intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

31
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu khảo sát đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại Viện kiểm soát nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN XUÂN VĨ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN XUÂN VĨ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TÔN THIỆN PHƯƠNG HÀ NỘI – năm 2020
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, đặc biệt là Khoa Luật học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu làm nền tảng cho việc thực hiện luận văn này. Tôi đặc biệt cảm ơn Thầy giáo Ts. Tôn Thiện Phương đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn tất luận văn thạc sĩ này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và những người đã giúp tôi thu thập dữ liệu cho việc phân tích để tạo ra kết quả nghiên cứu của luận văn này. Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã động viên và tạo động lực để tôi hoàn thành luận văn này một cách thành công.
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn này được thu thập và sử dụng một cách trung thực. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng chưa được trình bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác trước đây. Tác giả luận văn Trần Xuân Vĩ
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM CỦA CƠ QUAN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ........................................................................................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ....................................................................................... 7 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em ..................................................................................... 18 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TẠI TỈNH QUẢNG NAM ....................... 33 2.1. Tổng quan về tình hình liên quan đến thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em của các Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................... 33 2.2. Thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em của các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ........................................... 39 2.3. Đánh giá kết quả hoạt động kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ............................... 60 2.4. Những hạn chế bất cập và nguyên nhân trong kiểm sát điều tra đối với các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em ............................................................................ 61 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM ................. 66 3.1. Dự báo tình hình về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em trong thời gian tới ............................................................................................ 66 3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến kiểm sát điều tra vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ............................................................ 69 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm hại tình dục trên địa bản tỉnh Quảng Nam .............................................................. 74
  6. KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra KSĐT Kiểm sát điều tra KSV Kiểm sát viên TAND Toà án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân XPTDTE Xâm phạm tình dục trẻ em
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, đời sống của nhân dân ta ngày càng được nâng cao. Lớp thế hệ trẻ được sinh ra sau những năm tháng chiến tranh luôn tràn đầy sự năng động, sáng tạo, là nhân tố quan trọng quyết định tương lai tươi sáng của dân tộc. Mỗi trẻ em được sinh ra là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” câu thơ của Bác Hồ đến nay vẫn còn nguyên những giá trị. Đầu tư cho việc chăm sóc trẻ em bảo vệ sự phát triển bình thường của trẻ em cũng chính là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em bị bạo hành, ngược đãi, xâm phạm đến nhân phẩm, sức khỏe, nhất là bị xâm phạm tình dục ở Việt Nam đã trở nên đáng lo ngại. Các tội phạm XPTDTE vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe của nạn nhân, làm suy đồi đạo đức xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống văn minh trong xã hội hiện đại. KSĐT là hoạt động nằm trong chuỗi hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm đảm bảo mọi hoạt động điều tra hành vi phạm tội phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật. KSĐT là một chức năng hoạt động quan trọng của VKSND trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Hoạt động KSĐT vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, hoạt động KSĐT còn có vai trò đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện, xử lý chính xác, kịp thời, nhanh chóng và công minh nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, kỷ cương của pháp luật. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động này, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện chủ trương, chính sách cũng như nhiều quy định pháp luật liên quan. 1
  9. Hoạt động KSĐT đã và đang góp phần quan trọng, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội và giảm oan sai. Trong những năm qua, công tác KSĐT các vụ án hình sự nói chung và các vụ án XPTDTE nói riêng luôn được Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đặc biệt quan tâm, chỉ đạo và đạt được những kết quả đáng kích lệ. Các vụ án XPTDTE đã được xử lý kịp thời, nghiêm minh, góp phần có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, qua tổng kết, đánh giá thực tiễn tác giả nhận thấy rằng công tác KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị hại, thậm chí một số vụ án phải điều tra bổ sung, hủy án để điều tra, xét xử lại, nhiều đơn vị, nhiều kiểm sát viên không thực hiện công tác KSĐT ngay từ giai đoạn ban đầu khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm, còn thụ động trong hoạt động KSĐT đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, một số vụ án bị kéo dài phải gia hạn điều tra làm kéo dài quá trình tố tụng không cần thiết... Để tăng cường hơn nữa pháp chế cũng như hoạt động giám sát, kiểm tra trong kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động trong KSĐT đối với tội phạm XPTDTE nói riêng cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của VKSND. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đồng thời để hoạt động này của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Quảng Nam ngày một tốt hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và đòi hỏi của xã hội nói chung, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội phạm XPTDTE phạm tội và công tác KSĐT vụ án hình sự đối với loại tội phạm này đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Tình hình nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong các đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học, một số giáo trình giảng dạy của các trường đại học và được đăng tải thường xuyên và liên tục trên các tạp chí chuyên 2
  10. ngành, các kênh truyền thông đại chúng khác. Tác giả đã nghiên cứu, tiếp cận và tham khảo một số đề tài về hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND trong thời gian gần đây như: Về giáo trình có: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Trường Đại học Luật TP. HCM năm 2015; của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015; của Đại học Luật Hà Nội năm 2018; Một số luận văn liên quan như: Bùi Thị Quyên (2012), Tội hiếp dâm - So sánh giữa Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nước, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012; Nguyễn Việt Khánh Hòa (2010), Tội mua dâm người chưa thành niên theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Lý luận và thực tiễn, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội; Đỗ Tiến Dũng (2012), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam; Nguyễn Vinh Huy (2012), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam; Nguyễn Thị Minh Hương (2014), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Các bài viết như: Cần sửa đổi các Điều 115 và Điều 116 Bộ luật Hình sự hiện hành của Trần Quốc Văn, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2011; Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về một số tội xâm phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, của Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học, số 1/2010; Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, của Dương Tuyết Miên, Tạp chí Luật học, số Đặc san về bình đẳng giới, năm 2005; Trẻ em hiếp dâm trẻ em, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và sự không hợp lý trong quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự, của Trần Quang Thái, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17/2011; Về các tội phạm nhân phẩm, danh dự của con người, của Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8(169), tháng 4/2015. Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, qua tìm hiểu cho thấy việc nghiên cứu về loại 3
  11. tội phạm này hoặc mang tính tổng quát, hoặc mang tính riêng biệt ở từng địa phương, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức độ luận văn Thạc sĩ luật học. Đặc biệt là nghiên cứu về những đặc thù của công tác kiểm sát điều tra của VKSND đối với tội phạm này. Trong đề tài này tác giả đề cập đến những vấn đề lý luận, thực tiễn trên cơ sở tập hợp, nghiên cứu, đánh giá công tác kiểm sát điều tra tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong một khoảng thời gian nhất định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ nghiên cứu lý luận, khảo sát đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại VKSN hai cấp tỉnh Quảng Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Căn cứ vào mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nghiên cứu phân tích làm rõ nhận thức lý luận về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, hoạt động KSĐT của cơ quan Viện kiểm sát đối với tội phạm này; - Đánh giá thực trạng tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em và việc KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em ở VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam; - Kiến nghị, đề xuất một cách hệ thống nhóm các giải pháp khoa học, thực tiễn để nâng cao chất lượng công tác KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em của VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tác giả lấy quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, thực tiễn hoạt động KSĐT với tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để nghiên cứu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4
  12. Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự gắn với thực tiễn hoạt động KSĐT với tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015-T5/2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng kết hợp với phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trưởng của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Nhằm giải quyết các yêu cầu nghiên cứu đã đặt ra, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: + Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết, bình luận, so sánh, đối chiếu… được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề nhận thức lý luận pháp luật về KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. + Phương pháp thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu…được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu đánh giá thực tiễn hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. + Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm, bình luận, so sánh, tổng hợp, quy nạp được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài là một công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu và những giải pháp đưa ra trong của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về áp dụng pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng 5
  13. Nam nói riêng. Đồng thời, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, giúp cho các kiểm sát viên tham khảo, vận dụng vào hoạt động nghiệp vụ và công tác, nâng cao chất lượng KSĐT của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài là một công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được khai thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn, các hội thảo tập huấn chuyên đề, giúp cho các Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác KSĐT tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em tham khảo, vận dụng trên thực tế cũng như công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng KSĐT của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng Nam. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần bảng phụ lục thì luận văn gồm có 3 Chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Thực trạng Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em. 6
  14. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM CỦA CƠ QUAN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Những vấn đề lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em 1.1.1. Một số vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em 1.1.1.1. Khái niệm trẻ em Để làm rõ được các vấn đề lý luận về tội phạm XPTDTE, trước hết cần phân tích rõ khái niệm “trẻ em”. Theo đó, tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em có ghi nhận: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dước 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Công ước có 54 điều khoản bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống của trẻ và đặt ra các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà tất cả trẻ em ở khắp mọi nơi đều được hưởng. Nó cũng giải thích cách người lớn và chính phủ phải làm việc cùng nhau để đảm bảo tất cả trẻ em đều có thể được hưởng tất cả các quyền của mình. Tùy thuộc vào pháp luật ở từng quốc gia mà có quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên khác nhau. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên như: Công ước về Quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên ngày 14/12/1990. Hiện nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, việc xác định trẻ em căn cứ vào độ tuổi vẫn còn chưa có sự thống nhất. Theo đó, tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [23, Điều 1]. 7
  15. Như vậy, đây chính là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất đã đưa ra khái niệm cụ thể về trẻ em. Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật khác cũng có một số định nghĩa liên quan như: Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên là người đủ mười tám tuổi” [24, Điều 20] và “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi” [24, Điều 21]; Luật Lao động 2019 lại quy định: “Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi...” [25, khoản 1 Điều 3] và “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [25, Điều 143]; Bộ luật hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi về khái niệm trẻ em nhưng cơ bản vẫn xác định trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Các nhà làm luật nước ta đã cụ thể hoá nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em bằng cách xác định là độ tuổi cụ thể của nạn nhân. Bởi lẽ, do Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã có quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Do đó, việc sửa đổi tên điều luật bằng xác định cụ thể độ tuổi của nạn nhân thay vì dùng cụm từ chung là “trẻ em” đã khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn. Như vậy, các văn bản pháp lý nêu trên đều đề cập khái niệm trẻ em dựa vào những đặc điểm tâm sinh lý hoặc dựa vào các căn cứ đặc thù của từng ngành nghiên cứu nhưng chưa có được căn cứ chung để xác định thế nào là trẻ em một cách thống nhất. Tuy nhiên, việc căn cứ vào độ tuổi để xác định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” chính là quan điểm định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu khoa học và các học giả đồng tình. Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam khái niệm “trẻ em” được xem là người chưa đủ 16 tuổi và là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tùy thuộc vào các quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em có khác nhau, nhưng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của trẻ em đối với mọi hành vi xâm phạm. 1.1.1.2. Khái niệm xâm phạm tình dục trẻ em Từ khái niệm trẻ em đã được phân tích ở trên cho phép chúng ta có thể tìm hiểu một cách thuận lợi hơn về nhóm các tội XPTDTE, đó chính là những người từ dưới 16 tuổi bị người phạm tội có hành vi xâm phạm tình dục. XPTDTE đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau nhưng hiện nay vẫn chưa có một 8
  16. khái niệm cụ thể và thống nhất nào được đưa ra. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới thì: “Xâm phạm trẻ em bao gồm mọi hình thức ngược đãi về thể chất và tinh thần, xâm hại tình dục, xao nhãng, bóc lột gây ra những thương tổn về sức khỏe, tính mạng, khả năng phát triển hay phẩm giá bằng cách lợi dụng chức phận, lòng tin hoặc quyền hạn”. Bên cạnh đó, tại khoản 8 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định: “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [23, Điều 4]. Trên thực tiễn trước đây, dưới góc độ của pháp luật hình sự thì chưa có khái niệm cụ thể về XPTDTE. Để có cơ sở pháp lý nhằm xử lý ngày càng có hiệu quả loại tội phạm này, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong công tác bảo vệ trẻ em, HĐTP TANDTC đã thông qua Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết đã được HĐTP TANDTC thông qua ngày 20/9/2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/11/2019. Cụ thể tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết này quy định: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...).” [20, khoản 1 Điều 2]. Như vậy có thể hiểu, xâm phạm tình dục trẻ em là là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới 9
  17. mọi hình thức; do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất hay các lợi ích phi vật chất. 1.1.1.3. Khái niệm các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em Từ phân tích khái niệm trẻ em và XPTDTE, có thể khái quát khái niệm các tội phạm XPTDTE như sau: Các tội XPTDTE là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, được quy định trong BLHS thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi vào các hành vi liên quan đến tình dục. Theo BLHS năm 2015 thì các tội XPTDTE được quy định trong năm điều luật và được sắp xếp vào cùng một Chương XIV Các tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, bởi lẽ giữa hành vi và hậu quả của nó có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Từ khái niệm trên có thể thấy tội XPTDTE có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, Tính có lỗi, Tính trái pháp luật hình sự, Tính chịu hình phạt. Có thể thấy, dấu hiệu pháp lý của tội phạm XPTPTE vẫn được thể hiện qua 4 yếu tố cơ bản của cấu thành tội phạm là: Khách thể; Mặt khách quan; Chủ thể và Mặt chủ quan của tội phạm. Thứ nhất, khách thể của các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, được thể hiện ngay trong tên gọi của Chương XIV đó là: xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đối tượng tác động của các tội phạm này là con người, cụ thể ở đây là người dưới 16 tuổi. Như vậy, đối tượng tác động ở đây phải là con người còn sống từ khi sinh ra cho đến trước khi chết. Điều này để phân biệt các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người với một số tội phạm cũng có những hành vi phạm tội tương tự nhưng tác động tới đối tượng không phải là con người (người đã chết...). Sức khỏe của người dưới 16 tuổi là tình trạng sức lực đang sống trong điều kiện bình thường, là trạng thái tâm sinh lý, sự hoạt động hài hoà trong cơ thể cả về thần kinh và cơ bắp, tạo nên khả năng chống lại bệnh tật. Hành vi xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi được thực hiển ở dạng hành động hoặc hình thức xâm 10
  18. phạm khác gây ra những tổn thương ở các bộ phận sinh dục trong cơ thể hoặc các bộ phận khác được cho là nhạy cảm, hậu quả xảy ra có thể gây bệnh tật, làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi. Ngoài ra, hậu quả của hành vi phạm tội xâm phạm tình dục của người dưới 16 tuổi còn làm cho người đó bị tổn thương nghiêm trọng về mặt sức khỏe, tinh thần, có thể bị gia đình, bạn bè và mọi người xung quanh có thái độ coi thường, khinh rẻ điều này còn tùy thuộc vào vị trí tuổi tác của người đó và tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm tình dục mà có những mức độ tác động, ảnh hưởng khác nhau. Thứ hai, tương ứng với mỗi loại tội phạm trong nhóm các tội xâm hại tình dục trẻ em có các hành vi khách quan khác nhau, có thể là hành vi giao cấu trái pháp luật hoặc hành vi có tính chất dâm dục đối với trẻ em. Bất kể các hành vi này là gì thì đều gây ra hậu quả là trẻ em sẽ bị tổn thương sâu sắc về danh dự, nhân phẩm và sức khỏe, thậm chí là đe dọa đến tính mạng; hậu quả nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, khiến trẻ em dễ bị mặc cảm, khó hoà nhập với xã hội. Việc bị xâm hại tình dục trong khi các đặc điểm về sinh học, thể chất chưa phát triển hoàn thiện có thể gây ra những tổn thương tại bộ phận sinh dục như: Viêm nhiễm đường tiết niệu, phá vỡ cấu trúc bình thường của bộ phận sinh dục … Ngoài ra, trẻ em còn có thể bị lây nhiễm các bệnh xã hội, bệnh lây truyền qua đường tình dục. Với các em nữ việc bị xâm hại tinh dục có thể khiến các em mang thai ngoài ý muốn gây nguy hiểm cho bản thân và thai nhi vì cơ thể các em chưa phát triển hoàn chỉnh hoặc là nguyên nhân dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ sinh sản và hạnh phúc gia đình của các em về sau. Nhiều trường hợp xâm hại tình dục đi kèm với bạo lực đã dẫn tới tử vong. Mặt khách quan của tội phạm XHTPTE còn thể hiện ở những thiệt hại về thể chất; tinh thần và sức khỏe; lây truyền các bệnh nguy hiểm, gây tâm lý bất an trong đời sống xã hội. Hầu hết các tội phạm XPTDTE có yếu tố cấu thành vật chất, theo đó hậu quả của hành vi phạm tội là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Thứ ba, mặt chủ quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện thông qua các diễn biến tâm lý bên 11
  19. trong của người phạm tội gồm 03 yếu tố: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của tội phạm đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả mà hành vi đó đã gây ra, lỗi được thể hiện dưới 02 hình thức bao gồm lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Căn cứ vào Điều 10, 11 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý được phân làm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp; lỗi vô ý gồm lỗi vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý; Mục đích là kết quả trong ý thức chủ quan mà tội phạm đặt ra phải đạt được khi tội phạm hoàn thành. Thứ tư, về chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Trong Phần chung, BLHS năm 2015 đã quy định dấu hiệu chung của chủ thể của tội phạm. Có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều thống nhất coi chủ thể của tội xâm hại tình dục (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi) đều là nam giới. Người thực hiện các hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm của các tội này là nam giới (tức người thực hành trong các vụ án có đồng phạm) và nữ giới cũng có thể là chủ thể của tội phạm này nhưng chỉ là đồng phạm đóng vai trò là người tổ chức, xúi giục hoặc người giúp sức. Theo quan điểm thông thường và phổ biến cho thấy các hành vi quan hệ tình dục xảy ra giữa nam và nữ thì nam giới là người giữ vị trí chủ động còn nữ giới là phái yếu nên không thể có khả năng chủ động thực hiện các hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm... Tuy nhiên, quan điểm phổ biến này đã không còn đúng và phù hợp về mặt thực tiễn. Bởi lẽ, nữ giới vẫn có khả năng lợi dụng các tình huống mà pháp luật quy định là tội phạm để thực hiện các hành vi dâm ô, cưỡng dâm, thậm chí là hiếp dâm đối với nam giới. Do đó, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, dù nam hay nữ vẫn là chủ thể của các tội hiếp dâm, dâm ô và cưỡng dâm để phù hợp với thực tiễn pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật thế giới. 1.1.2. Một số nội dung mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về các tội xâm phạm tình dục trẻ em 1.1.2.1. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142) 12
  20. - Về tình tiết định tội: Theo quy định của BLHS 2015 thì một trong những yếu tố bắt buộc để chứng minh một người phạm tội hiếp dâm trẻ em hoặc cưỡng dâm trẻ em là có hay không có việc thực hiện hành vi “giao cấu” với nạn nhân. Tuy nhiên, thế nào được coi là “giao cấu” thì trước đây chưa được giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Chỉ đến khi Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 - 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ thể hành vi này. Theo từ điển tiếng Việt thì khái niệm “giao cấu” được hiểu: “Giao cấu là việc giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái, ở động vật, để thụ tinh”. Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về tình dục số 329-HS ngày 15/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao có đề cập đến khái niệm “giao cấu”. Cụ thể “giao cấu là hành động chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”. Thực tiễn hiện nay thì các cách thức giao cấu khá đa dạng và đặc biệt xuất hiện tình trạng ép buộc hoặc cưỡng bức quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc với những người chuyển đổi giới tính. Do đó, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ra đời đã bổ sung thêm trường hợp nếu người phạm tội “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà không được sự đồng ý của nạn nhân” cũng bị coi là thực hiện các tội phạm này. Khái niệm này ra đời đã kịp thời phản ánh được những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục. Như vậy, hành vi “giao cấu” và “hành vi quan hệ tình dục khác” theo quy định tại BLHS năm 2015 vẫn có những cách hiểu khác nhau? Khái niệm giao cấu trước đây vẫn được hiểu như trong Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về tình dục số 329-HS ngày 15/5/1967 của Tòa án nhân 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2