intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

18
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về mặt khách quan của tội phạm và thực tiễn áp dụng các nội dung này của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là tòa án trong việc định tội danh và quyết định hình phạt trong thời gian qua.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG NAM KHÁNH Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ mÆt kh¸ch quan cña téi ph¹m trong luËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG NAM KHÁNH Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ mÆt kh¸ch quan cña téi ph¹m trong luËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Nam Khánh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẶT KHÁCH QUAN VÀ DẤU HIỆU HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM..................7 1.1. Một số vấn đề chung về mặt khách quan của tội phạm ................. 7 1.1.1. Khái niệm mặt khách quan của tội phạm ........................................... 7 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm ............. 10 1.2. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm ................................. 14 1.2.1. Khái niệm hành vi ........................................................................... 14 1.2.2. Khái niệm hành vi khách quan của tội phạm .................................... 20 1.2.3. Hành vi khách quan của tội phạm trong một số trường hợp đặc biệt ..... 31 Chương 2: HẬU QUẢ NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI, MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ VÀ CÁC DẤU HIỆU KHÁC THUỘC MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM ..................................... 44 2.1. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm ............................... 44 2.1.1. Khái niệm và các dạng hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm .......... 44 2.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm ........................................................................................... 50 2.2. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm............................................... 56 2.2.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm ........................................................................................... 56
  5. 2.2.2. Các dạng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm ........................................... 63 2.3. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm ............. 66 2.3.1. Công cụ, phương tiện phạm tội ........................................................ 67 2.3.2. Phương pháp, thủ đoạn phạm tội...................................................... 68 2.3.3. Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội ......................................... 69 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM ............................................... 71 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về mặt khách quan của tội phạm trong định tội danh.............................................................. 71 3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về mặt khách quan của tội phạm trong quyết định hình phạt ................................................. 86 KẾT LUẬN ................................................................................................. 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội. Trong đó, luật hình sự là một ngành luật đặc biệt của hệ thống pháp luật nước ta, nó xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và quy định hình thức sử lý hình sự; cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự, cũng như hình phạt, biện pháp tư pháp và các chế định pháp lý hình sự khác… Luật hình sự quy định về tội phạm, hay nói cách khác tội phạm là vi phạm pháp luật hình sự nên chỉ được quy định trong Bộ luật hình sự. Trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được phản ánh qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó rõ nét nhất thông qua mặt khách quan của tội phạm, mối quan hệ chặt chẽ giữa mặt khách quan của tội phạm với các yếu tố khác trong cấu thành tội phạm. Bởi vì, nếu xét về bản chất chính trị - xã hội - pháp lý, tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực với những đặc điểm riêng biệt như tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu hình phạt. Nếu xét về cấu trúc, tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố là khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Những yếu tố này tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng có tính độc lập tương đối, có thể phân biệt. Mọi hành vi phạm tội dù tính chất, mức độ nguy hiểm đến đâu, dù bị áp dụng chế tài hình sự gì cũng đều là sự thống nhất giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan, hay những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện bên trong, đều là hành vi của con người xâm phạm tới những quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ. Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Đó là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm. Bất kỳ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải có biểu hiện ra bên ngoài. Không có những biểu hiện ra bên ngoài thì không có những yếu tố khác của cấu thành tội phạm, do vậy cũng không có 1
  7. tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm được biểu hiện bởi hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội… Nghiên cứu những biểu hiện thuộc mặt khách quan của tội phạm là cơ sở quan trọng để xác định hành vi cụ thể có cấu thành tội phạm hay không. Nếu có, mới đặt ra vấn đề mặt chủ quan của tội phạm. Đồng thời, qua đó có thể định khung hình phạt, xác định là tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trên thực tế, lý thuyết về mặt khách quan của tội phạm chỉ thường gắn liền với việc tìm hiểu hành vi khách quan – dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, còn có trường hợp nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, chưa thống nhất về lý luận, dẫn tới hạn chế trong hoạt động thực tiễn vì vậy đã xuất hiện một số vụ án oan, sai dư luận trong nước bất bình. Trong lý luận đã có một số công trình nghiên cứu nhưng ở dạng chung nhất trong cấu thành của tội phạm, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm. Đây là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Mặt khách quan của tội phạm - một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là lý luận cơ bản của Luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, hầu hết giáo trình Luật hình sự của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật đều đề cập đến yếu tố này ở những mức độ khác nhau (Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Viện đại học Mở Hà Nội, Trung cấp Luật Buôn Mê Thuột…). Bên cạnh đó, cũng có một số công trình nghiên cứu về mặt khách quan của tội phạm thông qua việc nhận thức lý luận cấu thành tội phạm: - Luận văn Thạc sĩ: Mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm, 2011, Lê Phương Thuỳ. 2
  8. Ngoài ra, mặt khách quan của tội phạm cũng được nghiên cứu thông qua các dấu hiệu của nó, trong: - Luận văn Thạc sĩ: Hành vi nguy hiểm cho xã hội với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm, 2010, Nguyễn Thị Ngọc Linh. - Luận văn Thạc sĩ: Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, 2012, Lê Thu Trang. Trong sách chuyên khảo về luật hình sự, các nhà khoa học cũng đề cập đến mặt khách quan của tội phạm: - Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 của TSKH. GS. Lê Văn Cảm - Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, 2005 của GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa Một số bài viết trong các tạp chí nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm thông qua cấu thành tội phạm: - Lý luận về cấu thành tội phạm trong Khoa học Luật hình sự, Tạp chí Luật học, số 2/2014 của TSKH. GS. Lê Cảm; - Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (trên cơ sở các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999), Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2005 của TSKH. GS. Lê Cảm; - Mối quan hệ giữa định tội danh và cấu thành tội phạm, Tạp chỉ dân chủ và pháp luật, số 6/2005 của tác giả Trương Thị Tuyết Minh; - Kỹ thuật xây dựng cấu thành tội phạm và việc hoàn thiện Bộ luật hình sự, Tạp chí Luật học, số 4/2006, của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa; Một số tác giả nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự: - Mặt khách quan của tội giết người – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/2006 của TS. Đỗ Đức Hồng Hà; 3
  9. - Hoàn thiện dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội gián điệp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18/2010 của ThS.Nguyễn Anh Tuấn. Ngoài ra, khi nghiên cứu tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự (Phần riêng – Phần các tội phạm), các tác giả đều có sự nhận thức về mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, cần thiết phải có công trình nghiên cứu một cách hệ thống về mặt khách quan của tội phạm trên phương diện lý luận và thực tiễn. Qua đó, xây dựng thống nhất lý luận về mặt khách quan cũng như công tác áp dụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, góp phần trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong Luật Hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam trong hoạt động tư pháp. Làm sáng tỏ bản chất mặt khách quan của tội phạm với những dấu hiệu cơ bản của nó, trên cơ sở đó đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật trong định tội danh và quyết định hình phạt. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về mặt khách quan của tội phạm và thực tiễn áp dụng các nội dung này của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là tòa án trong việc định tội danh và quyết định hình phạt trong thời gian qua. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Về mặt lý luận, trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tác giả làm sáng tỏ về khái niệm, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm. Về mặt thực tiễn, đánh giá việc áp dụng các nội 4
  10. dung thuộc mặt khách quan của tội phạm trong việc định tội danh, và quyết định hình phạt. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở tri thức của các ngành khoa học khác như luật học, tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích, thống kê, chuyên gia… để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu 6. Những đóng góp mới của luận văn Đây là một trong những luận văn thạc sĩ nghiên cứu một cách cụ thể, khoa học, đồng bộ và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm theo quy định của luật hình sự Việt Nam. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận và thực tiễn những vấn đề sau: 1) Phân tích một cách cụ thể, có hệ thống những vấn đề lý luận về mặt khách quan của tội phạm theo quy định của luật hình sự Việt Nam như: khái niệm, ý nghĩa của mặt khách quan của tội phạm, mối quan hệ giữa mặt khách quan của tội phạm với các yếu tố khác trong cấu thành tội phạm. Đồng thời, rút ra những nhận xét, đánh giá về quan điểm, chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. 2) Phân tích các dấu hiệu cơ bản thuộc mặt khách quan của tội phạm như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. 3) Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan xét xử liên quan 5
  11. đến mặt khách quan của tội phạm về định tội danh, quyết định hình phạt trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đưa ra những đánh giá, nhận định góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. 7. Ý nghĩa của luận văn Đây là một trong những đề tài nghiên cứu cụ thể, thống nhất và đồng bộ, đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên. Luận văn đã góp phần vào việc xác định đúng đắn những vấn đề lý luận về mặt khách quan của tội phạm trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử. Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự hiện nay. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về mặt khách quan và dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm Chương 2: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả và các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về mặt khách quan của tội phạm 6
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẶT KHÁCH QUAN VÀ DẤU HIỆU HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 1.1. Một số vấn đề chung về mặt khách quan của tội phạm 1.1.1. Khái niệm mặt khách quan của tội phạm Bộ luật Hình sự quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (Điều 8). Như vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng được thể hiện trong khái niệm tội phạm đó là “nguyên tắc hành vi”, tội phạm phải là hành vi của con người. Hành vi nói chung hay hành vi phạm tội nói riêng thực chất thể hiện chính bản chất của con người, là sự tồn tại của chính con người đó trong hiện thực khách quan. Để có thể nhận thức về hành vi và chủ thể của hành vi đó, cần thiết phải xem xét tổng thể các yếu tố được biểu hiện ra bên ngoài, hay nói cách khác đó chính là mặt khách quan của tội phạm. Hiện nay, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [8, tr.91]. Theo đó, những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người 7
  13. có thể trực tiếp nhận biết được là: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…) Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan [5, tr.344]. Cụ thể: Mặt khách quan của tội phạm có chín dấu hiệu với một dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm là “hành vi nguy hiểm cho xã hội” và tám dấu hiệu tùy nghi gồm: “hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh (điều kiện), phương pháp (thủ đoạn), công cụ và phương tiện phạm tội”. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm đối lập với mặt chủ quan là mặt bên trong của tội phạm, nhưng nó không nằm ngoài tội phạm mà nó là một mặt của cấu thành tội phạm, nó là những biểu hiện khách quan mà bằng những giác quan của con người chúng ta có thể nhận biết được như: nhìn thấy được, nghe thấy được… Các dấu hiệu hợp thành mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện chi phối hành vi và hậu quả của hành vi [16, tr.59]. Hay tương tự như vậy: Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài của tội phạm… Là một trong bốn yếu tố của tội phạm, một mặt trong thể thống nhất với mặt chủ quan của hành vi phạm tội. Những biểu hiện của mặt khách quan của tội phạm là hành vi, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa 8
  14. hành vi và hậu quả đó cũng như các điều kiện bên ngoài khác như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm… Trong đó, biểu hiện hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất của mặt khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Những biểu hiện khác chỉ dược phản ánh trong một số cấu thành tội phạm [11, tr.77-78]. Mặt khách quan của tội phạm là những dấu hiệu bên ngoài của tội phạm. Mặt khách quan là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm… bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả, các điều kiện bên ngoài khi thực hiện tội phạm như: địa điểm, thời gian, thủ đoạn, phương tiện, công cụ, hoàn cảnh phạm tội [17, tr.64]. Như vậy, mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau về định nghĩa mặt khách quan của tội phạm, nhưng nhìn chung quan điểm về mặt khách quan của tội phạm là đồng nhất giữa các nhà nghiên cứu. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan hay nói cách khác đó là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. Nghiên cứu mặt khách quan – mặt bên ngoài của tội phạm tức là tìm hiểu những dấu hiệu diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể nhận thức được, ngay từ quá trình nhận thức đơn giản nhất dựa trên giác quan của mình: nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy… Vì vậy, những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm thường bao gồm: Hành vi khách quan – Hành vi nguy hiểm cho xã hội (khoa học pháp lý chia thành hai loại là hành động phạm tội và không hành động phạm tội); hậu quả nguy hiểm cho xã hội (nếu quy định trong cấu thành tội phạm tương ứng); 9
  15. mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phạm tội (quan hệ nguyên nhân – kết quả); hay một số dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội… 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm – tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm là những dấu hiệu phản ánh nội dung của các yếu tố của tội phạm. Nhưng không phải tất cả các dấu hiệu của bốn yếu tố đều được đưa vào cấu thành tội phạm. Có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm của các tội phạm, nhưng cũng có những dấu hiệu có thể có trong cấu thành tội phạm của tội này nhưng lại không có trong cấu thành tội phạm của những tội khác. Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm được kể đến như: Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan của tội phạm; dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm; dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm. Ngoài ra, những dấu hiệu khác của bốn yếu tố cấu thành tội phạm đều là những dấu hiệu không bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm như dấu hiệu hậu quả, dấu hiệu mục đích phạm tội, dấu hiệu động cơ phạm tội… Như vậy, theo quy định của luật hình sự Việt Nam, bất cứ tội phạm nào dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù bị quy định bởi hình phạt nào từ cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn hay đến mức tù chung thân, tử hình thì luôn luôn là thể thống nhất giữa những biểu hiện bên ngoài - mặt khách quan và những quan hệ tâm lí bên trong - mặt chủ quan của tội phạm. Những hành vi đó đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Sự thống nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, 10
  16. thể hiện đầy đủ nội dung chính trị, xã hội của tội phạm. Nếu về mặt nội dung chính trị, xã hội, những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì về mặt cấu trúc, bốn yếu tố cấu thành tội phạm cũng có những nội dung biểu hiện khác nhau. Chính sự khác nhau này quyết định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội [8, tr.65]. Mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều có tính độc lập tương đối nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tùy thuộc từng loại tội phạm, một hay nhiều hơn các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tính nghiêm trọng của tội phạm hơn các yếu tố khác. Tuy nhiên, không có nghĩa là các yếu tố còn lại không quan trọng. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tổng hợp lại cùng quyết định tính nguy hiểm của tội phạm. Mỗi yếu tố chỉ có ý nghĩa độc lập khi nghiên cứu về mặt lý thuyết. Trên thực tế, mỗi yếu tố chỉ tồn tại như là một bộ phận cấu thành của một thể thống nhất là tội phạm. Thiếu bất kỳ yếu tố nào cũng không được coi là tội phạm. Trong luật hình sự Việt Nam cộng hòa trước đây, vấn đề các yếu tố cấu thành tội phạm cũng được đề cập. Nhưng xuất phát từ định nghĩa tội phạm về hình thức, các nhà lý luận chỉ thừa nhận những yếu tố không thể hiện bản chất chính trị, xã hội của tội phạm. Ví dụ: Theo giáo trình của Đại học luật khoa Sài Gòn năm 1972, tội phạm có ba yếu tố là yếu tố pháp định (sự vi phạm hình luật), yếu tố vật chất (tác động tích cực hay tiêu cực) và yếu tố tinh thần hay tâm lý (ý định phạm pháp) [8, tr.65]. Các yếu tố khách quan và chủ quan có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được thể hiện trong hành vi phạm tội của chủ thể. Cùng với chủ thể, khách thể và mặt chủ quan của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Trong cấu thành tội phạm, các yếu tố thuộc mặt khách quan có ý nghĩa không giống nhau. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc và được quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm, không có hành vi thì 11
  17. không có cấu thành tội phạm và cũng không thể có tội phạm. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan có thể là dấu hiệu định tội hoặc là dấu hiệu định khung hình phạt. Mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Căn cứ vào những biểu hiện như hành vi được chủ thể thực hiện và một số nội dung biểu hiện khác, người ta biết được tội phạm đã xảy ra, các tình tiết, diễn biến của vụ án, xác định được đó là tội gì trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc định tội. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm nếu xác định đúng thì sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án phân biệt đúng từng tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất được nhà làm luật ghi nhận với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tại điều (khoản) tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Ngoài ý nghĩa trong việc định tội, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm còn có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Trong nhiều trường hợp, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan được phản ánh là dấu hiệu định khung trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội phạm. Mặt khách quan còn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định lỗi, đánh giá mức độ lỗi, mức độ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi. Ngoài ra, thông qua mặt khách quan, có thể xác định các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. Như vậy, có thể thấy, trong hành vi khách quan của tội phạm bao gồm nhiều dấu hiệu khác nhau, trong đó, hành vi khách quan của tội phạm là dấu hiệu được quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc, không có hành vi khách quan thì không có cấu thành tội phạm. Các nội dung biểu hiện khác thuộc mặt khách quan được quy định trong các cấu thành tội phạm có thể là dấu hiệu định tội (dấu hiệu của cấu thành tội 12
  18. phạm cơ bản) hoặc là dấu hiệu định khung (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ). Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Từ những biểu hiện khách quan như hành vi nguy hiểm cho xã hội và một số nội dung biểu hiện khác, có thể biết được tội phạm đã xảy ra, các tình tiết, diễn biến của vụ án, xác định được đó là tội gì trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc định tội, việc xác định hành vi của một người có cấu thành tội phạm cụ thể hay không thường bắt đầu từ việc nghiên cứu mặt khách quan. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy nếu xác định đúng các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm sẽ giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án phân biệt đúng từng tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất được nhà làm luật ghi nhận với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tại điều (khoản) tương ứng trong Phần các tội phạm (Phần riêng) mà Bộ luật hình sự quy định. Ngoài ý nghĩa trong việc định tội, nghiên cứu các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm còn có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Trong nhiều trường hợp, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan như hậu quả, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội… trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội phạm được phản ánh là dấu hiệu định khung. Nhiều tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự thuộc mặt khách quan của tội phạm, do vậy, việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm cũng còn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định lỗi cũng như đánh giá mức độ lỗi, mức độ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi. Ngoài ra, thông qua mặt khách quan, có thể xác định các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm[18, tr.6-7]. 13
  19. 1.2. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm bao gồm nhiều dấu hiệu khác nhau, trong đó, hành vi khách quan của tội phạm - hành vi phạm tội – hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm, hậu quả phạm tội – hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phạm tội và một số dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Hành vi khách quan của tội phạm hay hành vi phạm tội là dấu hiệu cơ bản nhất thuộc mặt khách quan của tội phạm. Vì bản chất, tội phạm là hành vi của con người, nên tội phạm trước hết phải biểu hiện bằng chính hành vi phạm tội hay khoa học luật hình sự gọi là hành vi khách quan của tội phạm. Không có dấu hiệu hành vi khách quan thì các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm (hậu quả, mối quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện…) thậm chí cả ba yếu tố cấu thành của tội phạm (khách thể, chủ thể, mặt chủ quan) đều không có ý nghĩa. 1.2.1. Khái niệm hành vi Khái niệm hành vi khách quan của tội phạm bắt nguồn từ khái niệm hành vi của con người hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội phạm là trường hợp cá biệt thuộc hành vi của con người. Hành vi của con người là lý thuyết cơ bản trong Tâm lý học. Từ khoảng cuối thế kỷ XIX, Tâm lý học đã tách ra khỏi Triết học trở thành một khoa học độc lập – khoa học thực nghiệm. Theo đó, hành vi của con người cũng được các nhà tâm lý học hiện đại đặc biệt quan tâm. Điển hình là thuyết tâm lý học hành vi do nhà tâm lý học người Mỹ - J.Watson sáng lập. Ông cho rằng, tâm lý học không quan tâm đến việc mô tả giảng giải các trạng thái tâm lý ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của cơ thể. Đối tượng của tâm lý học hành vi là hành vi. Hành vi của con người hay của động vật đều được xem như là tổng hợp các phản ứng của 14
  20. cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài theo công thức: S (Stimulant: Kích thích) – R (Reaction: Phản ứng). Đây là quan điểm được đánh giá là tiến bộ trong tâm lý học khi coi hành vi do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát và nghiên cứu một cách khách quan. Tuy nhiên thuyết hành vi cũng bộc lộ nhược điểm khi đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đồng nhất giữa hành vi của con người với hành vi của động vật, coi hành vi chỉ là những phản ứng máy móc nhằm đáp ứng lại kích thích, giúp cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Thuyết hành vi đã phủ nhận hoàn toàn vai trò chủ đạo của hệ thần kinh cấp cao – não người, tính tích cực tâm lý, ý thức con người như là hình thức đặc biệt của việc điều chỉnh hành vi, phủ nhận tính xã hội của con người. Sau này, các nhà nghiên cứu khác đã bổ sung vào công thức cổ điển S - R một số biến số trung gian gọi là O (Operant: Nhu cầu, kinh nghiệm sống…) [22, tr.10-11]. Như vậy, tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lí học thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm lí người thời đó. Kết quả là đã hình thành trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển Tâm lí học Mĩ và thế giới trong suốt thế kỷ XX: Tâm lý học hành vi, mà đại biểu là các nhà tâm lí học kiệt xuất như: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.Watson (1878-1958), E.C.Tolman (1886-1959), K.L.Hull (1884-1952), B.F.Skinner (1904-1990), A. Bandura v.v… Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ bản hệ thống quan niệm về tâm lý học đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm lý học là hành vi chứ không phải ý thức. Phương pháp nghiên cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội quan. Trước và trong thời kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học được hiểu là khoa học về ý thức và phương pháp nghiên cứu là nội quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi ra đời ở Đức năm 1879, với tư cách là khoa học độc lập, tâm lý học đã được 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2