intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu hướng hoàn thiện

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

23
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ vai trò của thẻ tín dụng trong các giao dịch thanh toán phi tiền mặt, những khía cạnh pháp lý nảy sinh giữa các chủ thể liên quan để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển của thẻ tín dụng trong nền kinh tế ở nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu hướng hoàn thiện

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH THẮNG NHỮNG QUY ĐỊNH CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG VÀ XU HƢỚNG HOÀN THIỆN CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 60.38.50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ HỒNG HẠNH HÀ NỘI - NĂM 2007 1
  2. MỤC LỤC Trang Mục lục ........................................................................................................ 4 Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt ............................................................ 7 Danh mục các hình vẽ, đồ thị ........................................................................ 8 MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 9 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG................ 11 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG ......................................... 11 1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển ............................................................ 11 1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới ............................................ 11 1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam .......................................... 13 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam ............................. 15 1.1.2.1. Khái niệm thẻ tín dụng ....................................................................... 15 1.1.2.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng..................................................................18 1.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG ......................................22 1.2.1. Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng Thẻ tín dụng ở Việt Nam ........... 22 1.2.2. Các quan hệ xã hội liên quan đến Thẻ tín dụng ở Việt Nam .................... 25 1.2.2.1. Nhóm các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ tín dụng ....... 25 1.2.2.2. Nhóm các quan hệ liên quan gián tiếp đến hoạt động kinh doanh thẻ .....30 1.2.3. Sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng ........................................................................................ 33 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........ 36 2.1. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG PHÁT HÀNH, THANH TOÁN VÀ SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG ......... 36 2.1.1. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và TCPHT .............................................. 36 2.1.1.1. Điều kiện với chủ thẻ tín dụng .......................................................... 36 2.1.1.2. Điều kiện với TCPHT ......................................................................40 2.1.1.3. Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ........................................................ 41 2.1.2. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và ĐVCNT ............................................. 46 2
  3. 2.1.3. Quan hệ giữa ĐVCNT và TCTTT ........................................................... 48 2.1.3.1. Điều kiện đối với ĐVCNT: ................................................................ 48 2.1.3.2. Điều kiện đối với TCTTT: .................................................................49 2.1.3.3. Hợp đồng thanh toán thẻ giữa ĐVCNT và TCTTT: ........................... 50 2.1.4. Quan hệ giữa Tổ chức thanh toán trung gian với các TCPHT, TCTTT ........ 51 2.1.5. Quan hệ giữa Tổ chức thẻ quốc tế với các TCPHT, TCTTT Việt Nam........ 52 2.2. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG ..................... 54 2.2.1. Các quy định về cho vay và bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay ........ 54 2.2.2. Các quy định về quản lý hoạt động thanh toán ........................................ 57 2.2.3. Các quy định về quản lý ngoại hối .......................................................... 60 2.2.4. Các quy định về cạnh tranh .....................................................................63 2.2.5. Các quy định về phòng ngừa gian lận và tội phạm thẻ ............................. 65 Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 68 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG 68 3.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CHI PHỐI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG 70 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG 71 3.3.1. Thống nhất hóa các quy định về phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng trong một văn bản 71 3.3.2. Về vấn đề xây dựng và chia sẻ thông tin tín dụng 75 3.3.3. Về việc phát huy năng lực hoạt động của các hiệp hội ngành nghề 76 3.3.4. Vấn đề phân định trách nhiệm gánh chịu rủi ro 76 3.3.5. Về vấn đề tội phạm thẻ 78 3.3.6. Xây dựng các quy tắc và tiêu chuẩn an toàn cho các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ tín dụng 79 3.3.7. Tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thẻ tín dụng 79 3
  4. KẾT LUẬN 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 PHỤ LỤC I. Khái quát tình hình kinh doanh Thẻ tín dụng quốc tế 88 PHỤ LỤC II. Tình hình sử dụng thẻ tín dụng quốc tế tại Việt Nam 89 PHỤ LỤC III. Quy trình phát hành và sử dụng Thẻ tín dụng tại Việt Nam 91 PHỤ LỤC IV. Các loại Thẻ tín dụng tại Việt Nam 93 4
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ACB Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Á Châu ATM Máy rút tiền tự động (Automatic Teller Machine) BIDV Ngân hàng đầu tƣ và phát triển Việt Nam BLDS Bộ luật Dân sự ĐVCNT Đơn vị chấp nhận thẻ EDC Máy thanh toán thẻ (máy cà thẻ) điện tử EIB Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam Mastercard Tổ chức thẻ quốc tế Mastercard NHNN Ngân hàng Nhà nƣớc Quy chế 20 Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của NHNN ngày 15-05-2007 Quy chế 371 Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN của NHNN ngày 19-10-1999 TCPHT Tổ chức phát hành thẻ TCTTT Tổ chức thanh toán thẻ TCTQT Tổ chức thẻ quốc tế VIB Ngân hàng Thƣơng mại Cổ phần Quốc Tế Việt Nam Visacard Tổ chức thẻ quốc tế Visacard 5
  6. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU STT Tên Bảng tổng kết và dự báo về doanh số, thị phần thẻ Visa, Bảng 1.1 MasterCard 1995-2010 Bảng 2.1 Số lƣợng tổ chức tham gia thị trƣờng thẻ tín dụng Hình 2.1 Tình hình phát hành thẻ quốc tế đến tháng 6 năm 2006 Hình 2.2 Doanh số sử dụng thẻ quốc tế tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2006 Hình 2.3 Doanh số thanh toán thẻ tín dụng quốc tế 6 tháng đầu năm 2006 Hình 3.1 Quy trình phát hành thẻ Hình 3.2 Quy trình thanh toán thẻ trực tiếp tại ĐVCNT Hình 3.3 Quy trình thanh toán thẻ qua mạng Internet Hình 3.4 Quy trình giao dịch với việc rút tiền mặt 6
  7. MỞ ĐẦU I. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Dịch vụ thẻ tín dụng là một loại hình dịch vụ tƣơng đối đặc biệt, chủ yếu do các Ngân hàng thƣơng mại cung cấp. Tính chất đặc biệt này thể hiện ở việc các tổ chức tín dụng đã kết hợp hai nghiệp vụ cơ bản của mình là hoạt động thanh toán và hoạt động cấp tín dụng vào một loại hình dịch vụ. Tƣơng ứng với sự kết hợp này, chế định pháp luật về thẻ tín dụng cũng phải đƣợc chắt lọc từ những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán và những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, mặc dù các ngành luật có đối tƣợng điều chỉnh và phƣơng pháp điều chỉnh riêng, nhƣng giữa chúng luôn tồn tại những mối liên hệ tất yếu. Pháp luật về thẻ tín dụng - một bộ phận của ngành luật ngân hàng – cũng không phải là một ngoại lệ, đặc biệt là trong mối liên hệ với pháp luật dân sự, pháp luật thƣơng mại, pháp luật quản lý hành chính nhà nƣớc, tƣ pháp quốc tế, pháp luật hình sự... Không chỉ liên quan đến các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nƣớc, pháp luật về thẻ tín dụng còn liên quan mật thiết đến các điều ƣớc quốc tế; liên quan đến những thông lệ, tập quán trong giao dịch quốc tế về thẻ tín dụng và liên quan đến những quy tắc, quy định của các tổ chức thẻ quốc tế. Phần lớn những quy phạm này đã đƣợc thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, sự ảnh hƣởng của chúng đối với Việt Nam là không thể tránh khỏi. Nhƣ vậy, pháp luật về thẻ tín dụng đòi hỏi một sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố kể trên, tạo thành một khung pháp lý hoàn chỉnh và đầy đủ. Về mặt thực tế, thẻ tín dụng đã trở thành một phƣơng tiện thanh toán không dùng tiền mặt hữu hiệu nhất của các nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cũng không tránh khỏi quy luật đó. Tuy nhiên, để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị trƣờng thẻ tín dụng thì cần phải xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, bảo đảm khả năng thích ứng với sự biến động của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng. Trong khi đó ở Việt Nam hầu nhƣ chƣa có một công trình luật học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về pháp luật liên quan đến thẻ tín dụng. 7
  8. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề về thẻ tín dụng đang là một nhu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. II. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới, việc nghiên cứu về thẻ tín dụng không còn là điều xa lạ. Các tổ chức thẻ quốc tế nhƣ Visa, MasterCard, American Express, JCB, Diner Club…đã tổ chức nhiều chƣơng trình nghiên cứu, nhiều diễn đàn, chƣơng trình đào tạo… về thẻ tín dụng. Ở Việt Nam, thẻ tín dụng nói riêng và thẻ thanh toán nói chung vẫn còn khá mới mẻ nhƣng pháp luật hiện hành cũng đã có quy định về lĩnh vực này, đó là: Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của NHNN ngày 15-05-2007. Bên cạnh đó, các cuộc hội thảo về thẻ thanh toán (bao gồm cả thẻ tín dụng) cũng thƣờng xuyên đƣợc tổ chức nhƣ: Hội thảo “Công nghệ thông tin với mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam” do Cục Công nghệ Tin học Ngân hàng (Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam) và Tập đoàn dữ liệu Quốc tế (IDJ) phối hợp tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 15 và 16-6-2004, Hội thảo: “Quản lý rủi ro và giả mạo thẻ” do Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam phối hợp với Tổ chức thẻ quốc tế MasterCard tổ chức vào ngày 14-12-2005, Hội thảo “Thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực Chính phủ: Giải pháp thẻ thương mại” do Ngân hàng Nhà nƣớc tổ chức vào ngày 24-3-2006, Hội thảo “Các biện pháp phòng ngừa gian lận thẻ” do Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam tổ chức vào ngày 07-4-2006… Một số học giả cũng đã đi sâu nghiên cứu về thẻ thanh toán nhƣ: - Tác giả Nguyễn Danh Lƣơng với Luận án Tiến sĩ kinh tế: “Những giải pháp nhằm phát triển thanh toán thẻ ở Việt Nam”. - Tác giả Trần Hoàng Anh với Luận văn Thạc sĩ: “Khảo sát thị trường thẻ tín dụng tại Tp.Hồ Chí Minh”. - PGS.TS Lê Văn Tề, Thạc sĩ Trƣơng Thị Hồng với đề tài “Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ thanh toán tại Việt Nam”. 8
  9. - Tác giả Phạm Danh Chƣơng với Luận văn Thạc sĩ luật học: “Một số khía cạnh pháp lý về thẻ thanh toán và thực tiễn điều chỉnh pháp luật về thẻ thanh toán ở Việt Nam hiện nay”. Một số khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp của các sinh viên Học viện Ngân hàng cũng đề cập tới vấn đề này. Ngoài ra, cũng có một số bài viết về thẻ thanh toán trên tạp chí, báo chuyên ngành nhƣ Tạp chí Ngân hàng, Thời báo Ngân hàng, các Báo điện tử trên mạng Internet... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu phần lớn chỉ xem xét thẻ từ góc độ kinh tế, cụ thể là quan hệ thanh toán, tín dụng… chƣa đi sâu nghiên cứu và đƣa ra các giải pháp cụ thể về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu này cũng chỉ tìm hiểu chung về thẻ thanh toán mà chƣa đi sâu nghiên cứu thẻ tín dụng. III. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ vai trò của thẻ tín dụng trong các giao dịch thanh toán phi tiền mặt, những khía cạnh pháp lý nảy sinh giữa các chủ thể liên quan để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển của thẻ tín dụng trong nền kinh tế ở nƣớc ta. Để thực hiện mục đích trên, Luận văn đề ra các mục tiêu sau: - Khảo sát và phân tích quy trình giao dịch phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ tín dụng; - Tập hợp, phân loại và phân tích bản chất pháp lý của các mối quan hệ pháp luật về thẻ tín dụng; - Xem xét bản chất mối quan hệ giữa khách hàng, các chủ thể phát hành thẻ, các chủ thể thanh toán thẻ và Nhà nƣớc từ các góc độ khác nhau nhƣ: từ góc độ pháp luật thƣơng mại, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật ngân hàng và tƣ pháp quốc tế; - Phân tích những cơ sở pháp lý của mối quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng ở Việt Nam, chỉ ra đƣợc những khoảng trống và những bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề này; 9
  10. - Luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện những quy định cơ bản về thẻ tín dụng. IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ một bản Luận văn Thạc sĩ với một đề tài mới, với khả năng nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế, công trình nghiên cứu này chƣa thể bao quát hết đƣợc các vấn đề pháp lý về thẻ tín dụng mà chỉ dừng lại ở những tiếp cận ban đầu và các giải pháp mang tính gợi mở. Luận văn không nhằm cung cấp tất cả các vấn đề pháp lý liên quan tới thẻ tín dụng mà chỉ nhằm giới thiệu về thẻ tín dụng và nghiên cứu một số vấn đề pháp lý cơ bản cần đặt ra đối với thẻ tín dụng. Luận văn cũng đƣa ra một cách tổng quát về sự phát triển của thẻ tín dụng và thực trạng điều chỉnh pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó Luận văn cũng đƣa ra một số gợi ý và đề xuất một vài vấn đề chủ yếu để hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh về thẻ tín dụng và bảo đảm cho khung pháp luật đó đƣợc khả thi trên thực tế. V. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền tảng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phân tích, chứng minh, so sánh đối chiếu; phƣơng pháp khảo sát thực tiễn, đánh giá, khái quát hoá, hệ thống hóa vấn đề và một số phƣơng pháp nghiên cứu khác. VI. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung chính của Luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về thẻ tín dụng Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam 10
  11. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG 1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển 1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới Sự ra đời của tiền tệ đã đánh dấu một bƣớc phát triển đột phá của sản xuất và lƣu thông hàng hóa. Qua nhiều giai đoạn phát triển, ngày nay tiền tệ đã đạt đến hình thái biểu hiện cao với chức năng thanh toán không dùng tiền mặt, đó là Tiền điện tử. Thẻ tín dụng chính là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó. Vào những năm giữa thế kỷ 20, kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ kéo theo nhu cầu tiêu dùng cá nhân không ngừng tăng lên. Thêm vào đó, những thành quả của sự phát triển vƣợt bậc trong khoa học kỹ thuật và công nghệ tin học đƣợc ứng dụng vào ngành tài chính – ngân hàng đã làm thay đổi hình thức thanh toán tiêu dùng truyền thống của dân chúng, đồng thời đƣa dịch vụ thanh toán điện tử trở thành mũi nhọn kinh doanh của các ngân hàng. Nằm trong dịch vụ thanh toán điện tử này, kết hợp với việc kinh doanh tín dụng truyền thống, thẻ tín dụng ra đời không những làm thay đổi thói quen kinh doanh của ngân hàng mà còn làm thay đổi thói quen tiêu dùng của ngƣời dân tại nhiều quốc gia. Năm 1914, một số nhà hàng, khách sạn, Hiệp hội... tại Hoa Kỳ đã sản xuất và cấp cho các Khách hàng quen của mình những tấm thẻ ƣu đãi để sử dụng cho những dịch vụ đặc biệt. Tấm thẻ ƣu đãi lúc này chỉ là một sự chứng nhận cho nhân thân của Chủ thẻ chứ không thay thế cho việc thanh toán các dịch vụ mà Chủ thẻ đó sử dụng. Năm 1946, một ngƣời tên là John Biggins sáng lập ra hệ thống mua bán chịu Charge-it để ngƣời tiêu dùng thực hiện những giao dịch mua bán lẻ tại địa phƣơng. Các Đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ bán chịu cho khách hàng và nộp biên lai bán hàng cho ngân hàng của Biggins. Ngân hàng này sẽ trả tiền cho họ và thu lại tiền từ các khách hàng sử dụng dịch vụ Charge-it. Năm 1949, sau sự kiện bị từ chối thanh toán bằng séc khi không mang tiền mặt tại một quán ăn ở New York, ông Frank McNamara đã có sáng kiến phát hành ra chiếc thẻ Diner Club phát hành cho các hội viên để các hội viên sử dụng mua 11
  12. hàng hóa, dịch vụ mà không cần thanh toán ngay bằng tiền mặt. Diner Club sẽ trả cho các chủ hiệu tiền hàng hóa dịch vụ của tất cả các hội viên vào cuối tháng, sau khi trừ đi chi phí dịch vụ thẻ, đồng thời phát hành bảng kê cho các hội viên và yêu cầu hội viên thanh toán lại ngay cho Diner Club. Năm 1951, Franklin National Bank- Long Insland- New York (nay là European American Bank) là ngân hàng đầu tiên phát hành thẻ tín dụng. Để có đƣợc thẻ, các khách hàng phải có uy tín và năng lực tài chính. Thẻ này dùng cho các thƣơng vụ bán lẻ hàng hóa dịch vụ. Khi nhận đƣợc thẻ để thanh toán, các Đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ lƣu lại các thông tin về khách hàng trên thẻ vào hóa đơn bán hàng. Các Đơn vị này sẽ đƣợc Franklin National Bank thanh toán lại trên cơ sở có chiết khấu một tỷ lệ nhất định nhƣ là một khoản bù đắp chi phí. Năm 1959, để tăng sức cạnh tranh, nhiều tổ chức phát hành thẻ đƣa ra loại hình dịch vụ mới: tín dụng tuần hoàn. Với dịch vụ này, các Chủ thẻ có thể duy trì số dƣ có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín dụng nếu họ hoàn thành trách nhiệm thanh toán hàng tháng. Khi đó, số tiền thanh toán hàng tháng của chủ thể sẽ đƣợc cộng thêm một khoản chi phí tính từ khoản vay của Chủ thẻ. Đến những năm 60 của thế kỷ 20, thẻ tín dụng đã dần dần xuất hiện trong cuộc sống của các nƣớc Châu Âu và trở thành một trong những phƣơng tiện thanh toán thông dụng trên thế giới. Ở giai đoạn đầu phát triển, Chủ thẻ tín dụng thƣờng là những ngƣời có năng lực tài chính, có vị thế trong xã hội. Nhƣng các ngân hàng sớm nhận ra đông đảo dân chúng trong xã hội mới là đối tƣợng sử dụng thẻ tiềm năng và một cuộc đua tranh giữa các ngân hàng tạo ra sự bùng nổ việc sử dụng thẻ tín dụng. Năm 1960, ngân hàng Bank of America cho ra đời sản phẩm thẻ đầu tiên của mình là Bank Americard. Ban đầu, chỉ một nhóm nhỏ các Chủ thẻ và đại lý tham gia, sau đó Bank of America phát triển mạng lƣới bằng cách mở rộng phạm vi hoạt động thông qua việc cấp phép cho các tổ chức tài chính khác trong việc phát hành thẻ và ký kết hợp đồng với các đại lý. Việc phát triển mạng lƣới đại lý và Chủ thẻ ngày càng mở rộng trên toàn nƣớc Mỹ. Thấy đƣợc thành công trong việc kinh doanh thẻ của Bank of America, nhiều tổ chức phát hành thẻ khác bắt đầu liên kết để cạnh tranh với các tổ chức của Bank of America. Năm 1966, 14 ngân hàng Mỹ liên kết thành tổ chức Interbank 12
  13. (Interbank Card Association - ICA), một tổ chức mới có khả năng trao đổi thông tin về các giao dịch thẻ tín dụng. Mặc dù có những rắc rối phát sinh, các tổ chức phát hành thẻ vẫn liên tiếp ra đời. Năm 1967, 4 ngân hàng ở California đổi tên từ California Bank Card Association thành Western State Bank Card Association (WSBA). WSBA mở rộng mạng lƣới thành viên với các tổ chức tài chính khác ở phía Tây nƣớc Mỹ. Sản phẩm thẻ của WSBA là MasterCharge. WSBA cũng cấp phép cho tổ chức Interbank sử dụng tên và thƣơng hiệu của MasterCharge. Vào cuối thập niên 60, nhiều tổ chức tài chính đã trở thành thành viên của MasterCharge và đủ sức cạnh tranh với Bank Americard. Năm 1968, Interbank mở rộng thành viên ra khỏi phạm vi nƣớc Mỹ, liên kết với các tổ chức tài chính Châu Âu và hình thành thẻ EuroCard và năm này cũng là năm mà thành viên đầu tiên của Nhật tham gia vào tổ chức Interbank. Năm 1977, tổ chức thẻ Bank Americard đổi tên thành Visa USA và sau đó là Tổ chức thẻ quốc tế Visa – Visa International. Năm 1979, tổ chức Master Charge đổi tên thành MasterCard. Đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều các tổ chức thẻ quốc tế đƣợc thành lập bởi các định chế tài chính khác nhau, làm cho thị trƣờng thẻ ngày càng đa dạng nhƣ: American Express (Amex), Diners Club, JCB, EuroCard... Nhƣng phát triển mạnh nhất và chiếm lĩnh thị trƣờng nhiều nhất vẫn là VisaCard và Mastercard với hơn 25 triệu Đơn vị chấp nhận thẻ và hơn 1 triệu điểm rút tiền mặt thuộc 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam. 1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam Từ trƣớc những năm 90 của thế kỷ 20, mặc dù đã đƣợc phổ biến tại nhiều quốc gia, thẻ tín dụng vẫn chƣa có chỗ đứng tại Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, nhờ vào định hƣớng phát triển kinh tế thị trƣờng và chính sách mở cửa, thẻ tín dụng đã đƣợc các nhà đầu tƣ và khách du lịch nƣớc ngoài mang theo khi nhập cảnh vào Việt Nam. Trong khi việc thanh toán không dùng tiền mặt thông qua thẻ tín dụng đã trở thành thói quen của ngƣời nƣớc ngoài, thì tại Việt Nam, họ vẫn phải dùng ngoại tệ mặt hoặc đến ngân hàng tại Việt Nam đổi lấy tiền đồng Việt Nam để chi trả cho hàng hóa, dịch vụ mà họ sử dụng. Với sự chuyển biến tích cực của nền 13
  14. kinh tế, cộng với sự hội nhập sâu rộng của kinh tế xã hội Việt Nam vào khu vực và thế giới, lƣợng khách nƣớc ngoài đến Việt Nam ngày càng gia tăng dẫn đến áp lực phải chấp nhận phƣơng thức thanh toán phổ biến này của ngƣời nƣớc ngoài. Đánh dấu điểm khởi đầu cho sự gia nhập chính thức của thẻ tín dụng vào thị trƣờng Việt Nam là sự kiện Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam (VCB) ký kết hợp đồng đại lý thanh toán thẻ với ngân hàng BFCE Singapore vào ngày 27-6-1990. Nội dung của Hợp đồng này là thỏa thuận để các điểm giao dịch và đại lý của VCB có thể chấp nhận thanh toán đƣợc thẻ Visa. Ngay sau đó, tháng 7-1990 Ngân hàng Sài Gòn Công Thƣơng liên doanh với một công ty con của Tyndall Group của Anh thành lập Trung tâm thanh toán Visa tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 24-7-1991, VCB ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Mastercard với công ty thẻ MBF Malaysia. Ngày 18-9-1991, VCB tiếp tục ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ JCB card với công ty JCB International Co.Ltd của Nhật Bản. Đến năm 1994, một số ngân hàng khác cũng tham gia thị trƣờng thanh toán thẻ nhƣ Ngân hàng Công Thƣơng Việt Nam với thẻ Visa, Eximbank với thẻ Visa và Mastercard … Cho đến nay ở Việt Nam đã có 19 ngân hàng thƣơng mại tham gia thanh toán thẻ tín dụng quốc tế với các thƣơng hiệu nhƣ Visacard, Mastercard, JCB, Amex, Diners Club, Eurocard… Đó mới chỉ là sự tham gia của các ngân hàng Việt Nam vào hoạt động thanh toán bằng thẻ tín dụng. Việc các ngân hàng Việt Nam phát hành thẻ tín dụng thì triển khai chậm hơn. Hiện tại có 8 ngân hàng thƣơng mạiViệt Nam tham gia phát hành thẻ tín dụng quốc tế cho các thƣơng hiệu nổi tiếng nhƣ: Visa, Mastercard, JCB, Amex, Diners Club… Về lĩnh vực liên kết thẻ, hiện tại mới có 3 liên minh thẻ là liên minh giữa Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam với 17 ngân hàng thƣơng mại cổ phần, công ty cổ phần chuyển Mạch tài chính Quốc gia – BankNet (có 14 ngân hàng thƣơng mại tham gia với VDC), hệ thống VNBC (có 4 ngân hàng thƣơng mại tham gia). Việc sử dụng thẻ ngân hàng nói chung và thẻ tín dụng nói riêng ở Việt Nam bắt đầu đƣợc triển khai vào những năm 1990 với việc Ngân hàng Nhà nƣớc ban hành Quyết định số 74/QĐ-NH về “Thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ 14
  15. thanh toán” và Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc cho phép áp dụng thí điểm tại Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam. Từ những năm 1993 đến 1995, một số ngân hàng trong nƣớc cũng bắt đầu thực hiện vai trò làm ngân hàng đại lý thanh toán thẻ quốc tế cho các ngân hàng nƣớc ngoài là thành viên các TCTQT. Khi đó các chủ thẻ thanh toán chủ yếu là ngƣời nƣớc ngoài sinh sống, hoạt động kinh doanh hoặc du lịch tại Việt Nam. Đến năm 1996, một số ngân hàng trong nƣớc đã xây dựng các Thể lệ tạm thời về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ trên cơ sở chấp thuận của Ngân hàng Nhà nƣớc. Trƣớc nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển thanh toán thẻ và nhận định về sự cần thiết phải có hành lang pháp lý ổn định cho các ngân hàng thƣơng mại thực hiện nghiệp vụ thẻ, Ngân hàng Nhà nƣớc đã lần lƣợt ban hành các văn bản pháp lý để điều chỉnh hoạt động của nghiệp vụ này nhƣ: Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 21- 02-1994 về Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, Thông tƣ số 08/TT-NH2 ngày 02-6-1994 hƣớng dẫn Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt. Đến năm 1999, NHNN ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19-10-1999 (sau đây gọi tắt là “Quy chế 371”), đặt ra một khung pháp lý để các ngân hàng phát triển nghiệp vụ thẻ của mình. Đặc biệt, gần đây nhất, ngày 15-05-2007, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN kèm theo Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung ứng dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng (sau đây gọi tắt là “Quy chế 20”). Về đối tƣợng, phạm vi điều chỉnh, Quy chế 20 có đối tƣợng, phạm vi điều chỉnh đƣợc mở rộng hơn so với các quy định trƣớc đó. Nếu ở Quy chế 371, các loại thẻ ngân hàng đƣợc áp dụng phải là thẻ do ngân hàng phát hành, thì đến Quy chế 20, thẻ ngân hàng là thẻ do Tổ chức phát hành thẻ phát hành. Khái niệm Tổ chức phát hành thẻ thì đƣợc hiểu rất rộng: Là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng đƣợc phép phát hành thẻ theo quy định tại Điều 9, Quy chế 20 (khoản 12 Điều 2). 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam 1.1.2.1. Khái niệm thẻ tín dụng 15
  16. Mặc dù ngƣời dân Việt Nam đang dần trở nên quen thuộc với cụm từ “thẻ tín dụng”, kể từ khi tần suất xuất hiện cụm từ này trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng ngày một nhiều hơn, thế nhƣng các nhà nghiên cứu vẫn chƣa đƣa ra đƣợc khái niệm thống nhất về thẻ tín dụng. Theo cách hiểu thông thƣờng thì thẻ là một vật nhỏ gọn và chứa đựng thông tin của chủ sở hữu chiếc thẻ đó nhằm sử dụng vào một hoặc nhiều mục đích nhất định. Định nghĩa về từ “thẻ” trong Từ điển Tiếng Việt cũng cho thấy nhƣ vậy: “Thẻ là giấy chứng nhận một tƣ cách nào đó, thƣờng có dạng nhỏ gọn” [9, tr. 930]. Với khái niệm này, thẻ luôn gắn liền với chủ thể nhất định và đƣợc chủ thể đó sử dụng nhƣ là một bằng chứng chứng tỏ tƣ cách chủ thể khi tham gia giao dịch mà không phải xuất trình nhiều giấy tờ liên quan. Tính năng này đặc biệt hữu ích khi các chủ thể tham gia các giao dịch liên quan đến ngân hàng, những giao dịch đòi hỏi nhiều trình tự, thủ tục xác nhận nhân thân, xác nhận căn cƣớc để tránh rủi ro nhầm lẫn, thất thoát tiền. Do đó, cụm từ “thẻ ngân hàng” hoặc “thẻ thanh toán” hoặc “thẻ tín dụng” đƣợc đề cập đến thƣờng xuyên trong đời sống xã hội, không chỉ trên thế giới mà cả ở Việt Nam hiện nay. Hoạt động tín dụng là chức năng đặc trƣng của các ngân hàng nên thẻ tín dụng thƣờng do các ngân hàng phát hành. Chính vì vậy phần lớn thẻ tín dụng cũng là thẻ ngân hàng. Bên cạnh đó, mục đích sử dụng của thẻ tín dụng là thanh toán hàng hóa dịch vụ nên thẻ tín dụng cũng là một trong những loại thẻ thanh toán. Với những đặc tính chung đó, thẻ tín dụng sẽ mang những tính chất, đặc điểm của cả thẻ ngân hàng và thẻ thanh toán. Theo các quan điểm kinh tế học, thẻ thanh toán có thể đƣợc hiểu là “chìa khóa đa năng để Chủ thẻ kết nối với các chủ thể khác tham gia hệ thống thanh toán thẻ phục vụ quá trình lƣu chuyển hàng hóa, tiền tệ đƣợc thỏa thuận trƣớc nhằm thực hiện các dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của mình” [23, tr. 9]. Thẻ thanh toán “là công cụ thanh toán do TCPHT cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dƣ của mình ở tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng đƣợc cấp theo hợp đồng ký kết giữa TCPHT và Chủ thẻ” [25, tr. 6]. Xét từ góc độ luật học, khái niệm thẻ thanh toán đã xuất hiện trong văn bản pháp luật Việt Nam từ năm 1994 mặc dù chƣa đƣợc định nghĩa chính thức. Tại Điều 24 của Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 21-02-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc, thẻ thanh 16
  17. toán mới chỉ đƣợc giải thích là “do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.” Cũng tại Điều 24 Thể lệ này, thẻ thanh toán đƣợc phân loại gồm thẻ ghi nợ, thẻ ký quỹ thanh toán và thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng, mặc dù chƣa đƣợc định nghĩa trong văn bản này, nhƣng cũng đã đƣợc mô tả nhƣ sau: “Thẻ tín dụng áp dụng đối với khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận bằng văn bản.” Đến năm 1999, các khái niệm về thẻ đã đƣợc pháp quy hóa trong Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng (đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN ngày 19-10-1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc). Quy chế này đƣa ra khái niệm thẻ ngân hàng nhƣ sau: Thẻ ngân hàng “là công cụ thanh toán do TCPHT cấp cho khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa TCPHT và Chủ thẻ”. Sau đó, tại Điều 3 của Quy chế này, thẻ ngân hàng đƣợc phân loại thành thẻ thanh toán và thẻ tín dụng. Thẻ thanh toán là thẻ ngân hàng “được Chủ thẻ sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi của mình tại TCPHT” và thẻ tín dụng “là loại thẻ cho phép Chủ thẻ thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong hạn mức tín dụng được TCPHT chấp thuận theo hợp đồng” Mới đây nhất, năm 2007, khái niệm về các loại thẻ đã đƣợc sửa đổi lại trong Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng, đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15-5- 2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc. Theo đó, không sử dụng khái niệm thẻ thanh toán mà sử dụng khái niệm thẻ ngân hàng và thẻ ngân hàng đƣợc hiểu là “phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận”. Thẻ ngân hàng sẽ bao gồm thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng và thẻ trả trƣớc. Khoản 5 Điều 2 Quy chế này có định nghĩa “Thẻ tín dụng (credit card): Là thẻ cho phép Chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành thẻ”. Trong đó, khái niệm “giao dịch thẻ” đƣợc hiểu là “việc sử dụng thẻ để gửi, nạp, rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, sử dụng các dịch vụ khác do tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ cung ứng”. 17
  18. Mặc dù thẻ tín dụng đã đƣợc định danh trong các văn bản quy phạm pháp luật, song các nhà nghiên cứu luật học vẫn đƣa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm “thẻ thanh toán” “thẻ tín dụng”. Theo Thạc sỹ Phạm Danh Chƣơng, Thẻ thanh toán là “một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng, các tổ chức tài chính hoặc các công ty phát hành được người sở hữu thẻ sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình, kể cả rút tiền mặt, thực hiện các dịch vụ tự động do ngân hàng hoặc các tổ chức khác cung cấp thông qua hệ thống thanh toán điện tử.” [24, tr. 11][24]. Cách tiếp cận của mỗi tác giả nêu trên đều có những hạt nhân cơ bản thể hiện bản chất của thẻ tín dụng. Tuy nhiên theo chúng tôi, thẻ tín dụng cần đƣợc định nghĩa sát với bản chất pháp lý của thẻ hơn nữa. Vì lý do đó, chúng tôi đƣa ra định nghĩa sau về thẻ tín dụng. “Thẻ tín dụng là phƣơng tiện thanh toán do ngân hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng phát hành theo thỏa thuận với Chủ thẻ để đáp ứng các nhu cầu tín dụng, thanh toán trong một hạn mức tiền nhất định thông qua việc xác lập quan hệ thanh toán giữa Chủ thẻ với Đơn vị chấp nhận thẻ, đồng thời cũng xác lập quan hệ vay nợ giữa Chủ thẻ với tổ chức đã phát hành thẻ”. 1.1.2.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng Từ định nghĩa nhƣ đã nêu trên, Thẻ tín dụng mang những đặc trƣng pháp lý nhƣ sau: Thứ nhất, thẻ tín dụng luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. Chủ thể này chính là chủ sở hữu của thẻ tín dụng. Tên, hình ảnh của Chủ thẻ đƣợc in ngay trên thẻ và Chủ thẻ cũng phải ký tên lên mặt sau của thẻ ngay khi nhận thẻ trƣớc sự chứng kiến của nhân viên Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT). Việc ký tên trên thẻ là rất cần thiết vì mỗi khi thanh toán tại Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT), Chủ thẻ phải ký vào các hóa đơn bán hàng để ĐVCNT đối chiếu chữ ký trên hóa đơn và chữ ký trên thẻ. Ngoài ra, ĐVCNT còn đối chiếu ảnh của Chủ thẻ đƣợc in trên thẻ với ngƣời đang sử dụng thẻ. Nếu có yếu tố không trùng khớp thì ĐVCNT có thể từ chối nhận thanh toán bằng thẻ vì không đủ yếu tố xác định chính xác ngƣời cầm thẻ là Chủ thẻ. Chính vì vậy, có thể coi thẻ tín dụng là giấy chứng nhận tƣ cách của Chủ thẻ đúng nhƣ định nghĩa về “thẻ” trong Từ điển Tiếng Việt mà chúng tôi đã dẫn ở trên. Đây cũng chính là bằng chứng chứng tỏ khả năng tài chính của Chủ thẻ, bằng chứng chứng tỏ khả năng thực hiện đƣợc nghĩa vụ thanh toán của Chủ thẻ sau khi 18
  19. mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ tại Đơn vị chấp nhận thẻ. Bên cạnh khả năng tài chính, đƣơng nhiên Chủ thẻ cũng phải có năng lực chủ thể để tự mình xác lập các giao dịch từ giao dịch thƣơng mại, dân sự với ĐVCNT đến các giao dịch thanh toán, tín dụng liên quan tới ngân hàng. Do đó, phải có tổ chức trung gian thẩm định và xác nhận cho tƣ cách của Chủ thẻ, tổ chức này không ai khác ngoài TCPHT. Thứ hai, thẻ tín dụng đƣợc phát hành từ một thỏa thuận giữa Chủ thẻ với TCPHT. Thỏa thuận này có hình thức pháp lý là Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Để đi đến ký kết đƣợc Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, Chủ thẻ phải chứng minh đƣợc năng lực chủ thể, khả năng tài chính, khả năng trả nợ của mình. Là một đơn vị kinh doanh chuyên nghiệp về trung gian thanh toán và tín dụng, TCPHT sẽ đặt ra các điều kiện để thẩm định các khả năng này của Chủ thẻ. Ví dụ nhƣ: đủ độ tuổi, có địa chỉ rõ ràng, có nguồn thu nhập ổn định, có tài sản bảo đảm, có uy tín trong quan hệ tín dụng. Tất cả các yếu tố đó tạo nên khả năng tài chính của Chủ thẻ và bằng việc phát hành thẻ, TCPHT đã xác nhận cho Chủ thẻ khả năng này. Việc xác nhận khả năng tài chính cho Chủ thẻ thông qua thẻ tín dụng cũng đồng nghĩa với việc TCPHT phải cam kết thanh toán hộ cho Chủ thẻ mỗi khi phát sinh giao dịch. Do đó, ngoài các nội dung thỏa thuận về các yếu tố tạo lập khả năng tài chính của Chủ thẻ, Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng còn đề cập đến điều kiện, trình tự, thủ tục để thực hiện thanh toán qua trung gian nhƣ: mở tài khoản thẻ, cam kết thanh toán... Thời điểm thanh toán hộ cho Chủ thẻ cũng chính là thời điểm Chủ thẻ nhận nợ với TCPHT, cũng là thời điểm phát sinh quan hệ tín dụng giữa hai bên. Vì thế, một nội dung quan trọng nữa trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng là các điều khoản về xác nhận nợ, tài sản bảo đảm, nguồn trả nợ, hạn mức tín dụng, … Thứ ba, thẻ tín dụng luôn gắn liền với một tài khoản ngân hàng nhất định. Đó là tài khoản của chính Chủ thẻ mở tại TCPHT - nếu TCPHT cũng là ngân hàng - hoặc tại một ngân hàng mà TCPHT ủy quyền - nếu TCPHT không phải là ngân hàng. Khi sử dụng thẻ tín dụng, ngƣời mua - Chủ thẻ - không chi trả bằng tiền mặt và bên bán hàng – Đơn vị chấp nhận thẻ - cũng không thu tiền mặt. Giá trị các hàng hóa dịch vụ mua và sử dụng đƣợc tính bằng “tiền điện tử”. Giao dịch bằng tiền điện tử phải gắn với hệ thống thanh toán điện tử do các tổ chức trung gian thanh toán, thƣờng là các ngân hàng, tham gia và cung cấp dịch vụ. Dịch vụ thanh toán không sử dụng tiền mặt đƣợc thực hiện trên các tài khoản của các bên giao dịch mà biểu hiện là việc tăng số dƣ tiền trên tài khoản của chủ thể này và giảm số dƣ tiền trên tài 19
  20. khoản của chủ thể kia. Khi sử dụng thẻ tín dụng, tài khoản của Chủ thẻ sẽ đƣợc báo “nợ” và tài khoản của ĐVCNT sẽ đƣợc báo “có”. Đây cũng là một đặc điểm chung của tất cả các loại thẻ ngân hàng, trong đó có thẻ tín dụng. Thứ tư, Thẻ tín dụng làm phát sinh quan hệ cam kết thanh toán “liên hoàn”. Cam kết thanh toán “liên hoàn” là các cam kết thanh toán của các Tổ chức trung gian cho ĐVCNT. Ngay tại thời điểm dùng thẻ tín dụng để thanh toán giá trị hàng hóa dịch vụ vừa sử dụng, tài khoản của Chủ thẻ tín dụng đã bị ghi nợ nhƣng Chủ thẻ không phải thanh toán ngay cho TCPHT. Tài khoản của ĐVCNT cũng chƣa đƣợc báo “có” ngay lúc đó. ĐVCNT mới chỉ nhận đƣợc các cam kết sẽ thanh toán của các đơn vị trong hệ thống thanh toán thẻ (là TCPHT, các TCTTT, tổ chức thẻ quốc tế…). Trƣớc tiên, đó là cam kết của Tổ chức thanh toán thẻ, là đơn vị trực tiếp quan hệ với ĐVCNT, là đơn vị quản lý tài khoản của ĐVCNT và cung cấp dịch vụ thanh toán cho ĐVCNT. Đây cũng là đơn vị sẽ có trách nhiệm ghi tăng cho số dƣ trong tài khoản của ĐVCNT. Sau đó là cam kết của TCPHT, là đơn vị trực tiếp quan hệ với Chủ thẻ, là đơn vị quản lý tài khoản của Chủ thẻ và cung cấp dịch vụ thanh toán cho Chủ thẻ. TCPHT căn cứ vào số dƣ nợ trong tài khoản của Chủ thẻ để biết đã có phát sinh giao dịch và cam kết sẽ thanh toán cho TCTTT. Trƣờng hợp TCPHT và TCTTT không có mối liên hệ trực tiếp thì các cam kết thanh toán này còn phát sinh thêm tại các đơn vị trung gian khác nữa nhƣ: Ngân hàng đầu mối (Ví dụ: Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam – VCB…), Tổ chức thẻ quốc tế (Ví dụ nhƣ: Mastercard International, Visacard International…). Trƣờng hợp đơn giản nhất là trƣờng hợp TCPHT cho Chủ thẻ cũng chính là TCTTT cho ĐVCNT. Khi đó chỉ có ba chủ thể tham gia hệ thống thanh toán thẻ này, đó là Chủ thẻ, Ngân hàng và ĐVCNT và chỉ có một cam kết thanh toán đƣợc đƣa ra bởi một ngân hàng duy nhất, là ngân hàng của cả Chủ thẻ và ĐVCNT. Tuy nhiên trƣờng hợp này là không phổ biến bởi vì một tổ chức chỉ có khả năng giới hạn trong việc phát triển số lƣợng thẻ và số lƣợng ĐVCNT, trong khi các Chủ thẻ tín dụng thì lại có nhu cầu thanh toán thẻ tín dụng tại bất cứ cửa hàng, khách sạn … nào, tức là bao gồm cả ĐVCNT của các tổ chức khác nữa. Nhƣ vậy, TCPHT có thể không có liên hệ với ĐVCNT nhƣng thông qua hệ thống trung gian thanh toán thẻ, TCPHT sẽ cam kết thanh toán cho các đơn vị trung gian thanh toán. Các đơn vị trung gian thanh toán thì cam kết thanh toán cho TCTTT và TCTTT thì cam kết thanh toán cho ĐVCNT. Chính vì vậy mà thẻ tín 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2