intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về hoạt động trợ giúp pháp lý

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

36
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày các nội dung dung: Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL; pháp luật Việt Nam về TGPL; so sánh tổ chức và hoạt động TGPL giữa Việt Nam với nước ngoài; một số kiến nghị, giải pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về hoạt động trợ giúp pháp lý

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN HỮU VĂN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH HÀ NỘI – 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Hữu Văn
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ........................ 7 1.1. Các Điều ước quốc tế đa phương quy định về hoạt động trợ giúp pháp lý ........................................................................................ 7 1.2. Pháp luật nước ngoài về hoạt động trợ giúp pháp lý ................... 11 1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của trợ giúp pháp lý trên thế giới....................................................................................... 11 1.2.2. Quy định cơ bản của một số quốc gia về trợ giúp pháp lý ............... 14 Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ .......... 31 2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam .......................................................................................... 31 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1987 ................................................................. 31 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997 ............................................. 36 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1997 đến nay......................................................... 41 2.2. Một số quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý .............................................................................................. 50 2.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý................................................................ 50 2.2.2. Mô hình tổ chức, đối tượng và người thực hiện trợ giúp pháp lý ..... 52 2.2.3. Hình thức, lĩnh vực và kinh phí trợ giúp pháp lý .............................. 65
  4. 2.2.4. Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ............................................... 73 2.3. Các Hiệp định tương trợ tư pháp ký kết giữa Việt Nam với một số quốc gia liên quan đến vấn đề trợ giúp pháp lý ............... 77 Chương 3: SO SÁNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ GIỮA VIỆT NAM VỚI NƯỚC NGOÀI. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ........................................................ 83 3.1. So sánh tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý giữa Việt Nam với nước ngoài......................................................................... 83 3.1.1. Những điểm tương đồng.................................................................... 83 3.1.2. Những điểm khác biệt ....................................................................... 84 3.2. Một số kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ........................................................... 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TT Viết tắt Nội dung từ 1. CHXH Cộng hòa xã hội 2. CTV Cộng tác viên 3. ĐDNTT Đại diện ngoài tố tụng 4. ĐƯQT Điều ước quốc tế 5. LHQ Liên hợp quốc 6. QPPL Quy phạm pháp luật 7. TGTT Tham gia tố tụng 8. TGPL Trợ giúp pháp lý 9. TVPL Tư vấn pháp luật 10. UBND Ủy ban nhân dân
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên thế giới, TGPL được hình thành khá sớm, khởi nguồn từ thành cổ A-then vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Tiếp đến là Anh (thế kỷ XV), Na Uy (thế kỷ XVII), Pháp (thế kỷ XVIII), Mỹ (nửa cuối thế kỷ XIX). Sau đó, phát triển rộng khắp ở nhiều quốc gia trên thế giới kể từ sau đại chiến thế giới lần thứ 2: Hà Lan (1970), Thụy Sỹ (1972), Hàn Quốc (1972), Đức (1981), Trung Quốc (1996)... Ở khu vực Đông Nam Á, TGPL đã xuất hiện ở Singgapore, Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Philippine và Campuchia. Cùng với tiến trình mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác kinh tế- quốc tế giữa các quốc gia, TGPL đã được quy định trong nhiều Công ước quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền của LHQ năm 1948, Công ước Châu Âu về quyền chính trị và dân sự năm 1976, Công ước Châu Âu về nhân quyền năm 1953… và trong nhiều ĐƯQT song phương được ký kết giữa các quốc gia liên quan đến vấn đề tương trợ tư pháp. Ở Việt Nam, TGPL ra đời muộn hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới và còn là một khái niệm tương đối mới mẻ. Việc thành lập mô hình tổ chức thực hiện TGPL miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam xuất phát từ chủ trương: “xóa đói, giảm nghèo”, “đền ơn, đáp nghĩa”, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu, tình hình thực tế đặt ra trong xã hội gắn liền với nhu cầu tìm hiểu pháp luật, TGPL của người dân và trên cơ sở nghiên cứu sâu rộng hoạt động của mô hình TGPL các nước trên thế giới, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện TGPL thí điểm ở thành phố Cần 1
  7. Thơ và tỉnh Hà Tây (cũ). Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/QĐ-TTg về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, theo đó, Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp và các Trung tâm TGPL nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố ra đời với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động TGPL và quản lý nhà nước về TGPL. Trải qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, mô hình TGPL nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu, tổ chức cơ bản đi vào ổn định, đang từng bước thể hiện tính chuyên nghiệp, hiện đại. Mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL đã giải quyết trên 1,5 triệu vụ, việc cho gần 1,4 triệu lượt đối tượng được TGPL có nhu cầu, qua đó khẳng định vai trò, ý nghĩa của chính sách TGPL đối với đời sống xã hội, đặc biệt là vấn đề “xóa đói, giảm nghèo”, nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân, hỗ trợ bảo đảm quyền con người trong xã hội qua việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đóng góp ý nghĩa vào việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật Việt Nam về chính trị- kinh tế- văn hóa- xã hội- an ninh- quốc phòng và vào công tác thực thi, thi hành pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đi cùng với sự thành công trong hoạt động TGPL thời gian qua là sự quyết tâm cao của của Đảng và Nhà nước ta trong công tác hoàn thiện thể chế, chính sách điều chỉnh hoạt động này. Với một khối lượng văn bản khá đồ sộ, đặc biệt quan trọng phải kể đến là Luật TGPL được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006, Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án: "Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015" và Quyết định số 678/QĐ- TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát 2
  8. triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã tạo hành lang, cơ sở pháp lý vững chắc cho TGPL Việt Nam không ngừng lớn mạnh và phát triển ở hiện tại và trong tương lai, là nền tảng định hướng quan trọng để đáp ứng đầy đủ, đạt chất lượng, hiệu quả mọi nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc cần được TGPL của người dân đặc biệt là của người nghèo và các đối tượng chính sách. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì TGPL Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ thực trạng tổ chức, bộ máy, nguồn lực phục vụ đến thực tiễn hoạt động. Vì vậy, để TGPL nước ta thực sự thể hiện tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa cao, theo kịp với xu thế phát triển TGPL trên thế giới nhất là với các nước có mô hình TGPL tiên tiến, hiện đại để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu TGPL của người dân với chất lượng cao thì còn nhiều việc phải làm, nhiều biện pháp phải giải quyết liên quan đến yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế về TGPL, đẩy mạnh kiện toàn bộ máy tổ chức thực hiện, đổi mới cách thức hoạt động, đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc cùng sự quan tâm ủng hộ, đóng góp tích cực, mạnh mẽ của đông đảo nguồn lực trong xã hội dành cho TGPL. Từ những vấn đề trên, để nhận thức đầy đủ, sâu sắc về một chính sách xã hội nhân đạo, nhân văn gắn với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và các quốc gia trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn, từ đó xây dựng những luận điểm, giải pháp, kiến nghị khoa học, xác đáng nhằm đẩy mạnh hiệu quả tổ chức, hoạt động TGPL nước ta. Tôi chọn đề tài: “Pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về hoạt động TGPL” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của Đề tài Trước khi nghiên cứu, xây dựng đề tài này đã có một số công trình 3
  9. nghiên cứu khoa học cấp bộ và luận văn thạc sĩ chuyên ngành nghiên cứu về thể chế, chính sách, mô hình tổ chức, hoạt động TGPL như: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Hồng Tuyến về hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam (năm 2004), Luận văn thạc sĩ luật của tác giả Nguyễn Huỳnh Huyện về thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam (năm 2006), Luận văn thạc sĩ luật của tác giả Đỗ Xuân Lân về hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp về mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay (năm 1999), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ cùng Viện về luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL (năm 2004)… Nội dung của các luận văn, công trình nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích, làm rõ một số nội dung quan trọng, thiết yếu trong quá trình tổ chức, hoạt động TGPL, cơ bản, trọng tâm là tổng hợp, đánh giá thực trạng, đưa ra giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách TGPL ở Việt Nam. Tuy nhiên, xét trên phương diện khách quan, hiện vẫn chưa có công trình, luận văn nào tập trung nghiên cứu khái quát, bao trùm hoạt động TGPL trên diện rộng, từ những quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia cho đến pháp luật Việt Nam cùng việc chứng minh thực tiễn tổ chức, hoạt động và tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển. Vì vậy, việc xây dựng Luận văn thạc sĩ này sẽ có nhiều điểm mới, mở rộng hơn so với các đề tài nghiên cứu, luận văn thạc sĩ trước đó. Nội dung luận văn là những tổng hợp, nghiên cứu các ĐƯQT đa phương và song phương, cơ bản và chủ yếu là các văn bản mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập liên quan đến TGPL, những quy định cơ bản trong chính sách, pháp luật và thực tiễn tổ chức, hoạt động TGPL ở một số quốc gia trên thế 4
  10. giới và ở tại Việt Nam. Trên cơ sở xác định những điểm tương đồng và khác biệt trong cách thức tổ chức, bộ máy, tác giả đưa ra những giải pháp tích cực với mong muốn đóng góp một phần sức nhỏ vào công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL Việt Nam ở giai đoạn hiện nay và các giai đoạn kế tiếp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn thạc sĩ tập trung nghiên cứu đối tượng chính là TGPL, một chính sách nhân đạo, từ thiện, mang đậm bản chất nhân văn đang được các quốc gia đầu tư phát triển. Xoay quanh đối tượng chính là những nội dung được quy định trong pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam, cùng với việc tổng hợp, đánh giá tiến trình hình thành, phát triển, cách thức xây dựng, quá trình tổ chức, hoạt động ở một số nước và ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi rộng, bao gồm: Các ĐƯQT đa phương về TGPL mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập; Hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam với các quốc gia có đề cập đến vấn đề này; Pháp luật Việt Nam và một số quốc gia quy định về khái niệm, mô hình TGPL, người thực hiện TGPL, đối tượng thuộc diện TGPL, hình thức, lĩnh vực, kinh phí dành cho TGPL và quản lý nhà nước về TGPL. Với những điểm tương đồng và khác biệt về TGPL giữa Việt Nam với một số quốc gia, qua thực tiễn tổ chức, hoạt động là những vấn đề trọng tâm, cần thiết theo phương diện cá nhân để hoàn thiện tổ chức, đẩy mạnh hoạt động TGPL ở Việt Nam trong tiến trình bảo vệ quyền lợi của người nghèo và các đối tượng chính sách. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa khoa học biện chứng và chủ nghĩa khoa học lịch sử trong mối quan hệ tổng hòa, tương hỗ chặt chẽ lẫn nhau để làm sáng tỏ các vấn đề từ góc độ lý luận và thực tiễn. 5
  11. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được vận dụng trong quá trình viết Luận văn là: Phương pháp tư duy trừu tượng; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp so sánh và phương pháp hệ thống. 5. Kết cấu của Luận văn Không bao gồm mục lục, phần mở đầu, kết luận và nguồn tài liệu tham khảo, Luận văn được xây dựng với bố cục gồm 03 Chương: Chương 1. Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL. Chương 2. Pháp luật Việt Nam về TGPL. Chương 3. So sánh tổ chức và hoạt động TGPL giữa Việt Nam với nước ngoài. Một số kiến nghị, giải pháp. 6
  12. Chương 1 PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 1.1. Các ĐƯQT đa phương quy định về hoạt động TGPL Để tăng cường bảo vệ quyền con người, các quốc gia đều quan tâm đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền cùng với việc đặt tổ chức và hoạt động của công quyền trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, quyền con người cũng gắn liền với các trào lưu tiến bộ xã hội của nhân loại để không ngừng mở rộng và nâng cao giá trị dân chủ, xác lập vị thế, vai trò quan trọng của các cá thể- con người, chủ thể của mọi hành vi trong xã hội. Pháp luật trở thành một trong các công cụ quan trọng của nhà nước pháp quyền điều chỉnh xã hội để bảo vệ quyền con người ở mỗi quốc gia. Trong đó, pháp luật với công chúng, nhất là những bộ phận dân nghèo, yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội là một vấn đề mà các chế độ chính trị khác nhau ở tất cả các nước đều quan tâm nghiên cứu và giải quyết theo cách riêng sao cho hiệu quả, phù hợp với truyền thống pháp luật, điều kiện kinh tế-xã hội. Từ yêu cầu và trong xu thế hội nhập quốc tế, vấn đề bảo vệ quyền con người được ghi nhận trong nhiều ĐƯQT, mà ở đó TGPL được khẳng định như một quyền độc lập của con người, đồng thời là công cụ để bảo vệ các quyền công dân khác. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (được thông qua và tuyên bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng LHQ) đã trịnh trọng tuyên bố: …Tấ t cả mo ̣i người sinh ra đề u đươ ̣c tự do và biǹ h đẳ ng về nhân phẩ m và quyề n . Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau tro ng tiǹ h bằ ng hữu … 7
  13. và … Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào…[21]. Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng LHQ đã đưa ra tuyên bố về nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự, trong đó TGPL được thừa nhận: …Là một thành tố cơ bản của một hệ thống tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho việc thụ hưởng các quyền khác, bao gồm quyền có phiên toà xét xử công bằng và là một sự bảo đảm quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và niềm tin của công chúng đối với tiến bộ của hệ thống tư pháp hình sự… và Nhà nước cần bảo đảm quyền được TGPL trong hệ thống pháp luật quốc gia ở mức độ cao nhất có thể [27]. Đồng thời, Tuyên bố xác định rõ nguyên tắc TGPL dành cho các đối tượng cụ thể như: người bị tình nghi hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự, nạn nhân của tội phạm, nhân chứng, trẻ em, phụ nữ và nhóm người có yêu cầu đặc biệt cùng sự bảo đảm, bảo vệ người thực hiện TGPL, thẩm quyền, trách nhiệm của họ trong quá trình thực thi công vụ. Từ những nguyên tắc, nội dung mang tính định hướng này sẽ góp phần hoàn thiện chính sách TGPL với tư cách một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống tư pháp hình sự ở các quốc gia, từ đó khẳng định, phát huy giá trị mạnh mẽ của TGPL cho các đối tượng trong quá trình tố tụng. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực ngày 23/3/1976 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) đã đặt ra quy định khi xét xử về một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng việc 8
  14. có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự TGPL theo sự lựa chọn của mình, được thông báo về quyền này nếu chưa có sự TGPL và được nhận sự TGPL theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả. Ngoài ra, Công ước này còn quy định về quyền giúp đỡ khi bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do; quyền bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán; quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật; thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên; quyền được xem xét lại vụ việc, mức án tại Tòa án cao hơn; quyền được công nhận ở bất kỳ đâu là một con người trước pháp luật; quyền và cơ hội tiếp cận nói chung các dịch vụ công cộng ở đất nước mình; quyền của người dân tộc thiểu số; quyền suy đoán vô tội trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án [23]… Đây là những quyền cơ bản của con người trong hoạt động tố tụng, rộng hơn là ở đời sống xã hội liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến quyền TGPL. Công ước quốc tế về quyền trẻ em thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực từ ngày 2/9/1990 (Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990), theo điều 49 của Công ước thì trẻ em phải được đặc biệt trao cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy tắc thủ tục trong pháp luật quốc gia và các quốc gia thành viên phải bảo đảm trẻ em bị tước tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận sự TGPL và những trợ giúp thích hợp khác, cũng như quyền được chất vấn tính chất hợp pháp của việc tước tự do đó trước một Tòa án hay cơ quan có thẩm quyền, độc lập, vô tư khác và có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng liên quan đến bất kỳ hành động nào như vậy [24]. 9
  15. Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ được thông qua và để mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết 34/180 ngày 18/12/1979 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực từ ngày 3/9/1981 (Việt Nam phê chuẩn ngày 18/12/1982) đã quy định các quyền cơ bản của người phụ nữ được sự bảo vệ của luật pháp nhằm chống lại nạn phân biệt đối xử, bảo đảm bình đằng giới, trong đó cũng đề cập đến vấn đề TGPL. Công ước quốc tế về người khuyết tật được Đại Hội đồng LHQ thông qua ngày 13/12 /2006 (Việt Nam là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước vào ngày 22/10/2007) quy định các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện những biện pháp phù hợp để tạo sự tiếp cận cho người khuyết tật đối với những hỗ trợ pháp lý mà họ cần khi thực hiện năng lực pháp lý và đảm bảo khả năng tiếp cận có hiệu quả đối với các dịch vụ tư pháp cho người khuyết tật [26]. Như vậy, các Tuyên bố, ĐƯQT đa phương mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập đã quy định một cách trực tiếp hay gián tiếp quyền được TGPL nằm trong các quyền cơ bản của con người và là cơ sở để các quốc gia thành viên cụ thể hóa phù hợp trong các văn bản QPPL nước mình. Tuy nhiên, tổng hợp tính đến thời điểm hiện tại, nội dung các ĐƯQT đa phương quy định về TGPL mới chỉ điều chỉnh vấn đề theo cách chung, khái quát cho một số đối tượng nhất định và hiện chưa có văn bản quy định tập trung, thống nhất, đầy đủ về vấn đề này. Điều này gây ra khó khăn không nhỏ trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm vững các quy định về TGPL trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như việc pháp điển hóa vào pháp luật các quốc gia thành viên. Từ thực trạng trên, tác giả nhận thấy các tổ chức quốc tế, các quốc gia cần hợp tác nghiên cứu, xây dựng một ĐƯQT thống nhất điều chỉnh toàn diện, 10
  16. đầy đủ về vấn đề này, tránh những mâu thuẫn, trồng chéo giữa các văn bản đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vấn đề TGPL. Nội dung của ĐƯQT chung cần xác định chính xác, hướng trọng tâm vào khái niệm TGPL, các đối tượng được TGPL, quyền và nghĩa vụ của họ, hình thức, lĩnh vực thực hiện, trình tự, thủ tục khi có yêu cầu và cách thức hợp tác quốc tế giữa các quốc gia về TGPL. 1.2. Pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL 1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của TGPL trên thế giới Hình thành bắt đầu từ thành cổ A- then vào khoảng thế kỷ thứ X trước Công nguyên. Đến năm 224, Nhà nước Lã Mã ban hành đạo luật cấm những người biện hộ nhận tiền công. Ở nước Anh, từ thế kỷ XV pháp luật Anh quốc đã có quy định: “cần dành cho người nghèo khổ sự giúp đỡ để họ được hưởng quyền lợi mà pháp luật ban cho”. Năm 1495, vua Henry VII trong một nghị án đã có quy định cụ thể hơn về vấn đề này: “Chính nghĩa cần được dành chung cho người nghèo để thực hiện quyền tự do họ được hưởng- điều đó là tự nhiên không gì thay thế”. Ở Châu Âu lục địa, TGPL có nguồn gốc từ quyền được tư vấn và xét xử công bằng của công dân trước pháp luật. Theo đó, người nghèo được miễn án phí, được cung cấp luật sư miễn phí khi không có đủ khả năng tài chính để chi trả thù lao thuê luật sư. Những năm đầu thế kỷ XX, một số nước Châu Âu chưa coi TGPL là trách nhiệm của mình mà dựa vào hoạt động TGPL mang tính từ thiện của luật sư. Nhà nước sẽ chi trả một khoản thù lao nhất định cho luật sư khi thực hiện TGPL. Tuy nhiên, để hạn chế việc chi trả thù lao cho luật sư miễn phí trong các vụ việc tố tụng, một số nước đã quy định nghĩa vụ TGPL bắt buộc của luật sư trong các văn bản pháp luật. Giữa các nước theo truyền thống pháp luật thành văn và các nước theo truyền thống án lệ có cách tiếp cận khác nhau về quyền có luật sư miễn phí. Các nước theo truyền thống pháp luật thành văn thường nhấn mạnh về quyền 11
  17. có luật sư trong tố tụng dân sự và đương sự được cung cấp dịch vụ TGPL thông qua một luật sư do khách hàng yêu cầu, trong khi các nước theo truyền thống án lệ thường nhấn mạnh đến quyền được tư vấn và cung cấp TGPL chủ yếu liên quan đến thủ tục tố tụng pháp luật hình sự. Tại Na Uy, từ thế kỷ XVII đã xuất hiện loại hình tranh tụng miễn phí. Trong thời gian này, nhà vua đã ban hành một số Sắc lệnh cho người nghèo nộp đơn xin luật sư TGPL tại Tòa án để tránh sự bất công đối với người nghèo và sự bất bình của công chúng. Những luật sư (hoặc công tố viên) được nhà vua chỉ định thực hiện những vụ việc TGPL này sẽ được nhận một khoản thù lao theo mức quy định. Tại Mỹ, ngay từ nửa cuối thế kỷ XIX, khi các bang của Mỹ thành lập Hiệp hội luật sư và các tổ chức tương tự đã quy định rõ quy phạm hành vi đạo đức của luật sư, trong đó có một số nội dung tương đối đầy đủ là: “Quy tắc hành vi TGPL của luật sư”. Sau đó không lâu, để làm nổi bật hơn nội dung TGPL, một Hiệp hội luật sư của Mỹ đã chuyển hướng tập trung sáng lập một hình thức mới để giải quyết vấn đề TGPL cho người nghèo. Hình thức này có tổ chức hơn và mang tính quy phạm hơn, coi đây là một thiên chức của luật sư. Tại Pháp- một nước tiêu biểu trong số các nước theo hệ thống pháp luật lục địa, sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, ở các hiệp hội luật sư dần dần hình thành một tập quán là trước Tòa án, luật sư biện hộ cho người nghèo không thu phí. Đến năm 1851, tập quán này trở thành một chính sách trong các quy định pháp luật gọi là “Luật luật sư trợ giúp”. Đối với vụ án bị xử tội danh nặng thì phải chỉ định luật sư biện hộ cho bị cáo, còn những vụ án xử tội danh nhẹ, Chánh án Tòa án cũng có thể chỉ định biện hộ nếu bị cáo yêu cầu và chứng minh được mình thực sự nghèo khó. Ngoài ra, đối với các vụ án tranh chấp liên quan đến tiền dưỡng lão, tội phạm vị thành niên, tai nạn nghề nghiệp, tiền công lao động, thất nghiệp… pháp luật cũng quy định đều phải có 12
  18. sự trợ giúp khi tiến hành xét xử. Sau đại chiến thế giới lần thứ II, sự tăng trưởng về kinh tế cùng với quan niệm tư tưởng xã hội hóa phúc lợi, các nhà nước đã thúc đẩy TGPL phát triển lên giai đoạn mới. Trong giai đoạn này, hệ thống TGPL tương đối đầy đủ, chính thức đã được thành lập như: Tại Anh (Năm 1949), Ontario- Canada (1951), Hà Lan (1970), Thụy Sỹ (1972), Đức (1981), Hàn Quốc (1972), Trung Quốc (1996)… Trong khu vực Đông Nam Á, cùng với Việt Nam, TGPL đã xuất hiện tại Singgapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippine, Cămpuchia. Bên cạnh đó, TGPL đã trở thành quy phạm chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế thể hiện trong Tuyên ngôn nhân quyền của LHQ năm 1948, Công ước Châu Âu về quyền chính trị và dân sự năm 1976, Công ước Châu Âu về nhân quyền năm 1953 và nhiều văn bản pháp luật quốc tế khác. Gần đây, dưới sức ép của công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người, nhiều Chính phủ đã quan tâm hơn đến việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiết yếu cho người nghèo và đối tượng đặc biệt để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt là quyền đại diện, quyền bào chữa tại các cơ quan tiến hành tố tụng. Cùng với sự phát triển của nghề luật sư và mạng lưới tổ chức dân sự, ngày càng có nhiều luật sư, tổ chức xã hội cung ứng các dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo và một số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Vì thế, hầu hết pháp luật các nước đều ghi nhận trách nhiệm của nhà nước và xã hội, đặc biệt là luật sư trong việc TGPL. Nhiều nước đã thiết lập mô hình TGPL hỗn hợp mà ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa TGPL của nhà nước với TGPL mang tính xã hội. Các hình thức TGPL cũng đa dạng, phong phú như gặp trực tiếp, qua thư, điện thoại...Người được TGPL không chỉ là người nghèo mà còn bao gồm trẻ em, phụ nữ là nạn 13
  19. nhân của nạn buôn bán phụ nữ và bạo lực gia đình, người già cô đơn, người tị nạn, người dân tộc thiểu số. Khái niệm TGPL được phát triển theo nghĩa rộng hơn: “tiếp cận công lý”- tiếp cận có hiệu quả nhu cầu pháp luật, không chỉ đại diện, bào chữa, TVPL mà còn là phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Trước nhu cầu phát triển của TGPL trong đặc điểm, tình hình mới, pháp luật về TGPL ở các nước trên thế giới đã có nhiều chỉnh sửa, hoàn thiện phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước và trở thành công cụ, hình thức hữu hiệu trong việc giúp đỡ, hỗ trợ những người nghèo, đối tượng đặc thù cần được quan tâm trong xã hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, góp phần đảm bảo được sự bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội và vào việc giữ gìn trật tự trị an, thực hiện chính sách an sinh xã hội ở mỗi quốc gia. 1.2.2. Quy định cơ bản của một số quốc gia về TGPL 1.2.2.1. Khái niệm TGPL Với thuật ngữ khởi đầu bằng tiếng Anh là: “legail aid”, thì TGPL ở mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau. Giới hạn Luận văn này tập trung nghiên cứu khái niệm trong quy định của một số nước. Theo Luật TGPL của Bang Victoria năm 1978 thuộc Australia thì TGPL là: Giáo dục, tư vấn, thông tin pháp luật; Bất cứ dịch vụ pháp luật nào do luật sư cung cấp; Các dịch vụ khác trong phạm vi thẩm quyền của TGPL, bao gồm dịch vụ của luật sư theo nghĩa vụ, TVPL và hỗ trợ pháp luật [2]. Là đại diện cho khách hàng trước Tòa án nhằm giúp đỡ những người không có khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý (Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp lý năm 1995 của Singgapore) [43]. Là việc tư vấn và đưa ra ý kiến; soạn thảo các hợp đồng; cung cấp cách dịch vụ pháp lý phục vụ cho hoạt động tranh tụng cho những người nghèo và người bị đối xử bất công (Đạo luật về hành nghề luật B.E 2528 năm 1985 của 14
  20. Thái Lan) [44]. TGPL bao gồm TVPL, việc đại diện trước Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, các biện pháp cần thiết và việc miễn trừ các chi phí cụ thể cho những người không đủ điều kiện chi trả chi phí dịch vụ pháp lý (Đạo luật TGPL của Phần Lan năm 2001) [37]. Sự trợ giúp trong việc sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một người có thể sử dụng, gồm cả biện pháp đối với thủ tục tố tụng, liên quan đến việc áp dụng pháp luật (Luật về TGPL năm 1988 của Anh) [1]. Là tạo sự công bằng khi tiếp cận pháp luật của các cá nhân không thể thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những người có thu nhập thấp (Luật về công ty dịch vụ pháp lý của Hoa Kỳ sửa đổi năm 1977) [29]. Tại Đức: TGPL là giúp đỡ một phần hay toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán các chi phí về TVPL, đại diện hoặc bào chữa trước Toà án… Tuy mỗi nước có cách quy định rộng hay mở về TGPL, song đặc điểm chung trong quy định khái niệm về TGPL đều thể hiện rõ nét bản chất nhân đạo, từ thiện, chính là: Giúp đỡ miễn phí cho những người không có khả năng thanh toán dịch vụ pháp lý được hưởng các hình thức TGPL theo quy định. Điều này là điểm khác biệt giữa TGPL miễn phí cho đối tượng có hoàn cảnh khó khăn với hoạt động hành nghề có thu phí từ khách hàng của luật sư. 1.2.2.2. Mô hình tổ chức, đối tượng và người thực hiện TGPL * Mô hình tổ chức TGPL Mô hình tổ chức TGPL là các thiết chế được lập ra để thực hiện TGPL cho những người thuộc diện được thụ hưởng loại hình dịch vụ này. Các thiết chế đó có thể do Nhà nước hoặc một tổ chức xã hội thành lập hoặc cũng có thể do một cá nhân đảm nhiệm. Do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội chi phối nên các nước đã hình 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2