intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người không được quyền hưởng di sản theo BLDS năm 2015

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

26
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về người thừa kế và người không được hưởng di sản thừa kế và thực tiễn áp dụng; để từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người không được quyền hưởng di sản theo BLDS năm 2015

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ HÀ ANH NGƢỜI KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ HÀ ANH NGƢỜI KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG CHÂM Hà Nội – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN VŨ HÀ ANH
  4. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ ........................................................................... 7 1.1.Lý luận chung về người thừa kế.................................................................. 7 1.2 Lý luận chung về người không được hưởng di sản thừa kế...................... 13 1.3.Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản và mối quan hệ với quyền tự định đoạt của người lập di chúc ............................................... 21 Chƣơng 2 NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 ................................................ 27 2.1. Lịch sử hình thành pháp luật Việt Nam về người không được quyền hưởng di sản .................................................................................................... 27 2.2. Các quy định về người không được quyền hưởng di sản trong BLDS 2015 và hậu quả pháp lý.................................................................................. 39 Chƣơng 3 VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG QUYỀN DI SẢN ................................................. 66 3.1. Vướng mắc và thực tiễn áp dụng pháp luật về người không được quyền hưởng di sản .................................................................................................... 66 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về người không được quyền hưởng di sản ........................................................... 80 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 92
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật dân sự của Việt Nam được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và nhân thân trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và tạo ra hành lang pháp lý cho các giao lưu dân sự được ổn định, góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong BLDS, thừa kế là một trong những chế định pháp luật có vai trò quan trọng trong việc dịch chuyển tài sản của người chết để lại cho những người thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Thừa kế ngày càng có ý nghĩa trong nền kinh tế thị trường, khi tài sản của người dân tăng lên đáng kể về cả số lượng, chất lượng và cùng với nhu cầu để lại tài sản của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau, tài sản của cha mẹ để lại cho con cái, ông bà để lại cho cháu… cũng như để bảo vệ quyền, lợi ích của công dân trong việc dịch chuyển tài sản này cần có quy phạm pháp luật tương ứng và phù hợp để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của người để lại di sản cũng như người thừa kế trong quan hệ này. Chế định về thừa kế trong BLDS 2015 hiện nay được quy định khá đầy đủ nhưng khi áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về thừa kế thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp đó còn gặp nhiều vướng mắc bởi đa số các vụ việc về thừa kế đều có những tình tiết tương đối phức tạp, trong khi đó quy định của pháp luật trong việc điều chỉnh quan hệ chưa thật sự đầy đủ và mang tính cụ thể nên quá trình áp dụng pháp luật về thừa kế để giải quyết các tranh chấp còn gặp nhiều khó khăn. Những tranh chấp về thừa kế hiện nay, phần lớn đều liên quan đến việc xác định người thừa kế theo luật, người không được quyền hưởng di sản, người được hưởng thừa kế thế vị... Tuy nhiên những quy định của pháp luật về những 1
  7. trường hợp trên lại chưa đầy đủ, hoặc có quy định nhưng chưa rõ ràng và không có văn bản hướng dẫn áp dụng, dẫn tới nhiều vụ việc dù đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhưng còn gây tranh cãi; chính điều này gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ thừa kế đôi khi còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong lĩnh vực thừa kế. Thực tế cho thấy, để có thể đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của cá nhân có tài sản trong việc dịch chuyển tài sản của họ cho những người thừa kế, trong chế định về thừa kế bên cạnh những quy định của pháp luật cho phép công dân có quyền được hưởng di sản từ người để lại di sản và quyền để lại tài sản của mình cho những người thừa kế, thì kế thừa quy định của Điều 643 BLDS năm 2005, tại Điều 621 BLDS năm 2015 quy định về người không có quyền hưởng di sản là một chế tài áp dụng đối với những hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của người để lại di sản và của những người thừa kế khác. Trong điều luật trên, ngoài việc thể hiện sự lên án, cái nhìn nghiêm khắc của nhà nước và xã hội đối với người thừa kế không có quyền được hưởng di sản, điều luật còn thể hiện tính nhân văn tính giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của công dân. Từ lý do trên mà tôi lựa chọn đề tài "Ngƣời không đƣợc quyền hƣởng di sản theo BLDS năm 2015" làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về khoa học pháp lý nói chung và đặc biệt là nghiên cứu về các vấn đề trong lĩnh vực thừa kế nói riêng. Trong đó có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế có nội dung nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế như: Luật sư Lê Kim Quế có cuốn sách "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế"; Tiến sĩ Đinh Văn Thanh và Luật sư Trần Hữu Biền có cuốn sách "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế"; Tiến sĩ Phùng Trung Tập có hai cuốn sách "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến nay" và "Luật thừa kế Việt Nam"; Tiến sĩ 2
  8. Nguyễn Ngọc Điện có cuốn sách "Bình luận khoa học về thừa kế trong BLDS Việt Nam". Ngoài ra, còn có những bài luận văn như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Bắc về "Vấn đề thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Tuấn về "Những quy định chung về quyền thừa kế trong BLDS Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Duy Thanh về "Chế định thừa kế trong BLDS Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Chế Mỹ Phương Đài về "Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ của Lê Đức Bền "Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam"... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành như: Tiến sỹ Phùng Trung Tập có bài "Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại"- Tạp chí Toà án số 24/2005; tác giả Thái Công Khanh có bài "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện điều 679 BLDS về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16 năm 2006… Nhìn chung, những công trình nghiên cứu và các bài viết của các tác giả nêu trên chủ yếu mới dừng lại ở phạm vi phân tích một số quy định về thừa kế trong Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 hay trong BLDS năm 2005 và không đề cập đến quy định của BLDS 2015 do thời điểm đó BLDS 2015 chưa có hiệu lực pháp luật. Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Về quy định của pháp luật liên quan đến người thừa kế không có quyền hưởng di sản, trong một số đề tài nghiên cứu, bài viết có đề cập đến nội dung trên nhưng chủ yếu được nghiên cứu trên phạm vi rộng, chưa đi sâu phân tích và làm rõ những nội dung quy định tại điều luật, đồng thời chưa nói đến quy 3
  9. định của BLDS 2015. Với đề tài " Ngƣời không đƣợc quyền hƣởng di sản theo BLDS năm 2015", tác giả chỉ đi sâu phân tích, làm sáng tỏ bản chất và các quy định của BLDS năm 2015 (có đối chiếu với quy định BLDS trước đây) với mục đích làm rõ và đưa ra hướng hoàn thiện quy định về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về người thừa kế và người không được hưởng di sản thừa kế và thực tiễn áp dụng; để từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này. - Nhiệm vụ nghiên cứu, từ mục đích nghiên cứu ở trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về người thừa kế và người không được hưởng di sản thừa kế; + Khái quát lịch sử hình thành pháp luật Việt Nam về người không được quyền hưởng di sản qua các thời kỳ; + Phân tích các quy định về người không được quyền hưởng di sản trong Bộ luật Dân sự 2015; + Khái quát thực tiễn áp dụng pháp luật về người không được quyền hưởng di sản; + Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về người không được quyền hưởng di sản. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận pháp luật về người thừa kế, người không được quyền hưởng di sản, những quy định cụ thể và thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, cùng với quan điểm và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về người không được quyền hưởng di sản nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này. 4
  10. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn ở quy định của pháp luật về người không được hưởng quyền di sản và một số tình huống thực tế áp dụng quy định pháp luật về người không được quyền hưởng di sản. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Về cơ sở phương pháp luận, luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, định hướng của Đảng, Nhà nước về pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống có độ tin cậy như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn. Phương pháp khảo sát, đánh giá tài liệu, quan sát, kiểm chứng để nghiên cứu, phân tích thực trạng các vấn đề nghiên cứu, xác định rõ những nguyên nhân làm cơ sở đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về người không được quyền hưởng di sản. Phương pháp thống kê, so sánh nhằm sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, so sánh, tổng kết và rút ra các kết luận làm cơ sở đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về người không được quyền hưởng di sản. 6. Kết quả nghiên cứu mới và giá trị ứng dụng của đề tài Đề tài liên quan đến lĩnh vực thừa kế từ trước đến nay đã có nhiều công trình mang tích chất toàn diện. Do vậy việc nghiên cứu vấn đề về thừa kế trong phạm vi hẹp sẽ có giá trị trong việc nhìn nhận và đề xuất những vướng mắc mà pháp luật về quy định người không được quyền hưởng di sản. Những vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với tình hình thực tế; luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào người thừa kế không có quyền hưởng di sản sự khác nhau giữa người được hưởng với người không được hưởng di sản để đi đến cách hiểu cụ thể về những người không có quyền hưởng di sản theo quy định mới hiện hành – BLDS 2015. Từ việc phân tích điều luật nêu lên những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đưa 5
  11. ra một vài ý kiến đóng góp hoàn thiện đối với quy định về người không được quyền hưởng di sản theo quy định của BLDS 2015. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Lý luận chung về thừa kế và người không được hưởng di sản thừa kế Chương 2: Người không được quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 Chương 3: Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người không được hưởng quyền di sản 6
  12. Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƢỜI THỪA KẾ VÀ NGƢỜI KHÔNG ĐƢỢC HƢỞNG DI SẢN THỪA KẾ 1.1.Lý luận chung về ngƣời thừa kế 1.1.1.Khái niệm người thừa kế Người thừa kế là một khái niệm đã xuất hiện từ khi xuất hiện chế định pháp luật thừa kế. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, pháp luật thừa kế Việt Nam chưa có quy định thế nào là người thừa kế. Về người thừa kế, qua các chế độ xã hội khác nhau nhưng cùng theo quan điểm chung là những người đó được hưởng di sản do người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật. Theo đó, người thừa kế theo di chúc là người được hưởng di sản của người chết để lại theo di chúc do người lập di chúc chỉ định, định đoạt trước khi họ chết. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức tùy theo sự định đoạt của người để lại di chúc. Người thừa kế có thể là người có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người chết hoặc không có các mối quan hệ này. Mặt khác, phạm vi những người thừa kế theo pháp luật còn phụ thuộc vào quan điểm lập pháp của từng thời kỳ lịch sử của một quốc gia nhất định. Cụ thể: Ở Việt Nam trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến với ý thức hệ bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột, giai cấp thống trị thường đề cao quyền sở hữu và xem nó là quyền thiêng liêng, luôn được quan tâm nhằm duy trì gia đình nội tộc. Do đó, quan hệ huyết thống luôn được đề cao và quan trọng nhất trong việc xác định những người có quyền thừa kế. Dưới chế độ dân chủ, nhân dân ta kể từ năm 1945 đến nay, người thừa kế theo pháp luật đã được mở rộng (nếu xét theo quan hệ huyết thống). Pháp luật thừa 7
  13. kế nước ta, đã dần xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến trong việc xác định người thừa kế. Quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, giữa các con trong gia đình đã được pháp luật quy định, loại bỏ tư tưởng gia trưởng, tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của vợ góa và con gái đã kết hôn với người khác nhưng vẫn thuộc diện thừa kế của người chồng đã chết. Hiện nay, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là người thừa kế theo hàng thừa kế, khi đó trình tự thừa kế sẽ do pháp luật quy định. Đó là những người có một trong ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại disản. Theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý làm chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội năm 1998 thì chỉ có chế định thừa kế là "được hưởng tài sản của cải do người chết để lại cho" [16, tr 35] và Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2003 quy định thừa kế là "hưởng của người chết để lại cho" [47, tr 41] chứ không có định nghĩa thế nào là người thừa kế. Khái niệm người thừa kế đã được giải thích trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, 1999 của Trường Đại học Luật Hà Nội có giải thích về người thừa kế là "Người được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [40, tr 15]. Hiện nay, trong BLDS năm 2005 có quy định về người thừa kế như sau: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế (Điều 635 BLDS 2005). Kế thừa quy định này, tại Điều 613 BLDS 2015BLDS 2015 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa 8
  14. kế”. BLDS 2015 quy định về cơ bản giống như BLDS 2005, song chỉ đề cập đến trường hợp không phải là cá nhân mà không liệt kê các trường hợp như cơ quan, tổ chức như BLDS 2005. Tuy nhiên, quy định của cả hai BLDS trên đều không phải là một khái niệm mà đó là quy định về điều kiện của người thừa kế. Người thừa kế được hưởng di sản hợp pháp mà người để lại di sản thừa kế khi đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định. Việc định đoạt di sản hợp pháp của mình đối với người để lại di sản thừa kế hợp pháp của mình có thể được thông qua di chúc và/hoặc theo pháp luật. Cụ thể: * Ngƣời thừa kế theo di chúc Người thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người có di sản nên phạm vi những người được hưởng di sản theo di chúc rộng hơn rất nhiều so với người được hưởng di sản theo pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ cá nhân nào, nếu được chỉ định trong di chúc mà không cần xét đến những quan hệ khác của họ đối với người để lại di sản. Người thừa kế theo di chúc có thể là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản hoặc không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản, pháp luật không quy định phạm vi những người được hưởng thừa kế theo di chúc mà việc được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của họ để lại cho những người thừa kế. Phần di sản mà mỗi một người thừa kế được hưởng theo di chúc được hưởng có thể bằng nhau, nhiều hơn hoặc ít hơn nhau, điều này tùy thuộc vào việc phân định di sản của người lập di chúc định đoạt. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành thì có những trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – tức là dù người để lại di sản có chia tài sản trong di chúc cho những người này hay không thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được 9
  15. người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, đó là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động (trừ trường hợp người này từ chối nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản) (Điều 644 BLDS 2015). * Ngƣời thừa kế theo quy định của phápluật Nếu người thừa kế theo di chúc là cá nhân bất kỳ ai, là người thuộc diện hay không không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản kể cả cơ quan, tổ chức được hưởng di sản do ý chí của người để lại di sản quyết định thì người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế theo luật được quyền hưởng di sản một cách bình đẳng, ngang nhau giữa những người thừa kế cùng hàng. Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015BLDS năm 2005 quy định người thừa kế theo luật được quy định theo thứ tự sau: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Nguyên tắc khi chia tài sản theo luật đó là: Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản (Khoản 2 Điều 651 BLDS 2015). 10
  16. Từ những lý luận về người thừa kế như đã trình bày, theo quan điểm tác giả, người thừa kế có thể được định nghĩa như sau: Người thừa kế là chủ thể được quyền hưởng di sản hợp pháp của người chết để lại theo di chúc và/hoặc theo pháp luật. 1.1.2 Đặc điểm pháp lý của người thừa kế Thứ nhất, như phân tích ở phần khái niệm, người thừa kế có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật chỉ có cá nhân, không có tổ chức – tức là theo quy định của pháp luật dân sự về hàng thừa kế thì có ba hàng thừa kế đều là cá nhân, là những người có quan hệ huyết thống, thân thích hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản; chính bởi ba yếu tố trên nên vấn đề thừa kế theo pháp luật là tổ chức không thể đặt ra. Khác với người thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc sẽ do chính người có di sản để lại quyết định chủ thể được hưởng di sản của mình nên thực tế và theo quy định của pháp luật thì chủ thể hưởng di sản của người đó ngoài cá nhân, còn có thể là tổ chức. Điểm lưu ý là điều kiện để hưởng di sản thừa kế dù cá nhân hay tổ chức được hưởng di sản thì phải còn sống, phải còn tồn tại tại thời điểm mở thừa kế [46, tr 22, 23]. Thứ hai, người thừa kế là đối tượng được hưởng di sản có thể được hưởng theo di chúc và/hoặc được hưởng theo pháp luật. Tức là nếu như người để lại di sản thừa kế mà có lập di chúc nhằm định đoạt di sản hợp pháp của mình mà di chúc đó hợp pháp thì di sản sẽ được phân chia theo di chúc. Ngược lại, nếu di chúc không hợp pháp, không có hiệu lực một phần hoặc toàn bộ thì phần không có hiệu lực hay toàn bộ di chúc sẽ được chia theo pháp luật – tức là được chia theo hàng thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Một điểm lưu ý đối với thừa kế theo di chúc tức là có những trường hợp dù người để lại di sản thừa kế không cho họ hưởng di sản, không định đoạt phần di sản hợp pháp của họ cho những người như con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà 11
  17. không có khả năng lao động thì họ vẫn được hưởng hai phần ba suất thừa kế mà không hề ảnh hưởng vào việc di chúc có hay không cho họ hưởng (Điều 644 BLDS 2015). Quy định này là hợp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người thân thích của người để lại di sản thừa kế [45, tr 34]. 1.1.3 Vị trí, vai trò của người thừa kế trong quy định của pháp luật về thừa kế Theo quy định của pháp luật về thừa kế thì người thừa kế có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, cụ thể: Đối với người để lại di sản thừa kế, chỉ khi có người thừa kế thì họ mới có chủ thể để lại di sản thừa kế, để định đoạt, cho hưởng di sản hợp pháp của mình. Nếu không có những người thừa kế thì di sản đó sẽ thuộc về nhà nước. Điều này nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của người để lại di sản thừa kế, để họ có quyền lựa chọn người phù hợp, người xứng đáng, người mà họ mong muốn trao di sản của mình cho những người đó. Đối với người thừa kế, theo quy định hiện hành thì không phải chủ thể nào cũng có quyền được hưởng di sản thừa kế của người để lại di sản, bởi nếu họ là người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Tuy nhiên, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì họ vẫn được hưởng di sản của người đó (Điều 621 BLDS 2015). Đây là quy định hợp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của 12
  18. chính người để lại di sản, pháp luật để họ lựa chọn – tôn trọng quyền tự quyết, định đoạt di sản hợp pháp của mình. Vì vậy, không phải chủ thể nào cũng được hưởng di sản thừa kế; họ chỉ được hưởng khi không vi phạm các quy định của pháp luật như đã trình bày ở trên. Cuối cùng, đối với nhà nước, nếu không có người thừa kế hay người thừa kế không đáp ứng đủ điều kiện như phân tích thì di sản thuộc về nhà nước hay nếu di sản của người để lại di sản thừa kế là di sản bất hợp pháp thì chủ thể hưởng di sản đó chính là nhà nước. Khi đó, di sản được sung công quỹ và được sử dụng vào mục đích dân sinh, mục đích chung của nhà nước. 1.2 Lý luận chung về ngƣời không đƣợc hƣởng di sản thừa kế 1.2.1 Khái niệm, ý nghĩa về ngƣời không đƣợc hƣởng di sản thừa kế 1.2.1.1 Khái niệm về người không được hưởng di sản thừa kế Hưởng di sản thừa kế là quyền của công dân luôn được pháp luật ghi nhận, từ Hiến pháp đến những bộ luật, văn bản luật chuyên ngành.Trên cơ sở những căn cứ pháp lý đó, quyền hưởng di sản thừa kế, quyền được pháp luật bảo vệ khi những lợi ích đó của công dân bị người khác xâm phạm. Bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong việc hưởng di sản thừa kế, trường hợp người không có quyền hưởng di sản là người thừa kế có quyền hưởng di sản nhưng họ đã có những hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức như Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm 13
  19. hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản (Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015). (Tuy nhiên, những người này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc (Khoản 2 Điều 621 BLDS 2015)). Vì thế nên họ bị tước quyền hưởng di sản và không được quyền hưởng di sản của người chết để lại [50, tr 48]. Thuật ngữ "người không được quyền hưởng di sản" được quy định trong BLDS ở nước ta nhưng chưa có định nghĩa thế nào là "người không được quyền hưởng di sản". Tuy nhiên, người không được hưởng di sản có thể là người được hưởng thừa kế theo di chúc và/hoặc là người được hưởng thừa kế theo pháp luật. Họ đều là những người đáng ra được hưởng thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật nhưng do họ vi phạm các quy định mà pháp luật quy định với những người để lại di sản nên họ bị tước quyền hưởng di sản đáng lẽ được hưởng của mình. Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra định nghĩa về người không được hưởng di sản như sau: Người không được hưởng di sản là những người đáng ra được hưởng di sản do người chết để lại theo pháp luật và/hoặc theo di chúc nhưng vì có hành vi trái quy định của pháp luật đối với người để lại di sản nên không được quyền hưởng di sản do người chết để lại. 1.2.1.2 Ý nghĩa Thứ nhất, quy định về người không được hưởng di sản thừa kế định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người để lại di sản thừa kế; bảo vệ họ tức là họ được quyền không cho những người có hành vi không đúng mực với mình hưởng di sản. Đồng thời, quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như việc thống nhất quản lí bằng pháp luật, Nhà nước ta đã ra quy định về vấn đề người không được quyền hưởng di sản. Thứ hai, quy định về người không được hưởng di sản thừa kế nhằm giúp cho những người để lại di sản được lựa chọn việc có hay không cho 14
  20. những người đáng lẽ không được hưởng di sản theo quy định của pháp luật được hưởng di sản hợp pháp của mình. Pháp luật quy định nhằm tôn trọng quyền tự quyết và lợi ích của chính những người có di sản. Hay nói cách khác, quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của cá nhân, đồng thời đảm bảo nguyên tắc giữ gìn trật tự, thuần phong mỹ tục, đạo đức gia đình, tình yêu thương giữa các thành viên trong gia đình với nhau; bởi thừa kế là một quan hệ mang tính đạo đức và phong tục tập quán. Trước đây khi chưa có pháp luật thì đạo đức và phong tục tập quán làm luôn cả nhiệm vụ của pháp luật trong việc giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội theo ý muốn chủ quan, theo phong tục tập quán nơi họ sinh sống và theo những gì mà họ cho là đúng. Pháp luật và đạo đức, phong tục tập quán có mối quan hệ qua lại vô cùng chặt chẽ. Pháp luật được xây dựng dựa trên đạo đức và những phong tục tập quán tốt đẹp. Theo đó, khi những người lẽ ra được hưởng thừa kế nhưng lại có hành vi bất xứng thì việc họ không được quyền hưởng thừa kế là một việc phù hợp với đạo đức và phong tục tập quán của chính chúng ta [52]. Thứ ba, quy định này nhằm giúp cho cơ quan có thẩm quyền khi xử lý những vụ việc liên quan đến thừa kế, cụ thể là đối với người không được hưởng di sản thừa kế nhưng vẫn yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp, đòi di sản thừa kế mà theo họ lẽ ra thuộc về mình. Dựa vào quy định này của pháp luật mà cơ quan có thẩm quyền có căn cứ giải quyết phù hợp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của các bên và bảo vệ trật tự pháp luật của nhà nước. 1.2.2 Phân loại Những người không được hưởng di sản thừa kế là những người có mối liên hệ với nhau về việc hưởng di sản của nhau song do vi phạm các quy định của pháp luật mà không còn được hưởng di sản thừa kế nữa. Vì thế, xác định những người không được hưởng di sản thừa kế có thể xác định theo hai 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2