intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghiên cứu một số quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn nhằm: Tìm hiểu về quy định pháp luật quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông; nghiên cứu tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam thời gian gần đây, xu hướng cạnh tranh sẽ diễn ra giữa các doanh nghiệp; viễn thông Việt Nam và quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam hiện nay; phân tích các điểm hạn chế trong pháp luật về cạnh tranh và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghiên cứu một số quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MẠNH HÀ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MẠNH HÀ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS Đinh Ngọc Vượng HÀ NỘI - 2009 2
  3. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 9 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ....................................................... 9 2. Phạm vi nghiên cứu: ............................................................................. 12 3. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu .................................... 12 4. Bố cục của luận văn .............................................................................. 12 CHƢƠNG 1. PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .......................................................................................................... 14 1.1 Khái quát chung.................................................................................. 14 1.1.1 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh: ............................. 15 1.1.2 Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền).......... 17 1.2. Các quy định của pháp luật quốc tế về cạnh tranh .............................. 19 1.2.1. Các hệ thống pháp luật cạnh tranh điển hình ............................... 19 1.2.2 Quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh ........................ 24 1.2.3 Quy định về chống hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền) ..... 26 1.2.4 Một số điều ƣớc quốc tế về cạnh tranh ........................................ 27 1.3 Quá trình hình thành và pháp luật của Việt Nam về cạnh tranh ........... 30 1.3.1. Nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam và các biểu hiện cạnh tranh .. 30 1.3.2. Pháp luật Việt Nam về cạnh tranh ............................................... 40 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ....... 63 2.1. Pháp luật quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ................. 63 2.1.1. Một số điều ƣớc quốc tế .............................................................. 63 7
  4. 2.1.2. Các cam kết liên quan đến cạnh tranh viễn thông của Việt Nam khi gia nhập WTO ...................................................................................... 66 2.2. Thực trạng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam.......................................................................................................... 72 2.2.1 Một số đặc điểm trong cạnh tranh trên thị trƣờng viễn thông Việt Nam...................................................................................................... 72 2.2.2 Các văn bản pháp luật về cạnh tranh trong viễn thông ................. 77 CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ........................................................... 81 3.1. Thực hiện các điều ƣớc quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ................................................................................................................. 81 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông phù hợp với các cam kết gia nhập WTO ........................... 83 3.2.1 Xu hƣớng cạnh tranh trên thị trƣờng viễn thông Việt Nam........... 83 3.2.2 Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trƣờng cạnh tranh có hiệu quả ............................................................................................................. 85 KẾT LUẬN .................................................................................................. 89 PHỤ LỤC 1 ................................................................................................. 91 PHỤ LỤC 2 ................................................................................................. 92 PHỤ LỤC 3 ................................................................................................. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102 8
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Các nƣớc đang phát triển tiến hành cách mạng viễn thông đều nhận thức đƣợc rằng viễn thông là động lực quan trọng cho tăng trƣởng kinh tế và phát triển. Bằng chứng trong hơn hai thập kỷ qua trên thế giới cho thấy công nghệ thông tin thúc đẩy phát triển, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế giúp cải thiện cuộc sống cho ngƣời nghèo, cải thiện chất lƣợng giáo dục, tăng hiệu quả và sự minh bạch của chính phủ, đƣa chính phủ đến gần với ngƣời dân hơn, và giúp các quốc gia có khả năng cạnh tranh cao hơn, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Cải cách mạnh mẽ, tăng cƣờng cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy xã hội và chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế nói chung. Thập kỷ qua đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của dịch vụ và công nghệ viễn thông cũng nhƣ thƣơng mại quốc tế về dịch vụ. Điều đó đã buộc các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông phải cạnh tranh ngày càng quyết liệt với nhau để giành thị phần và theo đó các tổ chức quốc tế, các quốc gia cũng phải không ngừng hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh để điều chỉnh những hành vi cạnh tranh, đảm bảo lợi ích của xã hội và ngƣời tiêu dùng. Theo cách hiểu đơn giản nhất, khu vực viễn thông của nền kinh tế có năng lực cạnh tranh và hiệu quả nếu có sự cạnh tranh trong nội bộ ngành viễn thông. Tuy nhiên, sự tồn tại của hai hoặc nhiều nhà cung ứng dịch vụ viễn thông chƣa có nghĩa là đã tồn tại cạnh tranh thực sự. Cạnh tranh tồn tại khi: - Tất cả hoặc một số lƣợng lớn khách hàng đƣợc tự do lựa chọn giữa các loại giá, dịch vụ và chất lƣợng do nhiều (hơn 2) nhà cung ứng dịch vụ cung cấp; - Ngƣời tiêu dùng có thể lựa chọn, nhu cầu của họ đƣợc cung cấp và đáp ứng; 9
  6. Cạnh tranh để thu hút khách hàng, thông qua phát triển và điều chỉnh các lựa chọn và giá cả của các dịch vụ cung ứng là lực lƣợng điều tiết cơ bản trong ngành. Nếu ngành viễn thông đáp ứng các điều kiện trên thì đƣợc coi là có cạnh tranh. Nhƣ vậy ngành viễn thông có khả năng cạnh tranh khi môi trƣờng kinh doanh vi mô của ngành thuận lợi cho việc tăng năng suất nhanh chóng nhờ cạnh tranh đem lại. Cuộc đua tranh mạnh mẽ hơn do cạnh tranh thúc đẩy làm cho việc cung cấp dịch vụ viễn thông hiệu quả hơn. Đó là đối với những doanh nghiệp đang có khả năng cạnh tranh, còn có cạnh tranh đƣợc hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trƣờng hoạt động của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa và dịch vụ trao đổi trên thị trƣờng quốc tế là rất quan trọng vì nó đảm bảo cho hàng hóa dịch vụ có thể chiếm lĩnh khách hàng của các hàng hóa và dịch vụ hiện có trên thị trƣờng thế giới. Nếu giá cả, chất lƣợng và chủng loại hàng hóa dịch vụ của một nền kinh tế có ƣu thế hơn thì thị trƣờng sẽ có nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đó và hàng hóa dịch vụ của họ sẽ đƣợc tiêu thụ tốt hơn so với hàng hóa dịch vụ của các nƣớc khác. Quan điểm về tự do hoá viễn thông của Việt Nam là thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế vào khu vực viễn thông, chuyển doanh nghiệp viễn thông truyền thống thuộc sở hữu nhà nƣớc sang kinh doanh và từng bƣớc mở rộng cạnh tranh. Quan điểm này đƣợc thể hiện trong các chính sách chung cũng nhƣ các văn bản pháp luật do Quốc hội thông qua. Chiến lƣợc phát triển Công nghệ thông tin - viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020 của Bộ Bƣu chính viễn thông năm 2003 [ 9 ] đã khẳng định: tạo thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia phát triển viễn thông trong môi trƣờng cạnh tranh công bằng và minh bạch. Cụ thể, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực viễn thông đƣợc đa dạng hoá, bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nƣớc, nhà nƣớc 10
  7. nắm giữ cổ phần thống lĩnh hoặc đặc biệt, hoặc doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Chính sách này đƣợc khẳng định trong Pháp lệnh Bƣu chính Viễn thông. Tuy nhiên, mức độ tham gia của khu vực tƣ nhân vào lĩnh vực bƣu chính viễn thông là rất khác nhau giữa các hoạt động viễn thông. Các doanh nghiệp kinh doanh mạng, trong đó có các doanh nghiệp IXP, phải là doanh nghiệp 100% vốn sở hữu của nhà nƣớc hoặc có cổ phần thống lĩnh hoặc đặc biệt của nhà nƣớc, trong khi đó các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông có thể là doanh nghiệp Việt Nam thuộc tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ ISP và OSP. Chính sách này đƣợc áp dụng đối với hầu hết các dịch vụ giá trị gia tăng. Chính sách phát triển ngành viễn thông đã khẳng định sự chuyển đổi viễn thông từ độc quyền sang cạnh tranh, nhƣng khu vực kinh tế nhà nƣớc có vai trò chủ đạo. Cụ thể, thị phần của các doanh nghiệp mới dự kiến sẽ đạt 25- 30% vào năm 2005 và 40-50% vào năm 2010. Cũng theo kế hoạch, đến năm 2005 sẽ có thêm 3 đến 5 nhà cung cấp IXP, 30 đến 40 ISP và nhiều nhà cung cấp OSP đƣợc cung cấp dịch vụ Internet. Cách tiếp cận chung đối với tự do hoá viễn thông là mở rộng thị trƣờng cạnh tranh cùng với tăng cƣờng vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nƣớc; cho phép các doanh nghiệp trong nƣớc có điều kiện, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nƣớc, cung ứng các dịch vụ giá trị gia tăng cũng nhƣ dịch vụ cơ bản và từng bƣớc mở của khu vực viễn thông cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài theo các cam kết quốc tế; hoạt động cung cấp dịch vụ sẽ đƣợc tự do hoá mạnh hơn kinh doanh mạng viễn thông. - Tìm hiểu về quy định pháp luật quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông - Nghiên cứu tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam thời gian gần đây, xu hƣớng cạnh tranh sẽ diễn ra giữa các doanh nghiệp 11
  8. viễn thông Việt Nam và quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam hiện nay - Phân tích các điểm hạn chế trong pháp luật về cạnh tranh và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh tại Việt Nam. 2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ nghiên cứu về quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam về cạnh tranh trong kinh doanh các dịch vụ viễn thông, các vƣớng mắc và hƣớng giải quyết. 3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận khoa học đƣợc vận dụng trong luận văn này là hệ thống lý luận của học thuyết Mác – Lê nin, các lý thuyết về khoa học kinh tế và quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc về ngành viễn thông. Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng để thực hiện đề tài này là: Phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, dự báo… Từ đây đƣa ra các giải pháp để hoạt động cạnh tranh viễn thông đƣợc tốt hơn. 4. Bố cục của luận văn Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận văn bao gồm ba chƣơng sau đây: CHƢƠNG 1. PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - Khái quát chung - Các quy định của pháp luật quốc tế về cạnh tranh - Quá trình hình thành và pháp luật của Việt Nam về cạnh tranh CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG 12
  9. - Pháp luật quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông - Thực trạng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG - Thực hiện các điều ƣớc quốc tế về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông - Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông phù hợp với các cam kết gia nhập WTO Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội, nhất là các cán bộ, giảng viên Khoa Luật và Khoa Sau Đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện hoàn thành bản luận văn này. Đặc biệt tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Đinh Ngọc Vƣợng đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong việc nghiên cứu và thực hiện luận văn. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các cán bộ thuộc Bƣu điện TP Hà Nội và Tập đoàn Bƣu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã hỗ trợ, giúp đỡ thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho luận văn. Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã chia sẻ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. 13
  10. CHƢƠNG 1. PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1 Khái quát chung Cho đến hiện nay đã có nhiều học thuyết về cạnh tranh, song không có sự xác định về mặt pháp lý nội hàm của khái niệm cạnh tranh. Các học thuyết về cạnh tranh chỉ thống nhất với nhau ở chỗ phải ngăn cản và cấm đoán những hành vi gây rối, ngăn cản hoặc hạn chế cạnh tranh mà thôi. Xuất phát từ sự bất lực của pháp luật khi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh mang tính tích cực (cạnh tranh hợp pháp), các nhà làm luật trong lịch sử đều tiếp cận từ mặt trái của những hành vi cạnh tranh (cạnh tranh không lành mạnh). Vì vậy, pháp luật cạnh tranh không thể đƣa ra đƣợc những dấu hiệu để xác định cạnh tranh hợp pháp và vì vậy không có khái niệm cạnh tranh bất hợp pháp mà chỉ có hành vi cạnh tranh không lành mạnh (hiểu theo nghĩa rộng). Thứ hai, cạnh tranh là hoạt động, hành vi của các chủ thể hoạt động theo luật tƣ, trong khi đó việc cấm đoán, ngăn cản những hành vi cạnh tranh của pháp luật có khi lại phải đƣợc thực hiện theo phƣơng pháp của luật công. Hơn thế nữa, hình thức và phƣơng pháp cạnh tranh là “luật chơi” riêng của thƣơng trƣờng. Trong khi đó, trong cơ chế thị trƣờng con ngƣời đƣợc tự do và sáng tạo nên lại không thể có luật chơi cụ thể cho mọi thành viên trong mọi điều kiện và hoàn cảnh (mà pháp luật phải cụ thể). Trong thƣơng trƣờng, không thể áp dụng luật chơi và thƣớc đo thành tích nhƣ trong thể thao, bởi nếu không, con ngƣời lại phải hành động theo một khuôn mẫu thống nhất, mà theo đó họ bị hạn chế khả năng sáng tạo. Tuy nhiên, tự do cũng chỉ là sự nhận thức quy luật và quyền tự do nào cũng có điểm dừng của nó. Điểm dừng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố và chính vào lúc này, Nhà nƣớc và pháp luật xuất hiện. Vì vậy, tiếp cận từ mặt sau và không triệt để về tính xác định của nội dung là đặc điểm căn bản của pháp luật về cạnh tranh. Đây là những dấu hiệu 14
  11. của phân biệt pháp luật về cạnh tranh với những lĩnh vực pháp luật khác nhƣ luật công ty hay luật hình sự. Có lẽ vì lý do đó mà ở nhiều quốc gia phƣơng Tây đều coi pháp luật cạnh tranh là chế định pháp luật cơ bản của luật kinh tế. Ở các quốc gia có sự ổn định tƣơng đối về pháp luật cạnh tranh, mặc dù có cơ cấu của hệ thống pháp luật cạnh tranh khác nhau, song khi xem xét các cấu thành cụ thể, họ đều chia pháp luật cạnh tranh thành hai lĩnh vực khác biệt. Đó là pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (hay còn gọi là chống độc quyền hay kiểm soát độc quyền). Sở dĩ có sự phân biệt nhƣ vậy là vì, nhƣ đã trình bày ở trên, tính chất của hành vi, mức độ của hành vi và mức độ nguy hại của chúng đối với thị trƣờng và theo đó là phƣơng thức và tính cƣơng quyết trong sự “trừng trị” của pháp luật đối với hai nhóm hành vi này là khác nhau. Tuy rằng, suy cho cùng chúng đều làm hại đến sự vận động bình thƣờng của thị trƣờng. 1.1.1 Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh: Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ thể, nhằm mục đích cạnh tranh, luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ là trái pháp luật) và vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay bạn hàng cụ thể. Ở đây, tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh lệ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trƣờng và luôn đƣợc điều chỉnh bằng phƣơng thức của luật tƣ. Tức là ngƣời bị ảnh hƣởng, bi thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại chừng nào chƣa đƣa ra sự phản đối và khiếu kiện thì pháp luật và Toà án chƣa thể vào cuộc. Chế tài pháp luật ở đây là bị buộc đình chỉ hành vi vi phạm và bồi thƣờng thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra. Theo kinh nghiệm của các nƣớc, thể hiện qua nội dung của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc chia làm 5 nhóm: 1. Thâu tóm khách hàng: Bao gồm những phƣơng pháp cạnh tranh trái với tập quán để tác động lên khách hàng và bạn hàng. Tính trái với tập quán ở 15
  12. đây thể hiện ở chỗ nó gây ảnh hƣởng đến sự tự do trong quyết định của bạn hàng hay khách hàng. Nó biểu hiện trong những dạng cụ thể nhƣ: - Dối trá, thông tin sai về quan hệ mua bán. - Bán cƣỡng bức nhƣ bán kèm. - Gạ gẫm, quấy rầy. 2. Ngăn cản: Đƣợc thực hiện để chống đối thủ cạnh tranh về giá, tẩy chay nói xấu hay phân biệt đối xử. ở đây, vấn đề không chỉ là ở chỗ gây ảnh hƣởng tới đối thủ mà chính là ở chỗ tính không đúng đắn trong cạnh tranh. 3. Bóc lột: Loại hành vi này cũng có mục đích chống lại đối thủ song chủ yếu lại không nhằm vào sản phẩm của đối thủ. Thực ra vấn đề nàyđƣợc giải quyết chủ yếu trong pháp luật về sở hữu công nghiệp. Song tính không lành mạnh ở đây thể hiện sự lợi dụng trái với tập quán những sản phẩm của ngƣời khác. Chẳng hạn nhƣ: bắt chƣớc kiểu dáng công nghiệp, man trá về nguồn gốc của sản phẩm hay dựa dẫm vào uy tín của sản phẩm khác (đặt tên giống với sản phẩm của ngƣời khác) hoặc lôi kéo khách hàng hoặc ngƣời làm công của đối thủ. 4. Vi phạm pháp luật: Những vi phạm loại này thƣờng diễn ra trong lĩnh vực luật kinh tế hay luật thuế song chỉ bị coi là không lành mạnh khi hành vi vi phạm có chủ ý can thiệp trái phép đến đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra những vi phạm pháp luật khác cũng có thể đồng thời bị coi là cạnh tranh không lành mạnh (thí dụ: lừa đảo). Những vi phạm hợp đồng cũng có thể đồng thời vi phạm pháp luật cạnh tranh nếu nó gắn liền với việc phá vỡ niềm tin cạnh tranh hoặc lạm dụng lòng tin của bạn hàng. 5. Gây rối thị trường: Loại hành vi này không nhằm vào một đối thủ cạnh tranh nào, song nó có tác động chung gây rối thị trƣờng. Chẳng hạn, doanh nghiệp lớn hạ giá sản phẩm làm ảnh hƣởng đến những doanh nghiệp nhỏ; hay một doanh nghiệp quảng cáo giật gân gây tâm lý chung hoảng sợ. 16
  13. 1.1.2 Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền) Trong khi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm vào từng hành vi, từng quan hệ thì pháp luật chống hạn chế cạnh tranh lại nhằm vào hiện tƣợng có tính chất độc quyền bất kể đó là độc quyền hành chính hay độc quyền tự nhiên; là độc quyền hay độc quyền nhóm - những hiện tƣợng làm thay đổi cơ cấu thị trƣờng và theo nghĩa đó, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (chống độc quyền) là pháp luật bảo vệ cơ cấu và tƣơng quan thị trƣờng, vì vậy có liên hệ mật thiết với pháp luật về gia nhập thƣơng trƣờng. Nếu xét về mức độ gây thiệt hại cho thị trƣờng thì hạn chế cạnh tranh, tạo thế độc quyền có mức hại cao hơn so với cạnh tranh không lành mạnh và bị xử lý nghiêm khắc hơn về mặt pháp luật. Tuy nhiên, chúng không phải là cấu thành tội phạm và chỉ đƣợc xử lý chủ yếu bằng công cụ hành chính (pháp luật hành chính kinh tế). Theo nghĩa đó, một hành vi hạn chế cạnh tranh khi bị phát hiện bất luận có phải bởi đối thủ cạnh tranh hay không, đều có sự xuất hiện của pháp luật và các quyết định hành chính bắt buộc. Các khả năng của việc áp dụng các chế tài ở đây là mạnh mẽ, đa dạng và nghiêm khắc nhƣ cấm, buộc từ bỏ, tuyên bố vô hiệu, phạt hành chính và bồi thƣờng thiệt hại.... Thông thƣờng, hạn chế cạnh tranh hình thành từ 3 hƣớng: 1. Các hợp đồng, thoả thuận hay nghị quyết mà theo đó hình thành nên cartel, xanh-đi-ca, tờ-rớt, những thoả thuận này có thể hình thành theo chiều ngang hay chiều dọc của các quy trình kinh doanh. Những thoả thuận này có thể tồn tại ở bất cứ hình thức nào và tác hại của chúng là thủ tiêu sự cạnh tranh giữa các thành viên tham gia thoả thuận và loại bỏ khả năng tham gia của các đối thủ cạnh tranh khác vào khu vực thị trƣờng này. Nội dung của những thoả thuận này có thể liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau nhƣ về giá, hạ giá, điều kiện mua bán, bảo vệ khách hàng và phân chia thị trƣờng. Về nguyên tắc, những thoả thuận kiểu này đều bị pháp luật cấm và khi xuất hiện 17
  14. chúng bị tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, ở các nƣớc khác nhau có những dạng khác nhau về ngoại lệ của việc cấm này. 2. Việc sáp nhập (M&A) của nhiều doanh nghiệp là con đƣờng nhanh nhất để tạo khả năng độc quyền của một doanh nghiệp mới. Đây là vấn đề càng ngày càng trở nên trọng tâm của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh. Vì vậy hoạt động kiểm tra, giám sát, cấp phép, ngăn cản và thậm chí cƣỡng bức phân chia doanh nghiệp là mối quan tâm ngày càng lớn của các cơ quan chấp pháp. Sáp nhập doanh nghiệp đƣợc nói ở đây có thể đƣợc thực hiện theo chiều ngang, chiều dọc và hỗn hợp của các doanh nghiệp theo dấu hiệu về các quy trình kinh doanh. Việc sáp nhập doanh nghiệp có thể dẫn đến hậu quả và sự xuất hiện đột ngột (không thông qua sự gia tăng của hiệu quả kinh tế hay tăng trƣởng kinh tế hay mở rộng kinh doanh) của một doanh nghiệp độc quyền hoặc một doanh nghiệp lớn đến mức mà đột nhiên các doanh nghiệp khác mất đi năng lực cạnh tranh. Mặc dù, tự do khế ƣớc và tự do lập hội là nguyên tắc căn bản của cơ chế thị trƣờng song để duy trì cạnh tranh, mọi sự sáp nhập doanh nghiệp đều phải đƣợc giám sát. Sự giám sát đó có thể đƣợc thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau: - Thông báo. - Báo cáo. - Xin phép. - Cho phép. - Cấm sáp nhập và huỷ bỏ việc sáp nhập. Tiêu chí cơ bản để áp dụng các hình thức giám sát đó là tỷ lệ thị phần (tính theo doanh số hàng năm) hoặc sự lạm dụng sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp hình thành do sáp nhập trong thƣơng trƣờng. 3. Về lý thuyết cũng nhƣ thực tế, trên thƣơng trƣờng sẽ có những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và phát triển không ngừng mà không cần có sự 18
  15. trợ giúp đặc biệt của quyền lực công cộng, của chụp giật và của sự thiếu lành mạnh chúng cũng trở thành những doanh nghiệp khổng lồ hoặc có vị thế độc quyền. Đƣơng nhiên, pháp luật không thể cấm hay hạn chế sự phát triển lành mạnh đó. Song dƣới giác độ của cạnh tranh thì pháp luật phải tỉnh táo trƣớc nguy cơ lạm dụng sức mạnh cuả những doanh nghiệp này và phải xuất hiện nhƣ một sức mạnh vô hình để làm đối trọng với sức mạnh kinh tế và năng lực cạnh tranh của loại hình doanh nghiệp này để bảo toàn (nhƣ có thể) năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu. Trong bối cảnh nhƣ vậy, ngoài việc giám sát về sự lạm dụng sức mạnh kinh tế của các doanh nghiệp có vị trí độc quyền, Nhà nƣớc cần phải tạo điều kiện để nhiều doanh nghiệp mới gia nhập thƣơng trƣờng nhằm tìm cách phá vỡ thế mất cân sức trong cạnh tranh. Chính tại đây, ngƣời ta nói tới chức năng và nhiệm vụ kiểm soát độc quyền của Nhà nƣớc và pháp luật. Tóm lại, ngoài một số quy định về cơ chế áp dụng pháp luật và địa vị pháp lý của loại cơ quan đặc thù có trách nhiệm áp dụng pháp luật cạnh tranh thì những nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh (theo nghĩa rộng) bao gồm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh (vì ra đời trƣớc trong lịch sử nên đƣợc gọi là pháp luật cạnh tranh cổ điển hay theo nghĩa hẹp) và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh hay còn gọi là chống hoặc kiểm soát độc quyền. 1.2. Các quy định của pháp luật quốc tế về cạnh tranh 1.2.1. Các hệ thống pháp luật cạnh tranh điển hình 1.2.1.1 Hệ thống pháp luật cạnh tranh của Mỹ. Theo điều 1 của Đạo luật Sherman (Sherman Act) năm 1890, các thoả thuận nhằm hạn chế thƣơng mại sẽ bị cấm. Các thoả thuận có thể thể hiện dƣới bất kỳ hình thức nào, bộc lộ hoặc ngụ ý giữa hai hay nhiều ngƣời để hạn chế cạnh tranh; một sự liên kết là sự tiếp tục hợp tác trong việc hạn chế 19
  16. thƣơng mại và xuất hiện một âm mƣu khi hai hay nhiều ngƣời cùng chung mục đích để hạn chế thƣơng mại sẽ bị cấm theo luật này. Có hai sự kiện đáng chú ý, mà theo đó Toà án tối cao Mỹ đã giới thiệu cho nƣớc Anh lý thuyết nguyên tắc hợp lý “Rule of Reason” vào năm 1911 , theo đó, bị đơn muốn đƣợc miễn trừ việc áp dụng pháp luật chống hạn chế cạnh tranh theo nguyên tắc Rule of Reason phải có nghĩa vụ cung cấp các bằng chứng chứng minh hành vi của mình là “hợp lý”. Bên cạnh đó, một số nhóm hành vi nhƣ Cartel giá, Cartel quota...rõ ràng chống lại cạnh tranh, không thể biện hộ bằng bất cứ lý do nào sẽ đƣợc áp dụng theo nguyên tắc tự dạng (Perse Rule). Bất cứ nhà kinh doanh nào chỉ cần có hành vi đƣợc mô tả trong luật đều bị xử lý bởi pháp luật chống hạn chế cạnh tranh với nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan công quyền. [24, 24] 1.2.1.2 Hệ thống pháp luật cạnh tranh của Châu Âu. + Các hệ thống trung thành với nguyên tắc cấm đoán. Khuôn mẫu của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh trong những năm gần đây theo mẫu của Điều 85 và 86 của Hiệp định EC đƣợc thấy ở Bỉ, Hy Lạp, Ai Len, Italia, Tây Ban Nha. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh của các nƣớc này hầu hết phù hợp với điều 85 và 86 của Hiệp định EC ở nguyên tắc áp dụng pháp luật, theo đó, các hoạt động hạn chế cạnh tranh thể hiện dƣới các hình thức: Các thỏa thuận, các nghị quyết, các quyết định của các hiệp hội kinh doanh...đều bị cấm và vô hiệu ngay lập tức. Các ngoại lệ của sự cấm đoán đƣợc chấp nhận hoặc mang tính riêng lẻ trong hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan cạnh tranh hoặc đƣợc tập hợp lại trên cơ sở phân loại các thoả thuận hiện tại. Sự lạm dụng vị trí thống trị thị trƣờng đƣợc đánh giá rất khắt khe, bị pháp luật cấm và không có bất cứ ngoại lệ nào. 20
  17. + Các hệ thống trung thành với các nguyên tắc lạm dụng. Trong khi các quốc gia đƣợc đề cập ở trên - ít nhất cũng đã mở rộng phạm vi - cấm đoán hạn chế cạnh tranh bằng pháp luật và theo đó có thể nói rằng là trung thành với nguyên tắc cấm đoán thì một số các quốc gia trong EU nhƣ Đan Mạch, Anh, Hà Lan lại dựa vào việc mở rộng sự kiểm soát lạm dụng. Trong hệ thống pháp luật cạnh tranh của họ, sự cấm đoán chỉ đƣợc áp dụng đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh hiện tại mà nền tảng của nó có liên quan đến cố định giá. + Các hệ thống phối hợp cả hai nguyên tắc. Sự phối hợp phức tạp của nguyên tắc cấm đoán và nguyên tắc lạm dụng đƣợc tìm thấy trong pháp luật chống hạn chế cạnh tranh của Đức. Trong khi pháp luật của Đức cấm hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang - các thoả thuận và các hành động có liên quan khác “ tạo ra một mục đích chung” [Điều 1/1 của Luật chống hạn chế cạnh tranh 1990, abbr GWB] - thì nó lại bộc lộ sự phản ứng dễ dãi hơn đối với các hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc. Trong đó, chỉ có sự cố định giá và hạn chế điều kiện giao dịch bị cấm đoán một cách ngặt nghèo (Điều 15). Các trƣờng hợp hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc khác, chẳng hạn nhƣ các hợp đồng phân phối có điều kiện loại trừ chỉ là đối tƣợng của sự kiểm soát lạm dụng. Sự phối hợp giữa hai nguyên tắc này cũng đƣợc đƣa ra liên quan đến việc kiểm soát các doanh nghiệp có địa vị thống trị thị trƣờng. 1.2.1.3 Hệ thống pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ở các nƣớc Châu Á (trừ Nhật Bản). Hiện nay, 23 nƣớc Châu Á (trừ Nhật Bản) đều có pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh. Xem xét pháp luật chống hạn chế cạnh tranh theo trình tự thời gian và bỏ qua nƣớc Philipines - một quốc gia đã có luật về vấn đề này vào năm 1925, 21
  18. thì chúng ta thấy rằng Ấn Độ và Pakistan đã đề cập và xây dựng luật vào khoảng những năm 70, sau đó là Thái Lan, Hàn Quốc 1980 và Srilanka 1987. Cho đến những năm 1990, ở những nƣớc này đã xuất hiện sự đột phá trong việc xây dựng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh và sau đó Đài Loan đã ban hành luật vào năm 1991. Sự chuyển đổi của các nƣớc xã hội chủ nghĩa sang hệ thống kinh tế thị trƣờng dẫn tới việc ban hành luật về cạnh tranh ở một số nơi nhƣ: Trung Quốc, Mông Cổ vào năm 1993 và một số nƣớc thuộc Liên Xô cũ nhƣ Kazaxtan, Uzbekistan, Azetbaijan và Kyzgistan từ năm 1991 đến 1994. Hơn nữa, những nƣớc ban hành pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh đã tích cực sửa đổi luật của họ. Nhìn tổng thể, đã có nhiều biến động trong việc ban hành và sửa đổi pháp luật cạnh tranh ở châu Á vào đầu những năm 80 và từ đó cho đến nay, có một xu hƣớng ổn định là cố gắng củng cố lĩnh vực pháp luật này - một hiện tƣợng trở nên có ý nghĩa đặc biệt trong những năm 90. Các quốc gia này hoặc là đã trải qua một thời kỳ làm thuộc địa của các nƣớc thực dân trong lịch sử hoặc là có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trƣờng hoặc là phát triển kinh tế thị trƣờng ở trình độ thấp. Bởi vậy, pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh của họ đƣợc xây dựng theo khuôn mẫu của các nƣớc phát triển ở Châu Âu hoặc là Mỹ (Philipines, Hàn Quốc). Do đó, họ cũng sử dụng nguyên tắc cấm đoán và kiểm soát lạm dụng để chống lại các hiện tƣợng hạn chế cạnh tranh mặc dù sự phối hợp giữa hai nguyên tắc này ở các nƣớc là rất khác nhau. Vì là các quốc gia đi sau cho nên trong pháp luật của các quốc gia Châu Á về hạn chế cạnh tranh có những quy định không tìm thấy trong pháp luật về hạn chế cạnh tranh của các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Ở các nƣớc đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng, trong pháp luật chống hạn chế cạnh tranh của họ còn có những quy định hạn chế sự can thiệp chống lại cạnh tranh từ phía các cơ quan 22
  19. hành chính. Có thể nói, những quy phạm pháp luật đƣợc xây dựng để cấm độc quyền hành chính và lạm dụng quyền lực hành chính là sản phẩm lập pháp riêng có của các quốc gia này. Pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh ở các nƣớc này nghèo nàn và không hiệu quả khi so sánh với pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của chính họ. Thông qua việc phân tích chính sách cạnh tranh và phân loại các hệ thống pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ở một số quốc gia điển hình ở trên, chúng ta có thể nhận định: Một là: Hạn chế cạnh tranh là hiện tƣợng mang tính quy luật ở tất cả các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng. Bởi vậy, nguyên tắc cấm đoán và nguyên tắc lạm dụng đều đƣợc các quốc gia này sử dụng làm nền tảng cho thái độ ứng xử của mình trƣớc các hành vi hạn chế cạnh tranh, thể hiện thông qua hai nguyên tắc kỹ thuật trong pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh- nguyên tắc tự dạng (Perse Rule) và nguyên tắc hợp lý (Rule of Reason). Song cũng chính vì phải đối mặt với hiện tƣợng hạn chế cạnh tranh trong các bối cảnh khác nhau nên mức độ kết hợp giữa nguyên tắc cấm đoán và nguyên tắc lạm dụng trong chính sách cạnh tranh, giữa nguyên tắc tự dạng (Perse Rule) và nguyên tắc hợp lý (Rule of Reason) trong pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh cũng khác nhau nên đã hình thành các hệ thống pháp luật cạnh tranh theo khu vực địa lý do các điều kiện kinh tế tƣơng đồng và đồng thời tạo bản sắc riêng trong pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh của từng quốc gia. Bởi vậy, trƣớc xu hƣớng toàn cầu hoá của hoạt động thƣơng mại quốc tế đã làm xuất hiện nhu cầu tất yếu phải có một chính sách cạnh tranh toàn cầu và theo đó là một “luật chơi” chung trong hoạt động thƣơng mại quốc tế. Do đó, xây dựng pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật chống hạn chế cạnh 23
  20. tranh trong khuôn khổ cuả WTO là có cơ sở khi thiết lập không gian kinh tế chung đòi hỏi sự thống nhất trong tính đa dạng. Hai là: Nếu nhìn từ thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh thì pháp luật của Mỹ và của các nƣớc Tây Âu không có sự khác biệt lớn. Điều đáng chú ý là, nếu nhƣ ở các quốc gia Tây Âu sự phân hoá điều chỉnh pháp luật đối với các sắc thái của độc quyền đƣợc thể hiện trong luật vật chất thì ở Mỹ sự phân hoá điều chỉnh pháp luật đối với các sắc thái của độc quyền đƣợc thể hiện trong luật hình thức. Ba là: Trừ Nhật Bản, Hàn Quốc và Philipine có pháp luật chống hạn chế cạnh tranh theo mô hình của Mỹ, các nƣớc Châu Á khác có pháp luật chống hạn chế cạnh tranh theo mô hình của Châu Âu. 1.2.2 Quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh hiện đại đã đƣợc xây dựng vào giữa thế kỷ XIX bằng các án lệ của pháp luật nƣớc Pháp với tính cách là một loại hình mới của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng trên cơ sở những điều khoản chung của Bộ luật dân sự. . Bằng một loạt những điều đƣợc bổ sung, Công ƣớc Paris về quyền sở hữu công nghiệp [33] đã thiết lập các biện pháp bảo hộ quốc tế chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tiến trình này đã đƣợc bắt đầu bằng việc áp dụng nguyên tắc chế độ tối huệ quốc. Bƣớc tiếp theo là, việc xác định nghĩa vụ cho các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm xử lý các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh một cách có hiệu quả. Bƣớc phát triển thứ ba là, trong mẫu hình pháp luật hiện đại, phải bao gồm các điều khoản chung và liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh quan trọng nhất phải bị cấm. Điều cốt yếu của sự điều chỉnh pháp luật đã đƣợc thể hiện trong Điều 10bis Công ƣớc Paris. Nội dung của nó đã trở thành một định nghĩa quốc tế: “Bất cứ hành vi cạnh tranh nào đi ngƣợc lại các hành động trung thực, thiện 24
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2