intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

35
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài luận văn là nhằm giúp cho người đọc nhận thức được toàn cảnh pháp luật về phát hành chứng khoán công ty, cụ thể là chào bán chứng khoán ra công chúng của công ty ở Việt Nam, giúp người đọc nắm được thực tiễn áp dụng pháp luật này và thực tiễn điều chỉnh của nó trên thực tế, đồng thời từ đó có thể đề xuất thêm những giải pháp hiệu quả hơn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Minh Hiếu
  2. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 6 CÔNG TY 1.1. Chứng khoán công ty 6 1.1.1. Khái niệm chứng khoán công ty 6 1.1.2. Đặc điểm của chứng khoán công ty 8 1.1.3. Các loại chứng khoán công ty 11 1.2. Phát hành chứng khoán công ty 18 1.2.1. Khái niệm về phát hành chứng khoán công ty 18 1.2.2. Bản chất phát hành chứng khoán công ty 20 1.2.3. Các hình thức phát hành chứng khoán công ty 21 1.2.4. Bảo lãnh phát hành chứng khoán công ty 22 1.3. Quy định về hoạt động phát hành chứng khoán công ty ở 24 một số nước trên thế giới Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT PHÁT HÀNH CHỨNG 30 KHOÁN CÔNG TY Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1. Các quy định pháp luật về phát hành chứng khoán công ty 30 2.1.1. Chủ thể phát hành chứng khoán công ty 30 2.1.2. Điều kiện, trình tự và thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 34 2.1.2.1. Phát hành cổ phiếu 34 2.1.2.2. Phát hành trái phiếu 41 2.1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động phát hành chứng khoán 45 công ty
  3. 2.2. Thực trạng hoạt động phát hành chứng khoán công ty 48 2.2.1. Phát hành chứng khoán riêng lẻ 48 2.2.2 Chào bán chứng khoán ra công chúng 49 2.2.2.1. Khả năng tham gia của các tổ chức nước ngoài vào hoạt động 49 chứng khoán và phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam 2.2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện, thủ tục trong 52 hoạt động phát hành chứng khoán công ty 2.2.2.3. Một số vấn đề khác trong thực tiễn phát hành chứng khoán 57 công ty ở Việt Nam Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁT 75 HÀNH CHỨNG KHOÁN CÔNG TY Ở VIỆT NAM 3.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật phát hành chứng khoán công ty 75 3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về phát hành chứng khoán 78 công ty ở Việt Nam hiện nay 3.2.1. Hoàn thiện một số nội dung cơ bản về pháp luật phát hành 78 chứng khoán công ty 3.2.2 Hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan đến phát hành chứng 87 khoán công ty KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ khi đi vào hoạt động đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển thị trường và xem thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. So với lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam còn mới và quy mô nhỏ bé, song chúng ta đã tạo dựng được một thể chế thị trường chứng khoán và vận hành nó theo những nguyên tắc cơ bản của thị trường từ khuôn khổ pháp luật đến cách thức vận hành, tạo cho thị trường chứng khoán phát triển theo đúng tinh thần văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: "Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ chức vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam" [1]. Thông qua thị trường chứng khoán (kênh huy động vốn trung và dài hạn), các doanh nghiệp có cơ hội và môi trường huy động vốn cho hoạt động của mình bằng việc phát hành chứng khoán công ty. Việc phát hành chứng khoán được thực hiện thông qua hai phương thức là chào bán chứng khoán ra công chúng và phát hành chứng khoán riêng lẻ. Văn bản pháp luật hiện nay chủ yếu quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng vì đây là hình thức phát hành phổ biến, công khai của các công ty trong "chiến dịch" chiếm lĩnh thị trường vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Bằng việc ban hành Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006 cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Tiếp theo đó là một loạt văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán ra đời góp phần hình thành một hệ thống các văn bản pháp luật về chứng 1
  5. khoán đồng bộ, điều chỉnh hiệu quả các quan hệ pháp luật về chứng khoán. Tuy nhiên hoạt động phát hành chứng khoán vẫn còn là đề tài, một lĩnh vực rất mới với nhiều công ty, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, trong điều kiện chuyển đổi sang cổ phần và trước xu thế hội nhập của đất nước. Thời điểm nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đánh dấu sự hội nhập sâu rộng của các doanh nghiệp trên trường quốc tế. Một số doanh nghiệp Việt Nam còn lúng túng trong việc thực thi pháp luật về phát hành chứng khoán và áp dụng có hiệu quả các quy định pháp lý để phục vụ mục đích kinh doanh của công ty mình. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng cần phải tạo tính thanh khoản cao cho các loại chứng khoán được niêm yết, tạo điều kiện cho các mã chứng khoán mới phát hành phát huy được tiềm năng của nó, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các nhà đầu tư và các công ty phát hành chứng khoán, hạn chế và loại bỏ những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia. Điều này đòi hỏi, pháp luật về phát hành chứng khoán phải không ngừng được hoàn thiện để tăng cường về số lượng cũng như chất lượng chứng khoán phát hành đáp ứng lòng mong mỏi của các tổ chức phát hành và những người tham gia trên thị trường chứng khoán. Từ những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài "Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện" làm luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn tìm hiểu thực tiễn và đóng góp ý kiến để xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các quy định về phát hành chứng khoán công ty. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Trước hết, cần nhận định rằng đề tài về "chứng khoán" nói chung và "Phát hành chứng khoán" nói riêng là những đề tài rất mới trong điều kiện nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay. Luật Chứng khoán 2006 có hiệu lực được hơn 1 năm, do đó hệ thống các 2
  6. văn bản dưới Luật về chứng khoán đang trong quá trình được hình thành, những văn bản quy phạm pháp luật trước đó đã có nhiều thay đổi kể từ khi ban hành Luật Chứng khoán 2006. Trước kia đã có một số luận văn tốt nghiệp đề cập đến đề tài về chứng khoán, tuy nhiên chưa có luận văn đề cập sâu về vấn đề phát hành chứng khoán công ty, ví dụ như: - Đề tài "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo Luật Chứng khoán ở Việt Nam" của tác giả Trần Thị Yến; - Đề tài "Một số vấn đề pháp luật phát hành chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay" của tác giả Vũ Thị Quỳnh Hương Có thể nhận định rằng, đề tài của luận văn này là rất rộng và khó có thể đề cập hết tất cả các khía cạnh của hoạt động "phát hành chứng khoán công ty", nhất là trong tình hình các văn bản pháp luật mới về chứng khoán đang được ban hành và hoàn thiện, các văn bản cũ đã hết hiệu lực, các văn bản mới về chứng khoán, cụ thể là phát hành chứng khoán công ty còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên, tôi muốn chọn đề tài "Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện" để làm luận văn tốt nghiệp nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn các quy định hiện hành về phát hành chứng khoán công ty, thấy được các bất cập của các văn bản pháp luật và tôi cũng xin đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu: Mục đích của đề tài luận văn là nhằm giúp cho người đọc nhận thức được toàn cảnh pháp luật về phát hành chứng khoán công ty, cụ thể là chào 3
  7. bán chứng khoán ra công chúng của công ty ở Việt Nam, giúp người đọc nắm được thực tiễn áp dụng pháp luật này và thực tiễn điều chỉnh của nó trên thực tế, đồng thời từ đó có thể đề xuất thêm những giải pháp hiệu quả hơn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Trước hết, luận văn nêu và phân tích các khái niệm cơ bản về chứng khoán, phát hành chứng khoán công ty, quy định về pháp luật phát hành chứng khoán công ty... Trong phần này, xin đề cập và so sánh với các quy định của pháp luật nước ngoài về phát hành chứng khoán công ty, đặc biệt là chào bán chứng khoán ra công chúng. - Phân tích thực trạng pháp luật phát hành chứng khoán công ty, trong đó có đưa ra các số liệu, dữ liệu thực tiễn từ các nguồn khác nhau, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này... Phần này chủ yếu tập trung vào những quy định bất cập của pháp luật hiện hành khi áp dụng vào thực tiễn, có những phần mà pháp luật chưa điều chỉnh tới và ảnh hưởng của nó đối với thị trường chứng khoán như thế nào. - Trên cơ sở thực tiễn pháp luật hiện hành về phát hành chứng khoán công ty, đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài đối với pháp luật phát hành chứng khoán cũng như các quy định pháp luật có liên quan nhằm tạo ra một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán hiệu quả, khách quan, đảm bảo sự công bằng, minh bạch của thị trường chứng khoán trong đó có phát hành chứng khoán. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Như đã đề cập ở trên, Phát hành chứng khoán công ty gồm có hai loại là chào bán chứng khoán ra công chúng và phát hành chứng khoán riêng lẻ. Đối với chào bán chứng khoán ra công chúng, chúng ta đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề này từ văn bản Luật như Luật Chứng khoán 2006 đến nghị định và thông tư hướng dẫn. Về phát hành chứng khoán riêng 4
  8. lẻ, đến nay vẫn chưa có văn bản cụ thể nào quy định về loại phát hành này. Trong thời gian tới sẽ có nghị định của Chính phủ điều chỉnh phát hành chứng khoán riêng lẻ tuy nhiên những quy định đó sẽ được kiểm nghiệm trong thực tiễn và từ thực tiễn chúng ta sẽ có chính sách điều chỉnh cho phù hợp. Trong phạm vi đề tài của luận văn này, tôi xin tập trung nghiên cứu pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng của công ty ở Việt Nam hiện nay; phần pháp luật về phát hành chứng khoán riêng lẻ chỉ đề cập ở mức độ nhất định. Mục đích của việc này là nhằm nghiên cứu sâu về phát hành chứng khoán ra công chúng từ đó đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống văn bản pháp quy về vấn đề này, tránh nghiên cứu dàn trải, nhiều về nội dung nhưng không đảm bảo chất lượng nghiên cứu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Cơ sở lý luận nền tảng của thực tiễn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mọi vấn đề nghiên cứu luôn phải xem xét trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng, luôn đặt trong quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác. Các hiện tượng luôn phải được xem xét trong cả quá trình từ sự hình thành đến sự phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Luận văn được nghiên cứu bằng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp cụ thể được áp dụng như: So sánh, phân tích, tổng hợp... 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về phát hành chứng khoán công ty. Chương 2: Thực trạng pháp luật về phát hành chứng khoán ở Việt Nam. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam hiện nay. 5
  9. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN CÔNG TY 1.1. CHỨNG KHOÁN CÔNG TY 1.1.1. Khái niệm chứng khoán công ty Lịch sử chứng khoán bắt nguồn từ năm 1453. Vào thời điểm này một thương gia người Bỉ là Van De Buerzo đã có sáng kiến tổ chức một cái chợ tại tư dinh của mình ở Bruges là nơi trao đổi các thương phiếu cho các thương nhân cần vàng và tiền mặt trong các chuyến đi buôn của họ. Sau đó vào năm 1531 chợ này dời về Artwerpas và phát triển sôi động. Nhiều thương nhân từ nhiều nước đã đến trao đổi các loại giấy tờ có giá. Đến năm 1531 đã triển khai các nghiệp vụ trao đổi về chứng khoán là các khoản nợ của Chính phủ Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Anh tại Artwerpas. Đến cuối thế kỷ XVI, Tây Ban Nha xâm chiếm và cướp đoạt Artwerpas thì thị trường chứng khoán sụp đổ. Nhưng sau đó thì các thị trường chứng khoán Lion ra đời năm 1545, thị trường chứng khoán London ra đời năm 1566 và thị trường chứng khoán Amsterdam ra đời năm 1608 mà ngày nay gọi là Stock Exchange. Đến thế kỷ thứ XVIII thị trường chứng khoán Paris (Pháp), Berlin (Đức) và Viên (Áo) mới ra đời. Đến giữa thế kỷ thứ XIX thì các thị trường chứng khoán ở Châu Âu rất hưng thịnh. Vào thế kỷ XX thị trường chứng khoán New York đóng vai trò quan trọng nhất, tiếp theo là các thị trường chứng khoán Tokyo, rồi đến Paris và Frankfukt. Khi thị trường mới bắt đầu hoạt động, các hợp đồng mua bán chỉ là những mẫu giấy nhỏ (ngày nay vẫn còn dùng trên sàn) do các nhà môi giới viết và các em nhỏ giúp việc chạy giao. Vào năm 1867, bộ máy ghi chứng khoán (Stock tickers) được đưa vào hoạt động để ghi lại các diễn biến mua bán. Hình ảnh quen thuộc ký hiệu các cổ phần, giá sau cùng, lên xuống và số 6
  10. lượng trao tay chạy từ phải sang trái ở Quảng trường Thời Đại (Time Squares), các trung tâm tài chính, các chương trình về thị trường chứng khoán trên tivi... là hình ảnh băng giấy chạy từ stock ticker. Như vậy chứng khoán ra đời từ thế kỷ XVI, sự ra đời của chứng khoán là đòi hỏi tất yếu của thị trường khi mà nhu cầu huy động vốn trở nên cấp thiết nhằm huy động nhiều nguồn tiền nhỏ để cung cấp cho một nhu cầu tiền lớn cùng một lúc. Theo quan điểm của Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) thì chứng khoán là: + Quyền hưởng lãi hay lợi nhuận đối với vốn, tài sản, lợi ích thu nhập của Chính phủ, công ty hoặc quỹ đầu tư do đóng góp cổ phần hoặc vay nợ. + Quyền lựa chọn, quyền bảo chứng (Warrant), quyền mua các chứng khoán. + Mọi thỏa thuận mà theo đó lợi ích của mỗi bên được đánh giá theo mục đích phát hành, chuyển nhượng hay chuyển nhượng lại quy chiếu với giá trị của lợi nhuận, tỷ lệ thuận trong tổng lượng kỳ phiếu của tài sản hay trong số lượng tiêu chuẩn của tiền tệ hay hàng hóa. + Một hợp đồng đầu tư mà theo đó nhà đầu tư có phần vốn trong tài sản hay phần vốn này có thể được sử dụng chung với các khoản vốn khác hoặc theo đó người góp vốn được kỳ vọng về khoản lợi nhuận, tiền thuê hay thu nhập do nỗ lực của những người thúc đẩy hợp đồng đầu tư hoặc của một bên thứ ba. Nhằm phục vụ cho mục đích quản lý và nghiên cứu về chứng khoán, các nhà nghiên cứu pháp luật phân chia chứng khoán thành nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào căn cứ mà nó áp dụng: - Căn cứ vào tính chất của chứng khoán: Có chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và chứng khoán phái sinh (chứng quyền, bảo chứng quyền...). - Căn cứ vào hình thức của chứng khoán chúng ta phân chia chứng khoán thành: Chứng khoán vô danh, chứng khoán ghi danh và chứng khoán hỗn hợp. 7
  11. - Căn cứ vào lợi tức thu được từ chứng khoán: Chúng ta phân chia thành chứng khoán có lợi tức cố định, chứng khoán không có lợi tức cố định (lợi tức bất định). - Căn cứ vào chủ thể phát hành chứng khoán: Chúng ta phân chia thành chứng khoán chính phủ; chứng khoán của chính quyền địa phương; chứng khoán công ty,.... Theo quy định của Luật Chứng khoán 2006 có hiệu lực ngày 01/1/2007, thì chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Khái niệm nêu trong Luật Chứng khoán 2006 là khá súc tích, khái quát được đầy đủ bản chất của chứng khoán, giúp cho những người nghiên cứu về chứng khoán hiểu và vận dụng trong thực tiễn phát hành chứng khoán công ty. 1.1.2. Đặc điểm của chứng khoán công ty Chứng khoán công ty là một loại chứng khoán vì thế nó mang đầy đủ đặc điểm của chứng khoán nói chung giúp phân biệt nó với những giấy tờ có giá khác trên thị trường tài chính, bên cạnh đó chứng khoán công ty còn có những đặc trưng khác, nói lên bản chất của nó trong mọi hoạt động giao dịch của thị trường. Trước hết, chứng khoán công ty có những đặc điểm chung của chứng khoán đó là: tính thanh khoản, tính sinh lời và tính rủi ro: - Đặc điểm nổi bật là tính thanh khoản cao. Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh toán là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. Với đặc điểm nổi bật này nên trong thời gian qua, thị trường chứng khoán luôn là điểm nóng và thu hút 8
  12. được rất nhiều sự quan tâm của đông đảo các nhà đầu tư. Có những nhà đầu tư mặc dù chưa hiểu rõ về bản chất của chứng khoán, chưa có khái niệm về chứng khoán nhưng vẫn lợi dụng thị trường đang lên mà đầu cơ kiếm lợi. Với đặc tính thanh khoản nên chứng khoán được xem là công cụ "siêu lợi nhuận" khi thị trường đang nóng lên nhưng ngược lại nó cũng tiềm ẩn những nguy cơ rớt giá không thể lường trước được và điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường cũng như năng lực thực sự của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch hoặc trên thị trường OTC. - Đặc điểm thứ hai là tính sinh lợi, chứng khoán có thể tạo ra lợi nhuận sau một thời gian tham gia (là trái phiếu) hoặc có cổ tức (cổ phiếu) - trên cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty niêm yết hoặc sinh lợi thông qua khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Các nhà đầu tư chứng khoán nhận biết được đặc tính này nên khi họ tham gia vào thị trường chứng khoán trong thời gian dài và đầu tư có nghiên cứu thì họ sẽ kiếm được lợi nhuận. Việc kiếm lợi được nhiều hay ít phụ thuộc vào quyết định của nhà đầu tư (ví dụ: có nhà đầu tư khi mua cổ phiếu muốn bán ngay khi giá lên để hưởng khoản chênh lệch và không quan tâm đến việc giá sau đó có thể tiếp tục tăng - đây được gọi là đầu tư nóng và như vậy khoản lợi nhuận họ thu được có thể rất nhỏ, ngược lại nhà đầu tư nào đã nghiên cứu kỹ lưỡng về một công ty và quyết định đầu tư dài hạn để kiếm nhiều lợi nhuận của công ty đó, đồng thời họ còn được chia cổ tức thì khoản tiền lãi do đầu tư chứng khoán của họ có thể là rất lớn). Cùng với đặc tính thanh khoản cao, tính sinh lời là đặc tính hấp dẫn cho những nhà đầu tư tài chính. Khi tham gia mua hoặc bán chứng khoán, tính sinh lời là động lực làm cho thị trường chứng khoán luôn sôi động và tiềm ẩn những yếu tố gây bất ngờ. - Cuối cùng là tính rủi ro, có thể nói sự "hấp dẫn" của chứng khoán là tính sinh lời và thanh khoản thì sự "e ngại" của các nhà đầu tư nằm ở đặc tính này. Khi tham gia thị trường chứng khoán, khi trao đổi chứng khoán, các nhà đầu tư luôn ý thức được tính rủi ro của chứng khoán. Nếu như lợi nhuận của 9
  13. việc tham gia "chơi chứng khoán" mang lại cho nhà đầu tư bao nhiêu thì "nguy cơ" nhà đầu tư bị mất khoản tiền tương đương (hoặc cao hơn) lợi nhuận mà họ mong muốn nhận được là bấy nhiêu, tức là khi tham gia thị trường chứng khoán, tham gia "chơi chứng khoán" thì nhà đầu tư luôn ý thực được rằng lợi nhuận và rủi ro là tỷ lệ thuận với nhau (tức là khả năng sinh lợi càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại khả năng sinh lợi càng thấp thì rủi ro càng ít). Có ba loại rủi ro trong chứng khoán là: Rủi ro không thanh toán tức là nguy cơ mất một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư do phá sản của tổ chức phát hành chứng khoán; Rủi ro thị trường là loại rủi ro bị chi phối bởi yếu tố giá cả tác động đến, việc giá cả lên xuống của thị trường sẽ tạo nên rủi ro thị trường, mà việc thay đổi giá cả là xuất phát từ sự kiện chính trị, thay đổi, ban hành chính sách kinh tế; Rủi ro lạm phát là rủi ro bị ảnh hưởng bởi yếu tố lạm phát, tức là nền kinh tế bị lạm phát và không thể kiểm soát nổi giá trị của đồng tiền, rủi ro lạm phát có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chứng khoán và thị trường chứng khoán, nó có thể gây ra tổn thất to lớn cho các nhà đầu tư chứng khoán. Ngoài những đặc điểm chung của chứng khoán, chứng khoán công ty còn mang trong mình những đặc trưng riêng biệt giúp chúng ta phân biệt rõ ràng giữa chứng khoán công ty với các loại chứng khoán khác trong nền kinh tế. Những đặc trưng này luôn đi kèm với chứng khoán công ty và nếu thiếu một trong các đặc trưng đó thì không thể coi là chứng khoán công ty mà nó sẽ biến thể thành một loại chứng khoán khác. - Đặc trưng về chủ thể: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì mô hình doanh nghiệp chỉ hạn chế ở một số mô hình nhất định, trong đó Công trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên không được phát hành cổ phần; công ty cổ phần được phát hành tất cả các loại chứng khoán; Công ty tư nhân và công ty hợp danh không được quyền phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Luật Chứng khoán quy định công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của 10
  14. Luật doanh nghiệp và công ty đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp để đầu tư chứng khoán. Nhìn chung các chủ thể phát hành chứng khoán là trên cơ sở Luật Doanh nghiệp 2005 và những quy định nêu trong Luật Chứng khoán 2006. Đặc trưng cơ bản của chứng khoán công ty đó là chứng khoán do công ty phát hành nên yếu tố chủ thể được nêu ra ở đây là rất quan trọng và cần thiết. - Về thời điểm hoàn trả: Chứng khoán công ty có đặc điểm về thời điểm hoàn trả khác biệt với chứng khoán của các loại chủ thể khác, đối với trái phiếu thì thời điểm hoàn trả được xác định trước trong trái phiếu, với cổ phiếu thì thời điểm hoàn trả được xác định là lúc công ty giải thể hoặc phá sản. Thời điểm hoàn trả của chứng khoán do các chủ thể khác phát hành được xác định trước. 1.1.3. Các loại chứng khoán công ty * Cổ phiếu Cổ phiếu ra đời cùng với sự ra đời của công ty cổ phần. Cổ phiếu chính là hình thức ghi nhận quyền sở hữu đối với phần vốn cổ phần của công ty. Thông qua hoạt động đầu tư vào cổ phiếu, các nguồn vốn nhỏ, vốn nhàn rỗi trong dân được tập hợp lại để cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị phát hành. Cổ phiếu thường được hiểu là loại giấy tờ có giá chứng nhận cổ phần do công ty cổ phần chuyển nhượng cho nhà đầu tư và người sở hữu có quyền được hưởng lợi ích, đồng thời cũng phải gánh chịu trách nhiệm cùng với những rủi ro của công ty. Khi một công ty cổ phần gọi vốn để thành lập hoặc mở rộng, hiện đại hóa sản xuất, thì số vốn đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần, người mua cổ phần gọi là cổ đông. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Có quan niệm cho rằng, cổ phiếu là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể đối với tài sản của công ty cổ phần. 11
  15. Theo quy định của Luật Chứng khoán 2006 thì cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Khái niệm trong Luật Chứng khoán 2006 quy định chủ thể phát hành là "tổ chức phát hành" nói chung, như vậy tất cả các tổ chức có hoạt động phát hành cổ phiếu đều là đối tượng điều chỉnh của Luật Chứng khoán 2006. Chính công ty cổ phần đã khai sinh ra cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu. Các cổ đông - người mua cổ phiếu của công ty - là người hùn vốn cùng công ty hoạt động, là người chủ sở hữu công ty. Vì vậy, cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn. Cổ phiếu là loại chứng khoán chủ yếu được giao dịch trên thị trường, là kênh huy động vốn hữu hiệu nhất mà đơn vị phát hành muốn thông qua đó thu hút vốn tối đa. Cổ phiếu có 4 đặc điểm chính sau: + Là chứng chỉ có giá, phản ánh quan hệ góp vốn vào công ty giữa nhà đầu tư và công ty phát hành được pháp luật công nhận và bảo hộ; + Là văn bản ghi nhận sự góp vốn vào công ty do đó cổ phiếu là cơ sở xác lập quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ góp vốn, là căn cứ quan trọng để các bên thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. + Là chứng chỉ có giá nên có thể được coi là hàng hóa và được phép mua bán, chuyển nhượng trên thị trường (trừ các loại cổ phiếu bị hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận được ghi trong Điều lệ của công ty phát hành). + Là loại chứng khoán có thời hạn không xác định, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty cổ phần. Tùy vào tính chất, căn cứ mà cổ phiếu được chia thành các loại khác nhau: - Căn cứ vào hình thức phát hành: Cổ phiếu chia thành cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô danh; 12
  16. - Căn cứ vào mục đích huy động vốn: Cổ phiếu phân chia thành cổ phiếu sơ cấp và cổ phiếu thứ cấp; - Căn cứ vào quyền lợi của cổ đông: Cổ phiếu được chia thành cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi (cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi. * Trái phiếu Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nhu cầu huy động vốn ngắn hạn và trung hạn để bổ sung vốn lưu động của các công ty là thường xuyên và lặp đi lặp lại theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó, công ty lựa chọn giải pháp đi vay để tăng vốn lưu động (phát hành trái phiếu) chứ không huy động tăng vốn điều lệ (phát hành cổ phiếu). Phát hành trái phiếu là hình thức vay vốn trực tiếp từ các nhà đầu tư và mang lại lợi ích cho cả nhà đầu tư và đơn vị phát hành: tổ chức phát hành có thể giảm bớt được chi phí đi vay (không phải trả lãi trung gian) còn nhà đầu tư thì có thể chuyển khoản cho vay thành tiền mặt khi cần mà không phải chờ đến thời điểm đáo hạn. Có rất nhiều khái niệm về trái phiếu. Trái phiếu được hiểu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với số tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Theo quy định của Luật Chứng khoán 2006 thì trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Về cơ bản, khái niệm trái phiếu và cổ phiếu trong Luật Chứng khoán 2006 có cách tiếp cận khá giống nhau, mặc dù bản chất của hai loại chứng khoán này là khác nhau. Phát hành trái phiếu là một phương thức huy động vốn trung và dài hạn mang hiệu quả cao. Các loại trái phiếu đa dạng hình thành trên cơ sở nhu 13
  17. cầu, sở thích của cả nhà đầu tư và nhu cầu huy động, sử dụng vốn của công ty phát hành, tạo cơ hội cho cả nhà đầu tư và công ty phát hành đạt được mục đích của mình. Việt Nam đang khuyến khích và mở rộng các loại trái phiếu công ty được phép lưu hành để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường vốn trung và ngắn hạn. * Một số loại chứng khoán phái sinh Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các giao dịch mua bán chứng khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng quyền, chứng khế… Các chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Do đó, người ta gọi chúng là chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh. - Chứng quyền Chứng quyền hay còn gọi là quyền đặt mua là một chứng thư do công ty cổ phần phát hành cho cổ đông, xác nhận quyền của cổ đông được mua một số lượng cổ phiếu nhất định và trong một thời hạn nhất định. Các cổ đông là người góp vốn vào công ty, vì vậy họ là thành viên của công ty, có quyền nhất định đối với công ty như quyền sở hữu tài sản, quyền biểu quyết, quyền hưởng cổ tức. Những quyền đó nhiều hay ít phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của cổ đông đối với công ty. Để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, thông thường, khi một công ty cổ phần muốn tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới, công ty thường dành cho các cổ đông hiện hữu quyền ưu tiên mua trước một lượng cổ phiếu mới tỷ lệ với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Mỗi cổ đông được hưởng ưu đãi này sẽ nhận được một tờ chứng quyền, nó thể hiện chính xác số lượng quyền mua trong một thời hạn xác định theo một giá ấn định. Số quyền mua của một chứng quyền bằng chính số cổ phần hiện hữu mà một cổ đông nắm giữ trong tổng toàn bộ số cổ phần hiện hữu của công ty. 14
  18. Số cổ phiếu dành cho một quyền mua tùy thuộc vào số cổ phiếu mới phát hành so với số cổ phiếu hiện hữu. Thông thường, giá cả của cổ phiếu phát hành thêm thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu khi chưa tăng nhằm bù đắp thiệt hại cho các cổ đông do "hiệu ứng pha loãng" gây ra (thị giá cổ phiếu sau khi phát hành cổ phiếu bổ sung sẽ giảm so với trước lúc phát hành). Các chứng quyền thường có thời hạn ngắn, có thể chỉ từ 1 tuần đến 6 tuần. Trong thời hạn này, người nắm giữ chứng quyền có thể sử dụng chúng để mua cổ phiếu mới của đợt phát hành đó hoặc bán chứng quyền cho người khác trên thị trường chứng khoán. Quá hạn, chứng quyền mất tác dụng và coi như hủy bỏ, có nghĩa là nó không còn giá trị. Nếu một cổ đông muốn thực hiện quyền của mình, họ sẽ điền một tờ chứng quyền và gửi đến công ty. Họ cũng có thể gửi séc hoặc ngân phiếu theo giá trị của những cổ phiếu muốn mua thêm. Ngược lại, nếu họ không muốn thực hiện quyền của mình, họ có thể bán lại chứng quyền trên thị trường chứng khoán theo giá thị trường hiện hành để hưởng một phần chênh lệch giá và phải chấp nhận "hiệu ứng pha loãng" đối với phần tài sản thuộc sở hữu của họ trong công ty. Giá chứng quyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Giá trị của chứng quyền, thời hạn còn lại của chứng quyền, xu hướng biến động về mệnh giá của cổ phiếu ấn định trong chứng quyền. Luật Chứng khoán 2006 quy định chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định. - Hợp đồng quyền lựa chọn Hợp đồng quyền lựa chọn là hợp đồng được ký kết giữa một bên là "người ký phát" và một bên là người mua hợp đồng, trong đó cho phép người mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một số 15
  19. lượng chứng khoán, với giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của tương lai. Quyền lựa chọn có hai loại: (1) Quyền chọn mua: cho phép người mua hợp đồng được quyền mua một số lượng chứng khoán nhất định với giá cả nhất định, trong một thời hạn quy định của tương lai. Người mua hợp đồng phải trả cho người bán hợp đồng một khoản phí gọi là phí chọn mua. (2) Quyền chọn bán: cho phép người mua được quyền bán một số lượng chứng khoán nhất định, với giá cả nhất định, trong một thời hạn quy định trong tương lai. Người mua hợp đồng phải trả cho người bán hợp đồng một khoản phí gọi là phí chọn bán. Thông thường, người mua quyền chọn mua là người đang dự đoán giá của chứng khoán trên thị trường có xu hướng tăng và họ là người kỳ vọng giá lên; còn người ký phát thì đóng vai trò là người mong đợi giá xuống. Ngược lại, đối với quyền chọn bán, người mua quyền chọn bán là người kỳ vọng giá chứng khoán sẽ xuống. Hợp đồng quyền lựa chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải là nghĩa vụ mua hoặc bán. Vì vậy, người chủ của quyền lựa chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng quyền lựa chọn. Nếu không muốn thực hiện quyền, người chủ của quyền có thể bán quyền lựa chọn đó trên thị trường chứng khoán, nghĩa là chuyển quyền sở hữu cho người khác. Vì vậy, hợp đồng quyền lựa chọn cũng được coi là một loại chứng khoán của thị trường chứng khoán. - Hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai là hợp đồng giữa người bán và người mua, trong đó người bán cam kết giao một số lượng chứng khoán (nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán) nhất định và người mua sẽ trả tiền khi nhận số 16
  20. chứng khoán đó với một giá nhất định, tại một ngày nhất định trong tương lai, được xác định trước tại thời điểm ký kết hợp đồng. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng tương lai được xác định trước, được quy định cụ thể theo các nguyên tắc giao dịch và thống nhất về số lượng, chất lượng chứng khoán phải giao, địa điểm giao hàng và nhiều quy định cụ thể khác. Để tránh mọi thiệt hại khi hợp đồng không được tôn trọng, vào lúc ký kết hợp đồng, cả hai bên đều được yêu cầu ký quỹ. Số tiền này còn được gọi là tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng. Tại khoản 8, Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 quy định: "Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai" [12]. Xét về bản chất của hợp đồng thì hợp đồng tương lai được bắt nguồn từ hợp đồng giao hàng. Hợp đồng tương lai có những đặc điểm riêng biệt nhằm phân biệt nó với các loại hợp đồng khác, bao gồm: Một hợp đồng giao hàng không được chuyển nhượng, người mua buộc phải trả tiền để nhận hàng và người bán phải giao hàng để nhận tiền. Còn hợp đồng tương lai được tiến hành trên cơ sở trao đổi, tức là nó cũng trở thành hàng hóa, được mua bán trên một thị trường riêng biệt thị trường chứng khoán. Phí hoa hồng mua bán các hợp đồng tương lai thường rất cao, có khi gấp 8 đến 9 lần phí hoa hồng mua bán chứng khoán. Việc thanh toán mua bán các hợp đồng tương lai thường được thực hiện ngay qua tài khoản mở tại Trung tâm thanh toán bù trừ, không được mua bán chịu. - Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng kỳ hạn là những thỏa thuận mua bán một loại tài sản ở một thời điểm chắc chắn trong tương lai với mức giá nhất định. Tuy nhiên, không giống như hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn không trao đổi trên thị trường, 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2