intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nuôi con nuôi thực tế theo Luật nuôi con nuôi năm 2010

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

29
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về vấn đề nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam; thực trạng áp dụng điều luật nuôi con nuôi thực tế trong thực tiễn giải quyết, tìm ra mặt hạn chế, thiếu sót của chế định nuôi con nuôi thực tế trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp, kiến nghị nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật thuận lợi và thống nhất trong công tác nuôi con nuôi thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nuôi con nuôi thực tế theo Luật nuôi con nuôi năm 2010

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LINH NUÔI CON NUÔI THỰC TẾ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LINH NUÔI CON NUÔI THỰC TẾ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010 Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hà Nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngƣời cam đoan Nguyễn Thị Linh
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... i LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI THỰC TẾ Ở VIỆT NAM........................................................................................................ 7 1.1. Khái niệm chung ........................................................................................ 7 1.1.1. Khái niệm con nuôi và cha, mẹ nuôi....................................................... 7 1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi và nuôi con nuôi thực tế ................................ 8 1.1.3. Đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi thực tế ........................................ 10 1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi thực tế .................................................... 12 1.3. Pháp luật điều chỉnh về nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam ..................... 14 1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc điều chỉnh nuôi con nuôi thực tế ........ 14 1.3.2. Pháp luật của Nhà nƣớc ta về nuôi con nuôi thực tế ............................. 17 CHƢƠNG 2:PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NUÔI CON NUÔI THỰC TẾ .. 26 2.1. Các nguyên tắ c cơ bản trong giải quyế t nuôi con nuôi thực tế ................ 26 2.1.1. Khi giải quyế t viê ̣c nuôi con nuôi cầ n tôn tro ̣ng quyề n trẻ em đƣơ ̣c số ng trong môi trƣờng gia đình gố c......................................................................... 27 2.1.2. Việc nuôi con nuôi phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi và ngƣời nhận con nuôi tự nguyện, bình đẳng không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội ............................ 29 2.1.3. Chỉ cho làm con nuôi ở nƣớc ngoài khi không thể tìm đƣơ ̣c gia đình thay thế trong nƣớc.......................................................................................... 34 2.2. Điều kiện công nhận nuôi con nuôi thực tế ............................................. 36 2.2.1. Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi ................................................ 37
  5. 2.2.2. Đế n thời điể m Luâ ̣t nuôi con nuôi có hiê ̣u lƣ̣c quan hê ̣ cha , mẹ và con vẫn tồ n ta ̣i và cả hai bên đề u còn số ng............................................................ 46 2.2.3. Giƣ̃a cha, mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc , nuôi dƣỡng, giáo dục nhau nhƣ cha, mẹ và con .......................................................................... 47 2.3. Đăng ký nuôi con nuôi thực tế ................................................................. 49 2.3.1 Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi thực tế .......................................... 49 2.3.2. Hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi thực tế .................................................... 50 2.3.3. Tiến hành đăng ký nuôi con nuôi thực tế .............................................. 53 2.4. Hê ̣ quả của viê ̣c nuôi con nuôi thƣ̣c tế ..................................................... 54 2.4.1. Quan hê ̣ giƣ̃a ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi..................... 54 2.4.2.Quan hệ giữa ngƣời đƣợc nhận nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha, mẹ nuôi ............................................................................................ 60 2.4.3. Quan hệ với gia đình gốc ...................................................................... 64 2.5. Chấm dứt nuôi con nuôi thực tế ............................................................... 66 2.5.1. Căn cƣ́ chấ m dƣ́t viê ̣c nuôi con nuôi thƣ̣c tế ......................................... 66 2.5.2. Thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi thực tế........................................ 68 2.5.3. Hê ̣ quả chấm dứt việc nuôi con nuôi thực tế......................................... 69 CHƢƠNG 3:THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI THỰC TẾ Ở VIỆT NAM ......................................... 71 3.1. Nhận xét chung. ....................................................................................... 71 3.2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi thực tế ........ 73 3.2.1. Thực trạng và giải pháp huàn thiện về điều kiện công nhận và thời hạn đăng ký nuôi con nuôi thực tế ......................................................................... 74 3.2.3. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện về đăng ký nuôi con nuôi thực tế . 81 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 87
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Từ viết tắt 1 BLDS Bộ luật dân sự 2 HN&GĐ Hôn nhân và gia đình i
  7. LỜI NÓI ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Nuôi con nuôi là chế định quan trọng trong pháp luật HN&GĐ trƣớc đây, BLDS năm 2005 quy định, quyền đƣợc nuôi con nuôi và quyền đƣợc nhận làm con nuôi của cá nhân đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ. Tại Điều 43 BLDS 2005 quy định: “Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ. Việc nhận làm con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Chính vì vậy việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần giúp cho nhiều trẻ em có đƣợc mái ấm gia đình thay thế và cũng góp phần quan trọng bảo đảm cho những ngƣời đơn thân hoặc cặp vợ chồng hiếm con đƣợc thực hiện quyền làm cha mẹ, quyền có mái ấm gia đình trọn vẹn. Tuy nhiên, thực tiễn về nuôi con nuôi còn cho thấy nhiều bất cập, nhiều trƣờng hợp nhận và nuôi dƣỡng trẻ em làm con nuôi nhƣng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, do trình độ am hiểu pháp luật của ngƣời dân còn thấp, chƣa nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc đăng ký nuôi con nuôi nên không đƣợc pháp luật công nhận làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích của các bên và còn liên quan đến nhiều lĩnh vực phát sinh nhất là trong lĩnh vực thừa kế, nhiều tranh chấp về di sản, về quyền thừa kế đã xảy ra và đã gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết.Vì vậy lĩnh vực nuôi con nuôi không đăng ký nhƣng đã phát sinh trên thực tế, việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời đƣợc nuôi và ngƣời nhận nuôi là một lĩnh vực quan trọng trong thực tiễn đời sống. Đây là công việc khó khăn, đòi hỏi thời gian và sự tham gia của không chỉ các cơ quan nhà nƣớc mà của toàn xã hội. Với khẩu hiệu “ Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thể hiện bất kỳ một lĩnh vực nào trong đời sống xã hội cũng cần có sự điều chỉnh của 1
  8. pháp luật, nó cần phải có nguyên tắc, các quy định cụ thể để hoạt động trong khuân khổ pháp luật, nếu không có sự điều chỉnh của pháp luật thì các mối quan hệ sẽ không kiểm soát đƣợc và dẫn đến nhiều tiêu cực trong xã hội. Lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung cũng nhƣ nuôi con nuôi không đăng ký nhƣng đã phát sinh trên thực tế nói riêng cũng vậy, việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời đƣợc nuôi và ngƣời nhận con nuôi là một lĩnh vực quan trọng trong thực tiễn đời sống. Đây là công việc khó khăn đòi hỏi thời gian và sự tham gia của không chỉ các cơ quan nhà nƣớc mà của toàn xã hội. Luật nuôi con nuôi ra đời với những điều khoản quy định cụ thể về lĩnh vực nuôi con nuôi đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nƣớc đối với cha, mẹ nuôi và con nuôi, tạo tính thống nhất, đồng bộ trong việc giải quyết nuôi con nuôi ở nƣớc ta. Luật nuôi con nuôi năm 2010 với quy định điều chỉnh đối với việc nuôi con nuôi không đăng ký, nhƣng đã phát sinh trên thực tế (hay còn gọi là con nuôi thực tế) có ý nghĩa hết sức to lớn. Luật đã quy định rõ điều kiện và thủ tục riêng đối với con nuôi thực tế. Theo đó, việc nuôi con nuôi chƣa đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trƣớc ngày Luật nuôi con nuôi có hiệu lực giữa công dân Việt Nam với nhau nhƣng có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi, khi trên thực tế quan hệ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi đã đƣợc xác lập, giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dƣỡng giáo dục nhau nhƣ cha, mẹ và con và hiện tại sau khi Luật nuôi con nuôi có hiệu lực quan hệ đó vẫn đang tồn tại và cả cha, mẹ nuôi và con nuôi đều còn sống thì đƣợc pháp luật công nhận và đƣợc nhà nƣớc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký nhận nuôi con nuôi trong thời hạn 5 năm bắt đầu kể từ ngày Luật con nuôi có hiệu lực (01/01/2011). Trƣớc đây Nghị định số 32/2002/NĐ- CP ngày 27 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ chỉ công nhận con nuôi thực tế đối với các vùng đồng bào dân 2
  9. tộc thiểu số đƣợc xác lập trƣớc ngày 01/01/2001 (ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực), còn các trƣờng hợp quan hệ nuôi con nuôi xác lập sau ngày 01/01/2001 mà không đăng ký sẽ không đƣợc pháp luật công nhận, các quan hệ nuôi con nuôi ở vùng khác mà không thực hiện thủ tục đăng ký thì không đƣợc công nhận có giá trị pháp lý và chƣa có văn bản nào quy định bổ sung về vấn đề này. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 công nhận con nuôi thực tế, nhƣng do còn nhiều điểm chƣa hợp lý nhƣ điều kiện, hệ quả xác lập con nuôi thực tế, đặc biệt là thời hạn giải quyết việc nuôi 05 năm kể từ ngày 01/01/2011. Vậy sau thời gian trên việc nuôi con nuôi thực tế chƣa đăng ký sẽ đƣợc giải quyết nhƣ thế nào? Quyền lợi của các bên liên quan trong việc nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý…bởi thực tiễn cho thấy pháp luật không phải lúc nào cũng đi vào cuộc sống của ngƣời dân một cách thuận lợi mà còn có trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong việc đƣa pháp luật vào thực tiễn và đến với ngƣời dân . Theo kết quả mới nhất từ Bộ Tƣ pháp, tính đến ngày 31/12/2014 trên toàn quốc đã rà soát đƣợc 6.419 trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế nhƣng chỉ có 1.916 trƣờng hợp đã đƣợc đăng ký còn 4.503 trƣờng hợp chƣa đƣợc đăng ký nuôi con nuôi thực tế. Vì vậy việc nghiên cứu pháp luật về nuôi con nuôi thực tế là rất cần thiết để kịp thời bảo vệ quyền lợi của công dân. Ngoài ra, là để hiểu thêm về bản chất và ý nghĩa của việc con nuôi thực tế trong xã hội hiện nay . Với những lý do trên mà tác giả chọn đề tài: “Nuôi con nuôi thực tế theo Luâ ̣t nuôi c on nuôi năm 2010” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nuôi con nuôi thực tế là một chế định pháp luật mới trong Luật nuôi con nuôi năm 2010, mặc dù trƣớc đây vấn đề nuôi con nuôi thực tế đã đƣợc đề cập trong văn bản pháp luật nhƣng do tính chất đặc thù chỉ áp dụng giải quyết đối với đồng bào dân tộc thiểu số nên hình thức nuôi con nuôi này chƣa đƣợc nhiều 3
  10. độc giả nghiên cứu. Vì vậy đề tài nuôi con nuôi thực tế theo quy định của Luật nuôi con nuôi năm 2010 là luận văn đầu tiên đƣợc nghiên cứu ở bậc cao học có tính hệ thống, toàn diện về nuôi con nuôi thực tế ở nƣớc ta hiện nay. Luật nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực thi hành đƣợc hơn 3 năm nên chƣa có đề tài đánh giá sự tác động của Luật nuôi con nuôi năm 2010 đối với nuôi con nuôi thực tế, thực tiễn, những ƣu, nhƣợc điểm của Luật nuôi con nuôi, những khó khăn, vƣớng mắc mà cơ quan giải quyết và ngƣời yêu cầu giải quyết nuôi con nuôi đang gặp phải trong quá trình thực thi luật nuôi con nuôi. Luận văn: “Nuôi con nuôi thực tế theo Luâ ̣t nuôi c on nuôi năm 2010” hi vọng sẽ góp phần nhỏ bé trong việc làm rõ hơn nữa chế định pháp luật nuôi con nuôi thực tế, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng công tác giải quyết nuôi con nuôi thực tế trong những năm qua, tác giả sẽ tìm ra những tồn tại, vƣớng mắc làm ảnh hƣởng đến việc giải quyết nuôi con nuôi, trên cơ sở đó đƣa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi thực tế ở nƣớc ta hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tƣợng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu của luận văn là “ Nuôi con nuôi thực tế theo Luật nuôi con nuôi năm 2010” vì vậy trong luận văn này ngƣời viết chủ yếu đi sâu nghiên cứu các văn bản pháp luật điều chỉnh về nuôi con nuôi thực tế ở nƣớc ta nhƣ Luật nuôi con nuôi năm 2010, Nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật nuôi con nuôi và một số vụ việc phát sinh trong thực tiễn về nuôi con nuôi thực tế để làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi thực tế ở nƣớc ta hiện nay. *Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu giới hạn về nuôi con nuôi thực tế trong nƣớc ở Việt Nam . 4
  11. 4. Mục đích nghiên cứu của đề tài Với đề tài luận văn: “Nuôi con nuôi thực tế theo Luâ ̣t nuôi con nuôi năm 2010” ngƣời viết nghiên cứu nhằm mục đích : - Tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về vấn đề nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam. - Thực trạng áp dụng điều luật nuôi con nuôi thực tế trong thực tiễn giải quyết, tìm ra mặt hạn chế, thiếu sót của chế định nuôi con nuôi thực tế trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp, kiến nghị nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật thuận lợi và thống nhất trong công tác nuôi con nuôi thực tế. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện chủ yếu dựa vào phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của Chủ nghĩa Mac-Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Ngoài ra còn sử dụng các phƣơng pháp: diễn dịch, quy nạp, liệt kê, so sánh, đối chiếu, phƣơng pháp xã hội học… nhằm đi sâu vào từng điều luật cụ thể và tìm hiểu nội dung, tính hữu hiệu cũng nhƣ mặt hạn chế của việc nuôi con nuôi thực tế để từ đó đề ra hƣớng giải quyết cho những vẫn đề đặt ra. 6. Những đóng góp mới của Luận văn - Luận văn đƣa ra đƣợc khái niệm về nuôi con nuôi thực tế trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và ứng dụng khái niệm nuôi con nuôi đã đƣợc pháp luật quy định. Với khái niệm này trong tình hình hiện nay là cần thiết, góp phần quan trọng trong công tác nghiên cứu và giảng dạy về nuôi con nuôi thực tế ở nƣớc ta hiện nay. - Luận văn phân tích và đánh giá một cách khoa học những quy định của Luật nuôi con nuôi năm 2010 về điều kện công nhận, thời hạn đăng ký, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi thực tế. 5
  12. - Luận văn phát hiện những bất cập của pháp luật về nuôi con nuôi thực tế ở nƣớc ta hiện nay. - Luận văn đƣa ra giải pháp phù hợp về nuôi con nuôi thực tế; đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nuôi con nuôi năm 2010 nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi thực tế. 7. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Khái quát chung về nuôi con nuôi và con nuôi thực tế ở Việt Nam . Chương 2: Pháp luật hiện hành về nuôi con nuôi thực tế Chương 3: Thƣ̣c tra ̣ng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuô i thực tế ở Việt Nam. 6
  13. CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI THỰC TẾ Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm chung 1.1.1. Khái niệm con nuôi và cha, mẹ nuôi Khái niệm về con nuôi – cha, mẹ nuôi trƣớc đây đã đƣợc đề cập trong các tài liệu liên quan nhƣng chỉ khi Luật nuôi con nuôi năm 2010 ra đời thì khái niệm trên đã chính thức đƣợc Luật định rõ nhằm tạo ra cách hiểu chung, thống nhất về con nuôi và cha, mẹ nuôi. Theo đó, Luật nuôi con nuôi năm 2010 khái niệm về con nuôi và cha, mẹ nuôi nhƣ sau: - Con nuôi là “người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký”[22, Điều 3]. Từ khái niệm trên có thể hiểu con nuôi là một ngƣời đƣợc ngƣời khác nhận làm con nhƣng không trực tiếp sinh ra nhƣ quan hệ giữa cha, mẹ đẻ và con đẻ mà đƣợc hình thành bằng con đƣờng nhân tạo đó là quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, ngƣời con nuôi là ngƣời sẽ đƣợc ngƣời khác chăm sóc, nuôi dƣỡng nhƣ con đẻ, ngƣời nuôi dƣỡng đó gọi là cha, mẹ nuôi. Con nuôi có thể là trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn... - Cha, mẹ nuôi là “Người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký” [22, Điều3]. Từ hai khái niệm trên cho thấy giữa con nuôi – cha, mẹ nuôi hình thành mối quan hệ chăm sóc, nuôi dƣỡng nhƣ cha, mẹ đẻ và con đẻ dựa trên quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền - cầu nối cho ý chí, nguyện vọng của các bên tham gia quan hệ nuôi con nuôi đƣợc thực hiện. Nhƣ vậy, quan hệ gia đình (quan hệ cha, mẹ và con) giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi phải đƣợc nhà nƣớc công nhận. Việc nuôi con nuôi đƣợc 7
  14. thực hiện có thể do cha, mẹ nuôi cùng nhận con nuôi hoặc có thể làm con nuôi của ngƣời đơn thân đều đƣợc pháp luật công nhận. 1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi và nuôi con nuôi thực tế 1.1.2.1. Khái niệm nuôi con nuôi Nuôi con nuôi - một hiện tƣợng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là “việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi”[23, Tr180]. Theo Điều 3 Luật nuôi con nuôi giải thích:“Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Nhƣ vậy, quan hệ cha, mẹ nuôi - con nuôi là quan hệ ràng buộc giữa bên nhận nuôi và bên đƣợc nhận, mặc dù các bên có thể có quan hệ họ hàng nhƣng khi đã phát sinh quan hệ nuôi con nuôi, đã đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký thì các bên phải đối xử với nhau theo đúng quan hệ cha mẹ con, ngƣời nuôi xem nhƣ cha mẹ của ngƣời đƣợc nuôi, dù không sinh ra ngƣời đƣợc nuôi; đối với ngƣời đƣợc nuôi có quyền và nghĩa vụ coi ngƣời nuôi nhƣ cha, mẹ ruột. Đó là quan hệ cha mẹ con không đƣợc xác lập bằng con đƣờng sinh sản mà theo quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng của các đƣơng sự, đặc biệt là của ngƣời nuôi. Việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi làm phát sinh giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con không phân biệt đối xử giữa cha, mẹ nuôi với cha mẹ đẻ, con nuôi với con đẻ, các bên đều đƣợc đối xử nhƣ nhau và việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp lý khi đã đƣợc đăng ký theo quy định của pháp luật. Việc nuôi con nuôi phải đăng ký và do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền tiến hành đăng ký, các nghi thức nhận nuôi con nuôi khác (nhƣ giấy tờ 8
  15. viết tay giữa cha mẹ đẻ cho con đẻ của mình làm con nuôi ngƣời khác hay ngƣời nhận con nuôi lập đàn lễ cúng tế tổ tiên về việc nhận con nuôi hoặc nhặt đƣợc trẻ bị bỏ rơi thì mang về nuôi mà không khai báo, đăng ký với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền) về nguyên tắc đều không có giá trị pháp lý và không đƣợc nhà nƣớc công nhận, giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi không có các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con theo quy định của pháp luật [24, tr3]. Nhƣ vậy, quan hệ gia đình, quan hệ cha, mẹ - con giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc hình thành từ quan hệ nuôi dƣỡng, chăm sóc và phải đƣợc nhà nƣớc công nhận. 1.1.2.2. Khái niệm nuôi con nuôi thực tế Cũng giống nhƣ quan hệ pháp luật nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi thực tế đƣợc hình thành trên cơ sở nguyện vọng của các bên đƣơng sự. Việc nhận con nuôi phải theo đúng quy định của pháp luật về nuôi con nuôi và mang đúng bản chất, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi, ngƣời con nuôi cùng chung sống với gia đình cha, mẹ nuôi, giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi phát sinh quan hệ cha mẹ con, không phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi, các bên có quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con đối với nhau để xây dựng gia đình thực sự. Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung của việc nuôi con nuôi nói chung thì nuôi con nuôi thực tế có điểm riêng biệt ở chỗ việc nuôi con nuôi phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của pháp luật nuôi con nuôi tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi không trái mục đích, đạo đức xã hội. Các bên phát sinh quan hệ nuôi con nuôi có thể bằng văn bản thỏa thuận hoặc bằng lời nói...mà không đƣợc đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Tại thời điểm Luật nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực, quan hệ nuôi con nuôi vẫn tồn tại và cả hai bên đều còn sống, đƣợc mọi ngƣời xung quanh 9
  16. thừa nhận thì quan hệ của họ sẽ đƣợc pháp luật công nhận, có giá trị pháp lý kể tử thời điểm phát sinh và các bên thực hiện đi đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong thời hạn 05 năm kể từ ngày Luật nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực thi hành. Có quan điểm cho rằng: “con nuôi thực tế cũng giống nhƣ con nuôi trên danh nghĩa, là sự thoả thuận miệng giữa hai gia đình về việc nuôi con nuôi mà không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, (có một số ít trƣờng hợp có văn bản viết tay giữa hai gia đình). Tuy nhiên loại con nuôi này khác với con nuôi trên danh nghĩa là ngƣời con nuôi ở hẳn với cha, mẹ nuôi và gắn bó với cha mẹ nuôi”[3, tr70]. Có thể nhận thấy quan hệ con nuôi thực tế và con nuôi danh nghĩa có dấu hiệu giống nhau là đều không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, song về bản chất của hai quan hệ là khác nhau. Con nuôi thực tế là ngƣời đƣợc nhận làm con trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, giữa ngƣời nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau, nhƣng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền [13]. Vậy có thể định nghĩa nuôi con nuôi thực tế là hình thức nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi trên thực tế đời sống xã hội mà chƣa đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền gọi là nuôi con nuôi thực tế. 1.1.3. Đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi thực tế - Nuôi con nuôi thực tế xuất phát từ yếu tố tình cảm: Việc nuôi con nuôi phát sinh có thể do nhiều lý do khác nhau nhƣng yếu tố chi phối đầu tiên và không thể thiếu đó là xuất phát yếu tố tình cảm, bởi cũng giống nhƣ việc nuôi con nuôi nói chung, trong nuôi con nuôi thực tế giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi hình thành mối quan hệ cha, mẹ và con, các bên đã thực hiện việc 10
  17. chăm sóc và nuôi dƣỡng nhau trên thực tế... Vì vậy mà nuôi con nuôi thực tế phải xuất phát từ yếu tố tình cảm thì các bên mới có thể xây dựng và vun đắp tình cảm cha, mẹ con bền vững. - Nuôi con nuôi thực tế là quan hệ lâu dài, bền vững: Giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi đã phát sinh quan hệ cha mẹ con từ trƣớc khi đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, các bên đã xây dựng tình cảm, gắn kết giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi, tự nguyện thực hiện việc chăm sóc, nuôi dƣỡng nhau xuất phát từ tình cảm mà không phải theo sự áp đặt từ yếu tố bên ngoài. Vì vậy mà nuôi con nuôi thực tế là quan hệ lâu dài, bền vững. - Các bên tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ: Nuôi con nuôi xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của các bên chủ thể, Nhà nƣớc không thể dùng pháp luật để ép buộc các bên phải tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi nếu nhƣ họ không muốn. Vì vậy mà các bên hình thành mối quan hệ cha, mẹ và con bền vững, sống chung một mái nhà, gắn bó tình cảm nhƣ ngƣời ruột thịt nên các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ, nuôi và con nuôi đƣợc thực hiện xuất phát từ ý chí, tự giác của các bên mà không phụ thuộc vào tác động bên ngoài. - Gắn bó mối quan hệ cha, mẹ và con trên thực tế: Các bên đã tự nguyện bày tỏ ý chí thiết lập quan hệ cha mẹ con trên thực tế mà không có sự tham gia của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Việc cho - nhận con nuôi có thể đƣợc thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản tùy thuộc vào ý chí của chủ thể nhƣng hệ quả của việc thỏa thuận đó là giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi đã phát sinh quan hệ cha, mẹ và con đƣợc họ hàng và mọi ngƣời xung quanh thừa nhận mà không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. - Nuôi con nuôi thực tế không mang yếu tố đền bù ngang giá: Mục đích của việc nuôi con nuôi nhằm giúp cho trẻ em có đƣợc gia đình thay thế đƣợc chăm sóc nuôi dƣỡng và phát triển trong môi trƣờng lành mạnh giúp cho việc 11
  18. hình thành và phát triển sau này. Việc nuôi con nuôi xuất phát từ tình cảm, từ những tấm lòng nhân đạo đối với những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ mắc bệnh hiểm nghèo...Vì vậy trong mọi trƣờng hợp lợi ích của trẻ em luôn đƣợc xem xét, giải quyết trƣớc lợi ích của cha, mẹ nuôi. Vì vậy tính chất đền bù ngang giá không đƣợc đặt ra trong quan hệ nuôi con nuôi. 1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi thực tế Ở nƣớc ta, một quốc gia đang phát triển với mức thu nhập thấp kèm theo di chứng nặng nề từ lịch sử các cuộc chiến tranh, vì vậy điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn kèm theo nhiều vấn đề phát sinh từ xã hội, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ nhiễm chất độc màu da cam từ hậu quả chiến tranh Việt Nam, rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi khi vừa đƣợc sinh ra, những gia đình hoàn cảnh đông con không có điều kiện chăm sóc con cái…. các em đã sớm phải bƣơn trải ngoài xã hội để lo miếng cơm manh áo phải đi đánh giày, ăn xin… nhiều trƣờng hợp bị dòng đời xô đẩy đã rơi và những tệ nạn xã hội nhƣ trộm cắp, móc túi, thậm chí giết ngƣời cƣớp của …đã và đang trở thành gánh nặng của xã hội. Trong khi đó, lẽ ra ở lứa tuổi này các em phải đƣợc chăm sóc từ cha mẹ và những ngƣời thân yêu của mình, đƣợc cắp sách đến trƣờng, đƣợc vui chơi nhƣng các em hầu nhƣ không đƣợc một mái ấm gia đình đƣợc học hành, giáo dục. Vì vậy vấn đề nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng giúp trẻ em có đƣợc một mái ấm gia đình, đƣợc hƣởng sự chăm sóc nuôi dƣỡng từ gia đình cha, mẹ nuôi, giúp cho các em có sự phát triển toàn diện cả thể chất lẫn tinh thần; Ngoài ra, việc nhận con nuôi cũng giúp cho những ngƣời đơn thân, những cặp vợ chồ ng hiếm con , vô sinh đƣợc có con, có chỗ dựa tinh thần để cảm nhận đƣợc cuộc sống trọn vẹn. Nuôi con nuôi là hiện tƣợng xã hội phổ biến vì vậy việc ban hành pháp luật về nuôi con nuôi là rất cần thiết để có cơ sở bảo vệ bền vững cho quan hệ cha, mẹ nuôi và con nuôi. Trong các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nƣớc, 12
  19. pháp luật về nuôi con nuôi cũng đã có những quy định, có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, trên thực tế đã không ít trƣờng hợp do không hiểu biết pháp luật nên khi phát sinh quan hệ nuôi con nuôi các bên đã tự thỏa thuận việc cho, nhận con nuôi mà không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.. Mặc dù Luật HN&GĐ đã quy định việc nhận nuôi con nuôi phải đƣợc cơ quan hành chính đăng ký và ghi vào sổ hộ tịch nhƣng đã không đƣợc ngƣời dân thực hiện theo đúng quy định của pháp luật bởi tâm lý, quan niệm cho rằng tình cảm, sự yêu thƣơng và trách nhiệm cho nhau là đủ để gắn kết cha, mẹ con. Cùng với sự phát triển của xã hội các vấn đề phát sinh liên quan đến quan hệ nuôi con nuôi nhƣ quyền hƣởng di sản thừa kế giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi, tranh chấp thừa kế giữa anh, chị em nuôi… ngƣời dân cũng nhận thức rõ hơn về việc sự cần thiết phải đăng ký quan đến tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để đảm bảo cho quan hệ cha, mẹ con bền vững. Tuy nhiên không phải lúc nào pháp luật cũng kịp thời điều chỉnh các sự kiện phát sinh trên thực tế, chẳng hạn đến khi đi đăng ký thì con nuôi đã quá tuổi, không đủ điều kiện để đăng ký. Vì vậy, Luật nuôi con nuôi năm 2010 ra đời có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của cả bên nuôi và bên đƣợc nhận nuôi về việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế nhƣng không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Điều 50 của Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định về điều khoản chuyển tiếp có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nuôi con nuôi. Có thể thấy rằng nuôi con nuôi là biện pháp hữu hiệu và có ý nghĩa hết sức to lớn để cho trẻ em đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng và giáo dục trong tình yêu thƣơng của gia đình và ngƣời thân. Tuy nhiên dù trong hoàn cảnh nào, xã hội có thay đổi đến đâu cũng phải đảm bảo đƣợc mục đích là vì tƣơng lai trẻ em - tƣơng lai đất nƣớc. 13
  20. 1.3. Pháp luật điều chỉnh về nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc điều chỉnh nuôi con nuôi thực tế * Phong tục tập quán và đạo đức truyền thống: Việc nhận trẻ mồ côi, không nơi nƣơng tựa làm con nuôi là việc làm thiện, nhân đạo là phong tục thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc “lá lành đùm lá rách” luôn đƣợc xã hội ủng hộ. Việc nhận nuôi con nuôi đối với những trƣờng hợp này mang tính nhân đạo cao cả thể hiện tinh thần tƣơng thân tƣơng ái của ngƣời dân Việt Nam ta. Việt Nam có phong tục nhận nuôi con nuôi theo tập tục nối nòi- tục lệ phổ biến có tính chất đặc trƣng ở các đồng bào dân tộc thiểu số. Nối nòi có thể hiểu là sự thay thế ngƣời khác bằng một ngƣời trong họ hàng của ngƣời chết để tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân nhằm duy trì dòng họ, nòi giống “Đối với dân tộc Mường, Thái mà không có con thì họ nhận con của người anh hay em làm con nuôi coi như con đẻ của mình”[27, tr70], “Người Chăm cũng thường nhận nuôi con nuôi là người trong tộc họ, nếu không có thì kiếm người ngoài tộc”[27,tr101].Có thể nói việc nhận con nuôi trong họ đã trở thành một phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta, phù hợp với tâm lý của ngƣời Việt Nam “đông con nhiều cháu”. Ngoài ra, với quan niệm của ngƣời Việt Nam “Có nếp, có tẻ” nên việc nhận con nuôi còn để thỏa mãn tâm ý của ngƣời nhận nuôi. Bên cạnh đó, một số ngƣời còn có quan niệm nhận con nuôi để lấy phúc, trong thực tiễn đời sống rất nhiều trƣờng hợp vì mê tín nên đã nhận nuôi đứa trẻ để lấy phúc với hi vọng đem lại may mắn cho gia đình, có thể giảm bớt tai vạ, những điều không may mắn cho gia đình hoặc xin con nuôi để sinh con theo ý muốn... Quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, đạo đức truyền thống tồn tại từ lâu trong cộng đồng ngƣời dân Việt Nam và đến nay vẫn đang tồn tại, quan hệ này mặc dù chƣa đƣợc đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2