sự. Việc Viện kiểm sát kháng nghị về mức bồi thường, bồi hoàn là vi phạm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, Viện kiểm sát không có quyền thỏa thuận với bị cáo hoặc đương sự về mức bồi hoàn4 [9, tr.6]. 1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm từ năm 1988 đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực 16
  18. Việc duy trì chức năng này không phải là không hợp lý, nó sẽ giúp cho việc không để lọt tội phạm, ngăn chặn sự nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân, bởi lẽ có thể trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều tra, viện kiểm sát có thể bỏ sót tội phạm. Tuy nhiên, không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trực tiếp cho HĐXX, mà chỉ nên quy định nếu trong quá trình có tội phạm hay người phạm tội mới cần điều tra thì HĐXX đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án. Điều này trước hết là đảm bảo việc vô tư, khách quan trong xét xử, vừa phù hợp hơn với chức năng cũng như các giai đoạn tiêp theo của tố tụng hình sự Tuy nhiên, tại Điều 331 và Điều 60 lại không trao quyền kháng cáo cho bị can. Theo quy định của BLTTHS thì tư cách “bị cáo” xuất hiện từ khi thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ hoặc tạm dình chỉ vụ án thì bị can cũng không được quyền kháng cáo quyết định đó. Như vậy sẽ không đảm bảo được quyền lợi của bị can. Theo chúng tôi, nên bổ sung quyền kháng cáo cho bị can ở Điều 331 và Điều 60 BLTTHS 2015. Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử, quy định về KNPT hình sự về hình thức có những tên gọi khác nhau, từng bước đã có sự thay đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn, dần đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKS. Có thể nói, chế định KNPT hình sự đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam. 17
  19. Tiểu kết Chương 1 Trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì xét xử là một giai đoạn quan trọng nhất. Bởi vì, suy ra cho cùng thì việc xử lý một người phạm tội được thể hiện và tập trung nhất ở hoạt động xét xử của Toà án. Tại phiên toà, sau khi đã nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án một cách công khai, Toà án ra một bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo quy định tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự, có áp dụng hình phạt đối với bị cáo hay không, nếu có thì hình phạt đó là hình phạt gì. Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề về lý luận về KNPT VAHS như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa KNPT; nhiệm vụ, nội dung của KNPT. Đồng thời, luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về KNPT hình sự đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực của xét xử cấp sơ thẩm VAHS giai đoạn trước khi có Bộ luật TTHS 1988 và giai đoạn từ 1988 đến trước khi Bộ luật TTHS 2015 có hiệu lực. Đây là những nội dung, cơ sở, tiền đề quan trọng để tác giả đi vào thực hiện các nội dung ở Chương 2 của luận văn. 18
  20. CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về kháng nghị phúc thẩm hình sự Quy định về KNPT là “những quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của bộ luật này”. Đây là một quy định mang tính khái quát. Như vậy, những quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là những quyết định nào? Xét về nội dung, những quyết định của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm “Những quyết định hành chính tư pháp nhằm đảm bảo hoạt động đúng đắn của trình tự phúc thẩm ,“không định đoạt việc giải quyết vụ án” thì không phải là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm”. Hiện nay, BLTTHS 2015 quy định một số quyết định là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm như sau: Quyết định khởi tố vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm; quyết định của Tòa án về việc áp dụng bắt buộc biện pháp chữa bệnh; quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện1. Theo chúng tôi, quyết định này không quyết định, định đoạt việc giải quyết vụ án nên để không kéo dài thời gian tố tụng và thời gian giải quyết vụ án không nên đưa những quyết định này là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, cụ thể: 2.1.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự Thẩm quyền chi tiết: “Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện; Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2