intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

49
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và vô ý trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN GIANG Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ c¸c dÊu hiÖu cña lçi cè ý vµ v« ý theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN GIANG Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ c¸c dÊu hiÖu cña lçi cè ý vµ v« ý theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Xuân Giang
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục biểu đồ MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............7 1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi trong luật hình sự Việt Nam.......... 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam ................................................... 15 1.2.1. Lỗi cố ý phạm tội ............................................................................. 16 1.2.2. Lỗi vô ý phạm tội............................................................................. 20 1.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam .................................................................... 25 1.3.1. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ trước khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa .............. 25 1.3.2. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985................... 28 1.3.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ... 31 1.3.4. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 ....................................................... 36 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................. 38 2.1. Một số vấn đề thực tiễn liên quan dến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam ............................ 38
  5. 2.2. Thực tiễn định tội danh liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam ............................ 52 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam ............... 59 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 65 3.1. Phương hướng hoàn thiện dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam .................................................................... 65 3.1.1. Hoàn thiện khái niệm lỗi, lỗi cố ý, lỗi vô ý ...................................... 65 3.1.2. Hoàn thiện quy định về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm ................................................................................. 71 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Luật hình sự Việt Nam ........................................... 75 3.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng hình sự .................................................................. 75 3.2.2. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý ............................................ 83 3.2.3. Tăng cường trao đổi, nghiên cứu pháp luật nước ngoài về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự ....................................... 89 KẾT LUẬN ................................................................................................. 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 94
  6. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 3.1: Mô tả tỉ lệ số cấu thành tội phạm có quy định trong nội dung dấu hiệu lỗi cố ý phạm tội, lỗi vô ý phạm tội và không quy định dấu hiệu lỗi 71
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lỗi là một vấn đề phức tạp và quan trọng được nhiều ngành luật quan tâm nghiên cứu. Trong luật hình sự Việt Nam, chế định lỗi có vị trí vô cùng đặc biệt, thể hiện trong nguyên tắc có lỗi – một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Lỗi cho phép xác định rằng, tội phạm không chỉ là kết quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội - biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan mà còn là sự nhận thức, là hệ quả của thái độ tâm lý của chủ thể - biểu hiện bên trong. Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không chỉ đơn thuần là người đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Với nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc “truy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ dựa trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Nguyên tắc có lỗi xuất phát từ chính chức năng giáo dục của luật hình sự. Luật hình sự đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội, chủ yếu để giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình, cải tạo và sớm trở hành người lương thiện, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng xã hội. Đó cũng chính là mục đích quan trọng của hình phạt. Chức năng giáo dục không thể thực hiện được khi truy cứu trách nhiệm hình sự của một người mà họ không có lỗi vì như vậy cũng trái với nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Theo đó, lỗi được ghi nhận ngay tại khái niệm tội phạm tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999. Đồng thời trong đó, Điều 9 và Điều 10 đã xác định và phân biệt hai hình thức lỗi là cố ý phạm tội và vô ý phạm tội. Cố ý phạm tội gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Vô ý phạm tội gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Mỗi tội phạm chỉ được thực hiện bằng hình thức lỗi hoặc cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên, trên thực tế, 1
  8. liên quan đến nội dung này, còn có trường hợp nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, chưa thống nhất về lý luận, dẫn tới hạn chế trong hoạt động thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học. Đây là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý đều được nghiên cứu về mặt lý luận trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật. Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu về lỗi cố ý và lỗi vô ý ở những khía cạnh khác nhau, cụ thể: Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội; Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, Quyển I: “Những vấn đề chung”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân; Lê Thị Thu Thủy (2003), Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Lan Anh (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Nhuần (2001), Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, dấu hiệu lỗi cố ý và vô ý cũng được nghiên cứu trong các bài báo, tạp chí như: Nguyễn Ngọc Hòa, Đánh giá mức độ lỗi ở các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, Tạp chí Luật học, số 1/1996; Lê Cảm, Hoàn thiện chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lý 2
  9. luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/1998; Đào Trí Úc, Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá nhận và về lỗi trong việc xử lý trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/1999; Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lỗi trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/1999; Nguyễn Văn Trượng,Xác định lỗi của người phạm tội trong tình trạng say rượu, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2001; Nguyễn Văn Hương, Lỗi cố ý gián tiếp và tội phạm có cấu thành hình thức, Tạp chí Luật học, số 4/2002; Nguyễn Thị Thu Hồng, Trao đổi về việc xác định lỗi trong các vụ án tai nạn giao thông, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005; Đỗ Đức Hồng Hà, Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18/2005; Lê Văn Luật, Áp dụng nguyên tắc lỗi trong các tội “Vi phạm an toàn giao thông”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2006; Đinh Thế Hưng, Yếu tố lỗi trong dấu hiệu định khung hình phạt gây thương tích và hành hung để tẩu thoát trong một số tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2006; Đỗ Văn Chỉnh, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phản ánh cách thức thực hiện tội phạm và mức độ lỗi của người phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2009; Lê Văn Luật, Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2011; Hoàng Quảng Lực, Bàn về nhận thức Yếu tố lỗi trong xét xử án hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2012; Văn Thị Hồng Nhung, Xác định lỗi như thế nào để xét xử cho đúng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2013; Lê Văn Luật, Bàn về một số nội dung khái niệm lỗi hình sự trong Bộ luật hình sự hiện hành áp dụng trong công tác xét xử, Tạp chí Nghề Luật. Khi nghiên cứu tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự (Phần riêng – 3
  10. Phần các tội phạm), các tác giả đều có sự nhận thức về dấu hiệu lỗi – cố ý hay vô ý. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc về lỗi cố ý và vô ý dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Do đó cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu toàn diện, hệ thống về vấn đề này để xây dựng thống nhất lý luận về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý, góp phần thiết thực trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Luật Hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và vô ý trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Về mặt lý luận, trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tác giả làm sáng tỏ về khái niệm lỗi, các đặc điểm của lỗi cố ý và lỗi vô ý, sự hình thành và phát triển dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn, đánh giá việc áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong việc định tội danh, và quyết định hình phạt. Từ đó kiến nghị các phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ 4
  11. Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, kết hợp với tri thức của các ngành khoa học khác như luật học, tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học, như: Phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích, thống kê… để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Trong luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách cụ thể, khoa học và có hệ thống những vấn đề và thực tiễn về lỗi cố ý và vô ý theo quy định của luật hình sự Việt Nam. Cụ thể: 1) Phân tích những vấn đề lý luận về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của luật hình sự Việt Nam như: khái niệm lỗi, cơ sở lý luận của lỗi; khái niệm, đặc điểm của lỗi cố ý và lỗi vô ý; quá trình hình thành và phát triển của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta. 2) Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan xét xử liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý về định tội danh, quyết định hình phạt trong giai đoạn hiện nay. 3) Đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu cụ thể, thống nhất, đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra, luận văn đã xác định đúng đắn những vấn đề về lỗi cố ý và vô ý trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử. Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn, sinh viên, học viên cao học cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn nghiên cứu, áp dụng pháp luật hình sự. 5
  12. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi trong luật hình sự Việt Nam Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [11, Điều 8]. Như vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng được thể hiện trong khái niệm tội phạm đó là “nguyên tắc có lỗi”. Đây là nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt Nam. Hay nói cách khác, người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này đã có hành vi khách quan gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Nguyên tắc này cũng khẳng định, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc “quy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ dựa trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Nguyên tắc có lỗi thể hiện chính sách hình sự tiến bộ, đúng đắn, thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người, là cơ sở đảm bảo cho vấn đề trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện được mục đích của 7
  14. hình phạt quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999: “… không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới” [11, Điều 27]. Hiện nay, đề cập đến khái niệm lỗi, có nhiều cách diễn đạt khác nhau: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [15]. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Theo đó, lỗi trong luật hình sự, trước hết được hiểu là quan hệ giữa người phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội đã được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là sự gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Cũng như quan hệ giữa khách quan và chủ quan, sự phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập không cần có sự phủ định chủ quan nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ định khách quan [15]. Điều này khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa lỗi – dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm với hành vi khách quan của tội phạm – dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm. Chỉ có thể nói đến hành vi khách quan – hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi hành vi đó đi liền với lỗi, và ngược lại, không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Hay nói cách khác, lỗi được đề cập với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội phạm là lỗi của cá nhân, lỗi của một con người cụ thể khi người đó thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội. 8
  15. Hay: Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái độ tâm lý của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy gây nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [4, tr.422]. Lỗi là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội. Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu họ đã lựa chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội [7, tr.87-88]. Như vậy, dù dưới góc độ nào thì lỗi cũng là điều kiện quan trọng để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự của một cá nhân về hành vi gây thiệt hại cho xã hội của họ. Tại sao lại như vậy? Trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ? Bởi vì, con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình xuất phát từ thực tế, hành vi của con người có tính tất yếu đồng thời có tính tự do. Tính tất yếu của hành vi con người thể hiện ờ chỗ hành vi được hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những điều kiện xã hội mà được hình thành một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động giữa những điều kiện xã hội và con người. Tuy vậy, xử sự của con người không phải có tính tất yếu tuyệt đối. Chủ nghĩa Mác – Lênin tuy thừa nhận tính tất yếu, thừa nhận tính quy định trước trong xử sự của con người nhưng dựa trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa tự do và tất yếu, giữa quy luật và hoạt động của con người, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng không phủ nhận tự do ý chí của con người. Mọi xử sự của con người đều chịu sự chi phối của quy luật khách quan nhưng con người nhờ hoạt động ý thức có khả năng nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật thực hiện mục đích của mình. 9
  16. Đó là tự do của con người. Quan điểm này không những bác bỏ thuyết định mệnh cho rằng quy luật là tuyệt đối, con người chỉ là công cụ của hoàn cảnh mà còn bác bỏ cả thuyết duy ý chí đã dề cao ý chí của con người giữ vai trò quyết định, phủ nhận quy luật và tính tất yếu. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định xử sự của con người có tính quy định trước nhưng đối với chính xử sự của mình con người vẫn có tự do, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với những quy luật tự nhiên và xã hội đã nhận thức được. Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của điều kiện kinh tế, xã hội nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng điều kiện kinh tế, xã hội vì “mọi sự tác động của một hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động”. Các nguyên nhân bên ngoài tác động đến con người không phải một cách máy móc mà phải thông qua sự suy xét (lí trí) và sự quyết định (ý chí) của họ. Để thỏa mãn bất kỳ nhu cầu nào trong đời sống cũng đều có nhiều biện pháp giải quyết và việc lựa chọn biện pháp nào là kết quả của hoạt động lí trí và ý chí. Chính vì vậy, trong những điều kiện khách quan giống nhau, mỗi người có thể lựa chọn biện pháp xử sự khác nhau. Con người khi đã có quyền lựa chọn là có tự do. Tự do ý chí là khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn và thực hiện biện pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Người đã lựa chọn biện pháp xử sự trái pháp luật khi có thể xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội thì phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Tự do ý chí là cơ sở để lên án người có hành vi trái pháp luật. Có nghĩa là, tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho con người khi họ có tự do. Người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ là người có lỗi. Do đó, trách nhiệm chỉ đặt ra cho người có lỗi [15, tr.129-131]. Có thể thấy rằng, luật hình sự với tư cách là một trong những ngành luật cơ bản nhất xuất hiện nay ngay từ thời cổ đại - mặc dù thời kỳ này, chưa được xác định với tính chất là ngành khoa học như hiện nay. Theo đó, triết 10
  17. học đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của khoa học luật hình sự nói chung và chế định lỗi nói riêng. Vì vậy, các trường phái tồn tại trong lịch sử triết học cũng đóng vai trò nhất định đối với khoa học luật hình sự hiện đại. Cụ thể: Về mặt thần học trong khoa học luật hình sự Đức ngay từ những năm 70 của thế kỷ XVII, thì người đã thực hiện tội phạm có dự mưu phải chịu trách nhiệm về tội ác của mình (Pufendort). Trong thời kỳ khai sáng, khoảng thế kỷ thứ XVIII, nhà luật học Cesare Beccaria đã nêu quan điểm pháp lý hình sự có liên quan ở một mức độ nhất định đến cơ sở phương pháp luận của lỗi là: 1) Vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt không thể gắn liền với sự khái niệm lỗi về mặt đạo đức và không thể thước đo duy nhất và đích thực của tội phạm là sự thiệt hại; 2) Hình phạt cần được áp dụng chỉ khi nào có sự cần thiết tuyệt đối chứ không phải là sự chịu trách nhiệm vì lỗi. Theo quan điểm triết học duy tâm – chủ quan của nhà triết học nổi tiếng người Đức Kant I. thì: 1) Tự do ý chí là ở chỗ - trong tất cả các hành vi của chủ thể chính nó là pháp luật; 2) Sự buộc tội và hình sự là một dạng của trách nhiệm đạo đức, mà cơ sở của nó coi chủ thể là nguyên nhân tự do của một hành vi được thực hiện. Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen thì: 1) Sự hiện diện của ý chí và lí trí chính là điều kiện chung của sự buộc tội; 2) Lỗi là ở trong sự khẳng định rằng, chủ thể là người biết suy nghĩa đã nhận thức và đã mong muốn…. [4, tr.419-421]. Ông đã từng khẳng định: “Tự do là nhận thức được cái tất yếu, tất yếu sẽ mù quáng khi con người chưa nhận thức được nó” [9, tr.192]. Bên cạnh đó, những đại diện xuất sắc của trường phái triết học duy tâm đã xây dựng thành hệ thống lý luận các nguyên tắc, chế định… trong đó đã đề cập đến nguyên tắc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự. Trường phái này cho rằng, cần phân biệt ý định độc ác (cố ý) với sự không thận trọng (vô ý) như là hai hình thức lỗi chủ yếu. Bên cạnh đó, những người đại diện cho trường phái cổ điển trong khoa học luật hình sự thì lỗi và 11
  18. trách nhiệm hoàn toàn dựa trên ý chí tự do tuyệt đối của con người, mà người này trong những điều kiện hoàn toàn như nhau có thể lựa chọn bất kỳ quyết định nào không trái với mình. Đặc biệt là Bernher A. – nhà hình sự học người Đức thuộc trường phái này đã coi cơ sở của việc buộc tội về hình sự là ý chí hoặc tự do của con người, được thể hiện trong sự hành động tùy tiện của cá nhận và phù hợp với động cơ, quyết tâm và ý định bên trong của người đó. Còn nhà hình sự học người Đức nổi tiếng Phơbách A. trong thời kỳ đầu đã coi là sự buộc tội không phụ thuộc vào tự do ý chí, nhưng sau đó đã thay đổi quan điểm và thừa nhận tự do ý chí là điều kiện của sự buộc tội do lỗi. Những nhà nghiên cứu thuộc trường phái xã hội học trong khoa học luật hình sự cho rằng: 1) Lỗi của chủ thể được coi là tình trạng nguy hiểm của người đó; 2) Ba phạm trù (lỗi, tình trạng năng lực, và tình trạng không có năng lực) chính là các tiêu chí của tính nguy hiểm cho xã hội của một hành vi… Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời, khẳng định tội phạm với tư cách là một phạm trù lịch sử, một hiện tượng xã hội. Tội phạm chỉ xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn gay gắt làm nảy sinh đấu tranh giai cấp. Theo đó, con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Khi con người lựa chọn một hành vi phù hợp với những chuẩn mực của xã hội để đạt được mục đích, thỏa mãn nhu cầu của mình thì đó là hành vi hợp pháp. Ngược lại, nếu trong quá trình thực hiện hành vi, con người lại lựa chọn hành vi sai lệch với các chuẩn mực xã hội, trái pháp luật thì hành vi đó là bất hợp pháp, và tất nhiên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Hoạt động của con người bị chi phối bởi các quy luật khách quan nhưng nhờ hoạt động có ý thức, con người nhận thức và áp dụng các quy luật đó để thực hiện mục đích của mình. Mặt khác, con người là thực thể sinh vật với bộ óc thông minh và hoàn thiện nhất, do đó, tất cả những gì tác động đến con người, thúc đẩy hành vi của con người đều phải thông qua bộ óc. Hoạt 12
  19. động của con người không chỉ là kết quả tác động trực tiếp của các điều kiện lịch sử mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tâm lý. Theo đó, tự do tồn tại khi con người có quyền lựa chọn một xử sự phù hợp với các quy luật. Ngược lại, con người sẽ bị tước bỏ sự tự do khi họ xử sự không phù hợp với quy luật. Xử sự của con người mang tính quy luật nhưng không có nghĩa là mang tính tuyệt đối. Khi sống trong cùng một xã hội, có người thực hiện tốt các trách nhiệm của một thành viên trong xã hội, cũng có người phạm tội, có người không phạm tội, có người thực hiện tội phạm lần đầu, cũng có người thực hiện tội phạm nhiều lần… Đó cũng chính là tự do của con người. Sự tự do của con người phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể cũng như bản chất của chế độ xã hội. Vì vậy, con người tồn tại trong xã hội phải dựa trên cơ sở sự tự do của mình, đáp ứng những đòi hỏi có tính quy luật của xã hội – chính là pháp luật và đạo đức xã hội. Đây cũng chính là vấn đề trách nhiệm của cá nhân trong xã hội, phù hợp với sự tự do của cá nhân, qua đó nhằm bảo đảm sự tự do của cá nhân khác. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu con người với hai vai trò chính: một là, sản phẩm của tự nhiên; hai là, bộ phận của những quan hệ xã hội không thể tách rời khỏi xã hội. Các Mác cũng chỉ ra rằng: Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng sẵn có mà bản chất của con người được thể hiện thông qua các mối quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, bản chất của con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thể sinh vật có ý thức, thông qua nhận thức của mình, con người tiếp nhận các vật xung quanh tạo nên mối quan hệ đối với xung quanh và qua đó xác định hành vi của mình. Chính vì thế, khi xác định một hành vi là tội phạm, cần thiết phải xem xét trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi, tức là trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi. Đây cũng chính là cơ sở khoa học của nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự Việt Nam dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin. 13
  20. Dưới góc độ tâm lý học, yếu tố lỗi được đề cập khi nghiên cứu về cấu trúc tâm lý bên trong của hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội là trường hợp cá biệt của hành vi con người, theo đó cũng là hành vi có ý thức – thể hiện sự nhận thức và ý chí của chủ thể. Ý chí của hoạt động tâm lý con người luôn luôn được xuất phát từ nhận thức, con người quyết định hành động trên cơ sở đó. Một cá nhân ngay từ khi mới sinh ra, rõ ràng chưa xuất hiện tâm lý phạm tội, tuy nhiên qua quá trình trưởng thành, hình thành nhân cách, với sự mở rộng tầm nhìn (có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực), trong những tình huống cụ thể, do nhận thức hạn chế, cũng có khi không hiểu hết bản chất của vấn đề, chủ thể không tự kiềm chế trước tình huống, dẫn tới những hành động trái với các chuẩn mực, khi mà chính chủ thể không tính đến hậu quả do mình gây ra đối với xã hội. Theo đó, quá trình hình thành nhân cách – những phẩm chất mang tính đặc trưng của mỗi cá nhân, được thể hiện ra bên ngoài thông qua những hành vi cụ thể và nó được bộc lộ một cách đầy đủ nhất ở những thời điểm và trong những hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi chủ thể phải thể hiện khả năng ứng xử và quyết định lựa chọn phương thức hành động của mình, có ảnh hưởng quan trọng đến việc quyết định lựa chọn hành vi, xử sự của cá nhân. Sự phát triển của nhân cách, của năng lực hành vi hay năng lực ứng xử của chủ thể là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển tư duy. Trong quá trình hình thành nhân cách, những cá nhân sinh sống trong những môi trường tiêu cực có thể hình thành khuynh hướng chống đối xã hội, tuy nhiên không phải mọi trường hợp có khuynh hướng chống đối xã hội là sẽ thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại. Điều đó thể hiện sự tương tác qua lại giữa các yếu tố thuộc về cá nhân với các yếu tố thuộc về môi trường trong từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Nghiên cứu lỗi dưới góc độ tâm lý là một vấn đề không đơn giản. Đặc biệt với những tình huống thực tế đa dạng bởi vì khi đánh giá thái độ chủ quan của cá nhân, 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2