intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề cơ bản của Luật Bảo hiểm hàng hải Anh Năm 1906 và việc áp dụng trong thực tiễn

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

25
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung nghiên cứu khát quát lịch sử hình thành và phát triển của ngành bảo hiểm hàng hải nói chung và Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 nói riêng. Sau đó tập trung nghiên cứu một cách tổng quát những nội dung chính của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề cơ bản của Luật Bảo hiểm hàng hải Anh Năm 1906 và việc áp dụng trong thực tiễn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM ANH TUẤN MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO HIỂM HÀNG HẢI ANH NĂM 1906 VÀ VIỆC ÁP DỤNG TRONG THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật Quốc Tế Mã số : 60.38.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.GVC HOÀNG NGỌC GIAO HÀ NỘI - 2007
  2. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 7 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ RA ĐỜI LUẬT BẢO HIỂM HÀNG HẢI ANH NĂM 1906 13 1.1. Sự ra đời của luật bảo hiểm hàng hải của Anh MIA 1906 13 1.1.1. Sơ lược về lịch sử ra đời của bảo hiểm hàng hải nói chung 13 1.1.2. Lịch sử ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh MIA- 1906 15 1.2. Những kết luận chung (General Conclusive Remarks). 19 1.3. Ý nghĩa của sự ra đời MIA-1906 22 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO HIỂM HÀNG HẢI ANH NĂM 1906 24 2.1. Một số học thuyết trong Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm (MIA–1906) 24 2.1.1 Học thuyết trung thực tuyệt đối (Utmost Goodfaith) 24 2.1.2 Học thuyết bảo hiểm lợi ích thực sự (hay còn gọi là quyền lợi 30 có thể bảo hiểm) (Insurable interest) 2.1.3 Học thuyết bồi thường (Indemnity) 36 2.1.4 Học thuyết thế quyền 36 2.1.5 Học thuyết bảo hiểm một rủi ro có thể xảy ra 37 37 2.1.6. H ọc thuyết hành trình hàng hải (marine adventure) 2.1.7. Học thuyết việc chuyển nhượng quyền lợi (assignment of interest) 38 3
  3. 2.2. Hợp đồng bảo hiểm hàng hải 39 2.2.1. Khái niệm và nội dung các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm 39 hàng hải 2.2.2. Hành trình (The voyage) 44 2.2.3. Quá trình thiết lập hợp đồng 47 2.2.4. Các loại hợp đồng bảo hiểm hàng hải 51 53 2.2.5. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm (Assignment of Policy) 54 2.2.6. Sự vô hiệu hợp đồng bảo hiểm 2.3. Tổn thất (loss) 55 2.3.1 Các nguyên tắc của quan hệ nhân quả trong xác định tổn thất 55 2.3.2. Những tổn thất được loại trừ (excluded losses) 57 2.3.3. Các loại tổn thất 57 2.3.4. Hạn mức bồi thường (Measure of Indemnity) 68 2.3.5.Điều khoản về tố tụng và hạn chế tổn thất (Sue and labouring clause) 70 2.3.6. Quyền thế quyền (Right of Subrogation) 72 2.4. Bảo hiểm trùng và sự đóng góp 73 2.4.1. Khái niệm bảo hiểm trùng (Double Insurance) 73 2.4.2. Quyền phân bổ (Right of contribution) 75 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT BẢO HIỂM 4
  4. HÀNG HẢI ANH NĂM 1906 76 3.1. Một số vấn đề cơ bản trong áp dụng Luật bảo hiểm hàng hải Anh 76 3.1.1. Quyền tài phán và việc lựa chọn áp dụng Luật bảo hiểm hàng 76 hải Anh năm 1906 3.1.2. Một số các văn bản Luật liên quan đến quá trình áp dụng Luật 77 bảo hiểm hàng hải của Anh 3.2. Một số án lệ áp dụng trong thực tế 81 3.2.1 Các trường hợp về hiểm họa của biển cả 81 3.2.2 Quyền lợi có thể bảo hiểm 81 3.2.3 Đối với việc vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt đối 83 3.2.4 Miễn thứ về thay đổi tuyến đường hay chậm trễ hành trình 85 3.2.4 Hợp đồng bảo hiểm 85 3.2.5 Tổn thất trong bảo hiểm hàng hải 87 3.3. Một số nội dung không còn phù hợp của MIA trong quá trình áp dụng 92 thực tế 3.4. Sự tương thích giữa Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 và Bộ luật 93 hàng hải Việt Nam năm 2005. 98 KẾT LUẬN 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 5
  5. Bảng danh mục các chữ viết tắt CIF Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí (Cost, Insurance and Freight) FOB Trách nhiệm khi giao hàng lên tàu (Free On Board) F.P.A Không bảo hiểm tổn thất bộ phận (free from particular average) MIA Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 (Marine Insurance (1906) Act) P.P.I Đơn bảo hiểm là bằng chứng về quyền lợi (policy proof of interest) BLHHVN Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 6
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay thị trường hàng hải Việt Nam đang rất phát triển, từng bước hội nhập của thị trường hàng hải quốc tế. Gắn liền với sự phát triển này là việc các Công ty hàng hải Việt Nam phải tham gia bảo hiểm P&I tại các Hiệp hội bảo hiểm tàu của Anh là một yêu cầu bắt buộc trong việc hoạt động hàng hải quốc tế. Thị trường bảo hiểm hàng hải Anh phát triển sớm nhất trong lịch sử. Bộ luật bảo hiểm hàng hải Anh ra đời năm 1906 tính đến nay đã tròn 100 năm với khá nhiều sự thay đổi của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của thương mại hàng hải và thị trường bảo hiểm hàng hải cũng có những bước tiến tương ứng. Mặc dù có một số quy định đã lỗi thời. Tuy nhiên các nguyên tắc của nó vẫn có những giá trị nhất định, là nền tảng cho việc vận hành của thị trường bảo hiểm hàng hải và khuôn mẫu cho việc xây dựng các bộ luật về bảo hiểm của các nước trên thế giới, điều này được chứng tỏ trong việc áp dụng Bộ luật vào thực tiễn xét xử, hiệu lực và sự tồn tại của các điều khoản MIA. Cho đến hiện nay bộ luật vẫn được áp dụng, chưa cần thiết đến mức phải sửa đổi. Các điều luật chủ yếu mang tính nguyên tắc và chuẩn mức cho việc giải quyết các tranh chấp, giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm, hạn mức bồi thường, các lợi ích của người được bảo hiểm... Chính vì vậy khi áp dụng bộ luật vào thực tiễn người ta rất chú trọng đến việc áp dụng các án lệ để xác định cụ thể việc áp dụng các điều luật. Bên cạnh đó luật cũng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, thể hiện ở một số điều khoản cho phép sự thỏa thuận của các bên có giá trị cao hơn Luật. Hiện nay việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải luôn tiềm ẩn những tranh chấp và những rủi ro mang tính thương mại quốc tế, đòi hỏi các quốc gia phải tiến tới những chuẩn mực chung khi áp dụng luật để giải quyết những tranh chấp thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải luôn có yếu tố nước ngoài. Trong khi đó, Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 luôn được coi là chuẩn mực cho việc giải quyết các tranh chấp trong bảo hiểm hàng hải và trong việc xây dựng 7
  7. các Luật bảo hiểm hàng hải của các nước trên thế giới. 2. Mục đích-nhiệm vụ-phạm vi nghiên cứu  Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu MIA là rất cần thiết trong quá trình hội nhập và gia nhập WTO của Việt Nam, tạo thuận lợi trong quá trình thông thương vì kênh vận chuyển hàng hải quốc tế vẫn là kênh chủ yếu trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro mà các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam phải gánh chịu, cũng như những thiệt hại về tàu là rất lớn bao gồm cả vật chất lẫn trách nhiệm dân sự của chủ tàu đòi hỏi phải có một khung pháp lý về bảo hiểm hàng hải hoàn thiện. Thị trường bảo hiểm hàng hải Việt Nam cũng phải tuân theo các quy tắc chung của thị trường bảo hiểm hàng hải quốc tế, mà hiện nay bộ luật hàng hải Việt Nam cũng còn nhiều bất cập, cũng nên xây dựng theo hướng tôn trọng các quy tắc thương mại quốc tế. Hiện nay cũng chưa có một đề tài khoa học nào nghiên cứu các quy định trong Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 và việc áp dụng trong thực tiễn. Bởi đặc thù của ngành hàng hải nói chung và ngành bảo hiểm hàng hải nói riêng có rất nhiều các trường hợp rủi ro dẫn đến tổn thất phức tạp và đa dạng. Nên trong việc áp dụng Luật bảo hiểm hàng hải của Anh có nhiều quy định gây cho người áp dụng lúng túng rất cần đến việc tìm hiểu các trường hợp áp dụng trong thực tiễn như các án lệ (case law), nhằm làm rõ hơn nội dung các những quy định trong Bộ luật. Chính vì vậy đề tài sẽ tập trung nghiên cứu cũngmột cách tương đối hoàn chỉnh bối cảnh ra đời của MIA, các nội dung quy định trong MIA và quá trình áp dụng thực tế.  Để đạt đƣợc những mục đích trên đòi hỏi đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu tổng quát về lịch sử ra đời của ngành bảo hiểm hàng hải trên thế giới nói chung và bối cảnh cũng như các nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 nói riêng. 8
  8. - Nghiên cứu các nội dung chủ yếu của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 bao gồm: Các khái niệm định nghĩa được sử dụng trong MIA năm 1906 như: bảo hiểm hàng hải, hợp đồng đánh cước, quyền lợi có thể bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, tổn thất, bảo hiểm trùng, đóng góp… Các nguyên tắc áp dụng và các nội dung chủ yếu được đề cập trong các điều khoản. - Nghiên cứu việc lựa chọn Luật áp dụng trong phạm vi Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 và một số văn bản pháp luật liên quan. Một số án lệ (caselaw) liên quan đến MIA năm 1906.  Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu khát quát lịch sử hình thành và phát triển của ngành bảo hiểm hàng hải nói chung và Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 nói riêng. Sau đó tập trung nghiên cứu một cách tổng quát những nội dung chính của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906. Bên cạnh đó cũng đi sâu vào những nội dung chủ yếu của Luật như: các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm hàng hải được thể hiện trong Luật, quyền lợi được bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, các cam kết, hành trình, tổn thất…Phần cuối cùng sẽ nghiên cứu một số trường hợp áp dụng trong thực tế của MIA để từ đó có thể hiểu chính xác các quy định thể hiện trong MIA và đánh giá phần nào hiệu lực áp dụng pháp luật của đạo luật này. 3. Nhận định về đề tài và phƣơng pháp thực hiện đề tài a. Nhận định đề tài “Một số vấn đề cơ bản của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 và việc áp dụng trong thực tiễn” là đề tài tuy không còn mới ở các nước phát triển Nhưng ở Việt Nam lại chưa có nhiều tài liệu và nghiên cứu mang tính tổng quát, mà chủ yếu chỉ được trích dẫn ở một số trường hợp. Các nội dung cơ bản của MIA mang tính lý luận và thực tiễn cao. Nội dung này là một nội dung đã được khái quát trong môn học Luật thương mại quốc tế - Chuyên ngành Luật quốc tế. Do vậy, việc đi sâu vào nội dung các quy định trong Luật bảo hiểm hàng hải Anh mang hiệu quả tốt trong cả lý luận và thực tiễn. 9
  9. Vì tìm hiểu được bản chất và sự vận hành của các quy định của MIA là rất cần thiết, để từ đó có thể vận dụng và giải thích các quy định đó trong từng trường hợp thực tế. Đồng thời đóng góp cho việc hoàn thiện các quy định của Việt Nam phù hợp với thông lệ tập quán thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Trong khi hiện nay các quy định trong đơn bảo hiểm của các Công ty bảo hiểm hàng hải thường tập trung vào các điều khoản. Còn các nguyên tắc giải quyết khi có tranh chấp xảy ra thường được quy định trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm hàng hải. Việc tìm hiểu các nguyên tắc này có giá trị rất lớn nhằm giảm bớt việc trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. b. Phƣơng pháp thực hiện đề tài (Phƣơng pháp đánh giá hiệu qủa pháp luật, phƣơng pháp dịch thuật) Do việc nghiên cứu MIA năm 1906 chưa có một công trình khoa học cũng như các tài liệu dịch thuật cũng không có hầu như chỉ trích lược một số điều khoản của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906. Nên đề tài luận văn sử dụng một số tài liệu nguyên bản bằng tiếng Anh của các nhà Luật học nước ngoài về bảo hiểm hàng hải. Trong quá trình nghiên cứu, nhiều khái niệm và cụm từ cũng như ý nghĩa của các từ và các cụm từ mang tính chuyên ngành trích dẫn tiếng Anh được tác giả Luận văn cố gắng dịch thuật với nghĩa sát nhất của tiếng Việt, để tạo nên sự giải thích cặn kẽ nhất, đồng thời cũng trích dẫn bằng tiếng Anh bên cạnh để người đọc tiện theo dõi. Hiệu quả pháp luật bao gồm: Hiệu quả trong công tác lập pháp, công tác hành pháp và công tác tư pháp. Thực chất của phương pháp này là tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành. Trong phạm vi hẹp bắt đầu từ quy định trong một đạo luật, quá trình áp dụng, mối quan hệ giữa đạo luật đó và các văn bản pháp luật có liên quan và thực tiễn xét xử, đặc biệt là kết quả thu được từ các hoạt động trên. Thước đo tính hiệu quả của pháp luật chính là việc vận hành, áp dụng một cách hệ thống nhất các văn bản pháp luật vào trong cuộc sống và sự phản ánh, hưởng ứng tích cực từ xã hội đối với các văn bản pháp luật đó. Nội dung của Luật bảo hiểm hàng hải 10
  10. Anh năm 1906 qua thời gian 100 năm có những nội dung nào được sử dụng có hiệu quả? Nội dung nào đã trở nên lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của thực tế, thậm chí cản trở sự phát triển của ngành bảo hiểm hàng hải Anh. Nghiên cứu cả mặt lý luận và thực tiễn để từ đó đánh giá, phân tích giúp ta đưa ra những nhận định, những kết luận xác thực, đúng đắn về hiệu quả của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 là rất cần thiết. Phương pháp đánh giá hiệu quả pháp luật giúp ta nhận biết, đánh giá được tính hữu hiệu hoặc sự hạn chế của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906, nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó… Trên cơ sở đó có thể đề xuất các giải pháp khắc phục nếu là sự hạn chế và tiếp tục phát huy nếu là tính hữu hiệu. Tính hiệu quả của pháp luật luôn là mục đích quan trọng nhất, là mục đích cuối cùng trong hoạt động xây dựng ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật. Để nhận biết pháp luật hiện hành có hiệu quả hay không đòi hỏi phải thường xuyên tiến hành đánh giá tính hiệu quả của pháp luật, trong quá trình nghiên cứu đề tài này việc sử dụng phương pháp đánh giá hiệu quả pháp luật làm phương tiện nghiên cứu là cần thiết. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý một điều là. Hiệu quả của pháp luật bất kỳ không bao giờ phụ thuộc tuyệt đối vào tính đúng đắn, tính thực thi của pháp luật đó mà nó còn bị chi phối bởi các yếu tố khác trong các quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực thương mại quốc tế như: sự phát triển của khoa học kỹ thuật dẫn đến sự thay đổi căn bản đối tượng được bảo hiểm trong hàng hải như tàu thuyền, hàng hóa, lợi ích được bảo hiểm, các quy tắc và tập quán trong bảo hiểm hàng hải, sự ra đời của các văn bản pháp luật khác, sự ra đời của các bản án mang tính hướng dẫn thậm chí xung đột với một số quy định của pháp luật do sự lỗi thời của một số quy định trong Luật… Vì vậy khi phân tích tính hiệu quả của pháp luật, cần thiết phải tính đến sự ảnh hưởng của các yếu tố nói trên, có vậy mới giúp ta đưa ra được những nhận định trung thực, chính xác. 4. Kết cấu nội dung của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba 11
  11. chương với kết cấu như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và ý nghĩa của sự ra đời luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 Chương 3: Thực tiễn áp dụng luật bảo hiểm hàng hải Anh 12
  12. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ RA ĐỜI LUẬT BẢO HIỂM HÀNG HẢI ANH NĂM 1906 1.1 Sự ra đời của luật bảo hiểm hàng hải của Anh MIA 1906 1.1.1 Sơ lƣợc về lịch sử ra đời của bảo hiểm hàng hải nói chung: Ngành thương mại hàng hải được coi là một trong những phương thức đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tạo sự thông thương hàng hóa giữa các châu lục. Nhưng tương ứng với mức lợi nhuận mang lại cũng như mức độ và số lượng rủi ro phải ứng phó. Các thương nhân, các chủ tàu và những nhà vận chuyển luôn tìm kiếm cho mình những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình. Những hình thức sơ khai của ngành bảo hiểm bắt đầu từ khá sớm. Khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, các thương nhân đã bắt đầu biết cách phân tán rủi ro, tổn thất nhằm giảm nhẹ mức độ thiệt hại kinh tế khi gặp rủi ro. Do thời kỳ này giao thông đi lại còn khó khăn gặp nhiều rủi ro như phương tiện vận chuyển thô sơ, cướp bóc, chiến tranh… nên việc thông thương gặp nhiều khó khăn và rủi ro. Điều này làm cho chi phí tăng khiến giá của hàng hóa bị cao lên nhiều lần do chi phí vận chuyển. Các thương nhân đã giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm nhiều chuyến hàng. Tuy nhiên sau đó để đối phó với những tổn thất nặng nề hơn trong xã hội lúc bấy giờ đã hình thành một nhóm những người thực hiện hình thức “cho vay mạo hiểm” (bottomry). Trong trường hợp xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được miễn không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại những thương nhân sẽ phải trả cho người này một lãi suất rất cao khi hàng hoá đến nơi được an toàn. Như vậy có thể hiểu lãi suất cao này là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra ngày càng nhiều làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng lâm vào tình thế nguy hiểm, thậm chí phá sản. Do số tiền thu được từ tiền lãi không đủ để bồi thường số hàng hóa bị tổn thất. Bởi hình thức 13
  13. này không quy định về các loại rủi ro họ phải gánh chịu tương ứng với mức phí và vì thế thay thế nó là hình thức bảo hiểm ra đời. Vào thế kỷ XIV, các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên đã xuất hiện ở vùng Floren, Genoa thuộc nước Ý. Hợp đồng bảo hiểm đó quy định một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản gọi là phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren [32]. Sau đó cùng với sự phát triển của ngành hàng hải nói chung là sự phát triển của ngành bảo hiểm hàng hải như việc phát hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ. Điều này giúp cho ngành hàng hải phát triển rất nhanh do nhu cầu tăng nhanh các tàu thuyền trên biển, việc thông thương diễn ra trên phạm vi rộng đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm chống lại các rủi ro và thiệt hại về kinh tế. Các văn bản pháp luật về bảo hiểm đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ XV ở Barcelona, Tây Ban Nha. Văn bản pháp luật đầu tiên này dưới dạng chiếu dụ của nhà vua nước này năm 1435. Tiếp sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam năm 1558. Ngoài ra năm 1563 còn có sắc lệnh của nhà vua Phần Lan liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hoá. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, hàng hóa cũng đa dạng được vận chuyển ở phạm vi rộng cả thế giới. Mở đường cho sự phát triển này là luật bảo hiểm năm 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth. Sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành , đó là những đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.[32] Đến thế kỷ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong buôn bán và hàng 14
  14. hải quốc tế với Luân Đôn là trung tâm phồn thịnh nhất. Tàu của các nước đi từ Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi đều về cập bến hai bờ sông Thame của thành phố Luân Đôn. Các tiệm cà phê là nơi gặp gỡ của các nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm … để giao dịch, trao đổi tin tức, bàn luận trực tiếp với nhau. Ông Edward Lloyds là một thuyền trưởng về hưu bắt đầu mở quán cà phê ở phố Great Tower ở Luân Đôn vào khoảng năm 1692. Các nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm thường đến đó để trao đổi các thông tin về các con tàu viễn dương, về hàng hóa chuyên chở trên tàu, về sự an toàn và tình hình tai nạn của các chuyến tàu… Ngoài việc quản lý quán cà phê, năm 1696 Edward Lloyds còn cho ra một tờ báo tổng hợp các tình hình tàu bè và các vấn đề khác nhằm cung cấp thông tin cho các khách hàng của ông. Tuy nhiên việc làm chính của ông vẫn là cung cấp địa điểm để khách hàng đến giao dịch bảo hiểm, hội họp. Sau khi Edward Lloyds qua đời người ta thấy rằng cần phải có một nơi tương tự như vậy để các nhà khai thác bảo hiểm hàng hải tập trung đến giao dịch bảo hiểm. Năm 1770, “Society of Lloyd‟s” với tư cách là một tổ chức tự nguyện đã thành lập và thu xếp một địa điểm ở Pope‟s Head Alley cho các thành viên của họ. Tổ chức này vẫn giữ những hoạt động truyền thống của Llords và sau đó ban hành nhiều quy định riêng của hội. Sau đó tổ chức này rời địa điểm đến trung tâm hối đoái của Hoàng gia và ở đó đến năm 1828 thì rời đến toà nhà riêng của họ tại phố Leaden Hall. Tổ chức này hoạt động với tư cách là tổ chức tư nhân. Đến năm 1871 tổ chức này hợp nhất lại theo luật Quốc hội và trở thành Hội đồng Lloyd‟s và sau này đã trở thành nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm và hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới. 1.1.2 Lịch sử ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh MIA- 1906: 1.1.2.1 Sự phát triển và cuộc cánh mạng của hệ thống luật bảo hiểm hàng hải: Ở Anh sau hơn 100 năm trước khi ban hành bộ luật bảo hiểm năm 1601, trước đó các quy định liên quan đến bảo hiểm hàng hải đều tuân theo một số dạng bảo hiểm 15
  15. khác yêu cầu cung cấp bảo hiểm cho tất cả các rủi ro trong bảo hiểm hàng hải. Những quy định này được thể hiện trong các đạo luật bảo hiểm hàng hải và các điều khoản do Hiệp hội bảo hiểm London ban hành. Có ba loại bảo hiểm chính: hàng hóa, tàu và cước phí…Và sau này được hiệp hội bảo hiểm London thể hiện trong các điều khoản bảo hiểm hàng hóa bảo hiểm mọi rủi ro và với những một số rủi ro riêng. Ngoài ra còn có bảo hiểm thân tàu và máy móc, bảo hiểm theo chuyến hoặc theo thời gian, bảo hiểm hàng hải trừ rủi ro chiến tranh và bạo động... Văn bản pháp luật đầu tiên trong hệ thống pháp luật về bảo hiểm hàng hải của Anh thể hiện sự cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải là Luật bảo hiểm hàng hải năm 1745. Luật này đã phá vỡ những thói quen lạc hậu trước đó, và pháp điển hóa một số tập quán, án lệ thành luật. Ví dụ để hạn chế việc trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm Luật đã quy định cấm việc đưa ra các hợp đồng bảo hiểm hàng hải bảo hiểm đối tượng mà người được bảo hiểm không có lợi ích (the assured had no interest). Đây là nỗ lực cho việc chấm dứt thói quen cá cước được che dấu bằng hợp đồng bảo hiểm hàng hải của những người không có lợi ích đối với tàu hoặc hàng hóa được bảo hiểm. Luật bảo hiểm năm 1745 đòi hỏi đem lại (procuring) hợp đồng bảo hiểm hàng hải có lợi ích đối với đối tượng được bảo hiểm, và nó tương tự với quy định bảo hiểm phải căn cứ trên “đơn bảo hiểm là bằng chứng của lợi ích” – PPI - “policy proof of interest”. Quy định này cuối cùng đã bị hủy bỏ bởi Luật bảo hiểm hàng hải 1906, mặc dù trong nhưng quy định của các đạo luật trước đó đều công nhận việc các hợp đồng bảo hiểm có thể không có lợi ích („no interest‟ policies) trái ngược với quy định ban hành trong Điều 4 MIA 1906 Act. Tiếp theo là đạo luật về bảo hiểm hàng hải năm 1788 thừa nhận tất cả hợp đồng bảo hiểm phải để trống (in blank), điều này bị coi là vô hiệu trong quy định của Luật sửa đổi năm 1795, yêu cầu tất cả các hợp đồng bảo hiểm hàng hải phải bằng văn bản và được đóng dấu. In 1894 Dự thảo Luật bảo hiểm hàng hải (Codification Bill) được đưa ra thảo luận tại Nghị viện Anh (House of Lords), do thượng nghị sĩ Herschell, nó chứa 16
  16. đựng một sự thay đổi một cách nhẹ nhàng slightly altered – là nền tảng sau này cho MIA 1906, là văn bản có tên „Một đạo luật soạn thảo về Luật liên quan đến Luật (An Act to Codify the Law Relating to Marine Insurance‟. Hợp đồng bảo hiểm đánh cược đã được định nghĩa tại Điều 4 MIA. Như vậy là các hợp đồng bảo hiểm “không cần bằng chứng về quyền lợi có thể bảo hiểm” cũng bị vô hiệu như hợp đồng không có quyền lợi có thể bảo hiểm. Những quy định đầu tiên của của các đạo luật bảo hiểm hàng hải trước đó được áp dụng cho thị trường bảo hiểm hàng hải tại Anh. Sau này đã được các tòa án sử dụng để phát triển các nguyên tắc của luật bảo hiểm hàng hải được thể hiện rõ ràng nhất trong Luật bảo hiểm hàng hải 1906 (MIA 1906). MIA năm 1906 được ban hành chủ yếu dựa trên phán quyết của tòa án trong vòng 200 năm qua và cho đến ngày nay vẫn được áp dụng một cách rộng rãi. MIA ra đời được đánh giá là có nhiều điểm khá táo bạo “presumptuous” và mang tính ràng buộc (binding), có hiệu lực đối với các bên khi các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận khác. Hơn nữa, các hợp đồng bảo hiểm hàng hải của các nhà bảo hiểm Anh còn được khống chế bởi các điều khoản hàng hải mẫu (Standard Marine Clauses) sẽ hạn chế hơn ảnh hưởng độc quyền của MIA do Hiệp hội bảo hiểm London ban hành. Thêm vào đó, nhiều quyết định sau Luật (post- Act decisions) như pháp quyết của tòa án đã giúp cho việc giải thích MIA được rõ ràng hơn. Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 cũng thông qua việc sử dụng mẫu hợp đồng the Lloyd‟s S.G. (Ship and Goods)Form of Policy, mà trước đây đã thông qua bởi Hiệp hội Lloyd‟s năm 1779. Hiệp hội các nhà bảo hiểm London (The Institute of London Underwriters) đã soạn thảo những điều khoản gắn với hợp đồng, để điều chỉnh những vấn đề không mang lại hiệu quả trong mẫu the SG Policy đã trở nên lỗi thời. Các điều khoản bảo hiểm hàng hải (A), (B), (C)năm 1982,1983 là kết quả của việc hủy bỏ và thay thế mẫu hợp đồng SG Policy bằng các điều khoản đơn giản hơn theo giấy bảo hiểm của các điều khoản bảo hiểm của Hội. Những điều khoản bảo hiểm của Hội 17
  17. (The Institute Clauses) đã xem xét lại (revised) nhiều lần, cuối cùng được ban hành vào tháng 11 năm 2003. Điều 4 MIA 1906 sau đó được bổ sung bằng việc ban hành, Luật bảo hiểm hàng hải năm 1909 (đối với những hợp đồng mang tính cá cược). Đạo luật này đã quy định mang tính bắt buộc những trách nhiệm hình sự đối với các bên trong hợp đồng bảo hiểm hàng hải nếu như các hợp đồng đó mang tính cá cược hoặc cờ bạc đối với những rủi ro hàng hải. 1.1.2.2 Những nhân tố làm phát sinh Luật bảo hiểm hàng hải 1906 Những nguồn và căn cứ đằng sau việc (the sources and policy reasons behind) ban hành Luật bảo hiểm hàng hải 1906 có thể chỉ còn dấu vết nếu xem xét cẩn thận những cuộc tranh luận tại nghị viện để thông qua đạo luật này. Trong lần dự thảo thứ hai, bá tước Halsbury đánh giá đạo luật có vai trò cưc kỳ quan trọng và ảnh hưởng lớn đến thương mại nói chung và vận chuyển hàng hải nói riêng. Tương tự, Tổng luật sư thời bấy giờ - Ông Smith.G đã chỉ ra việc soạn thảo đạo luật sẽ tạo ra một sự thuận lợi lớn cho cộng đồng thương mại, mang tính toàn diện và dễ hiểu đối với những người chuyên kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. MIA đã đứng vững vào thời gian đó và cho đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi. MIA đã tổng hợp các vụ kiệ, án lệ trước đó và kết quả là, nó không phải luôn luôn dễ hiểu bởi một người bình thường. Ngoài ra trước yêu cầu nảy sinh cần phải có những quy định mang tính hệ thống để cộng đồng thương mại biết được chính xác mình phải làm gì và được phép làm gì?. MIA là một đạo luật đáp ứng theo yêu cầu Cộng đồng thương mại hàng hải đực biệt là Hiệp hội các nhà bảo hiểm London. Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 lúc đó đã được thông qua như một biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Rõ ràng rằng việc thông qua và ban hành Luật bảo hiểm hàng hải năm 1906 là một nhu cầu cấp thiết, giải quyết các tranh chấp nảy sinh ngày càng phức tạp trong Cộng đồng thương mại hàng hải – hành trình hàng hải liên quan mật thiết đến công việc kinh doanh của họ. Trong khi hệ thống án lệ đã trở nên phức tạp và quá nhiều để có thể vận dụng giải quyết tranh chấp, trong khi lại chưa có một khung pháp 18
  18. luật đơn giản và điều chỉnh hiệu quả (ineffectively legally framed) lĩnh vực bảo hiểm hàng hải nhằm đảm bảo quyền lợi của cả người bảo hiểm lẫn người được bảo hiểm. Nhu cầu thương mại, thói quen và tập quán cũng đặt ra nhu cầu tạo ra những quy định luật lệ bảo hiểm hàng hải mang tính cụ thể. Cộng đồng thương mại cần thiết sự bảo hiểm và đảm nhận những rủi ro nhằm giảm bớt thiệt hại và những điều này được pháp luật bảo vệ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ thịnh vượng của những hợp đồng cá cược và đánh bạc trong thời kỳ này cũng làm tăng nhanh nhu cầu được bảo vệ về mặt pháp lý. Hành vi này theo Luật sẽ bị trừng phạt và dẫn đến hợp đồng đó vi phạm pháp luật và bị tuyên vô hiệu. Ngoài ra MIA cũng giúp giải quyết những trường hợp cụ thể được coi là phức tạp và đa dạng không phải dễ dàng sử dụng án lệ để đối chiếu giải quyết các tranh chấp xảy ra trong hoạt động bảo hiểm hàng hải. Như thế nào là vi phạm nguyên tắc trung thực và cách thức giải quyết, giá trị và hạn mức bồi thường, cũng như các vấn đề thế quyền đặt ra yêu cầu cấp thiết phải ban hành Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906. 1.2 Những kết luận chung (General Conclusive Remarks). Ở Anh, Luật bảo hiểm hàng hải MIA 1906 được xem là soạn thảo chủ yếu căn cứ theo các án lệ thời bấy giờ (existing cases). Ngày nay, theo đánh giá của một số người Luật bảo hiểm hàng hải Anh đã lạc hậu. Tuy nhiên, có thể thấy trên thực tế Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 đã được các Tòa án, các Hiệp hội bảo hiểm và các bên trong quan hệ bảo hiểm hàng hải mở rộng để điều chỉnh nhiều vấn đề phức tạp và đa dạng của họat động bảo hiểm hàng hải, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong bảo hiểm hàng hải quốc tế hiện đại. Ngoài ra, MIA đã kết hợp với các điều khoản của Hội để làm cho sự điều chỉnh của luật được tốt hơn. Có nhiều ý kiến ủng hộ việc hủy bỏ Luật bảo hiểm hàng hải Anh MIA 1906 và thiết lập một bộ Luật mới. Sự soạn thảo luật mới không phải là nhiệm vụ dễ dàng và việc xem xét thực tế những gì MIA 1906 đã đạt được thật rõ ràng. Thời điểm hiện nay để ban hành một đạo luật mới và áp dụng trong thực tiễn đã được nhiều 19
  19. luật gia chuyên ngành bảo hiểm đưa ra ý kiến không có gì đảm bảo bộ luật mời sẽ hoàn tòan làm lu mờ luật cũ không chắc chắn xảy ra. Kết luận rằng quy định mới sẽ hoàn hảo là không thể đạt được và sẽ không khôn ngoan khi chỉ đơn giản hủy bỏ MIA 1906 và thay thế nó bằng đạo luật khác mà có thể có những khía cạnh không thể hoàn hảo được. Hơn nữa, sự vận hành thực tế của MIA đã chứng minh sự giải quyết thỏa đáng các vấn đề cụ thể của thị trường và thực tế cũng chứng minh rằng tòa án đã đóng một vai trò chủ yếu trong các vấn đề không quy định rõ ràng trong MIA. Một điểm đặc biệt nữa, vai trò của tòa án rất quan trọng và chủ yếu để MIA trở nên dễ hiểu và có thể áp dụng đúng. Về cơ bản, tòa án đã có nỗ lực trong việc phát triển và áp dụng lại những nguyên tắc cơ bản trong luật đối với các trường hợp không được quy định bằng việc áp dụng luật theo một cách linh hoạt và mềm dẻo phản ánh được những xu hướng của thị trường. Tòa án cũng thường xuyên viện dẫn (resorted) đến luật công để diễn giải ý nghĩa của các quy định trong sự thay đổi thường xuyên của các thuật ngữ sử dụng trong thị trường trong việc áp dụng MIA và Institute Clauses và còn mang lại cho các quy định này những cách hiểu đầy sáng tạo. Tòa án Anh đã nỗ lực trong việc sử dụng các nguyên tắc của tòa để đem lại những kết quả mang tính linh hoạt đáp ứng được sự hiện đại hóa luật bảo hiểm hàng hải. Cho đến năm 1745 ở Anh, pháp luật vẫn chưa có quy định ràng buộc người được bảo hiểm phải có hành trình hàng hải được bảo hiểm. Các hợp đồng bảo hiểm hàng hải mang tính chất là hợp đồng đánh cước sự an toàn của tài sản được bảo hiểm và người được bảo hiểm thắng cước nếu tàu biển bị chìm. Các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải chủ yếu dựa vào các quyết định giải quyết của Tòa án trước đó. Do tính phức tạp của hệ thống án lệ cũng như tính đa dạng của rủi ro trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải đã tạo nên khó khăn và kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp về bảo hiểm hàng hải. Điều này đòi hỏi có một đạo luật mới là sự tập hợp đầy đủ các khái niệm và nguyên tắc chủ đạo , cũng như cách thức giải quyết tranh chấp, các trường hợp miễn trách nhiệm, hạn mức bồi thường… nhằm điều chỉnh những vấn đề 20
  20. phát sinh như để cập ở trên, đảm bảo cho quyền lợi của các bên. Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 đã ra đời và đáp ứng được những nhu cầu trên. 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2