intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

36
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích: - Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về hoạt động cho vay và thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Từ thực trạng áp dụng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng để đặt ra những vấn đề cần phải tháo gỡ trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật sao cho phù hợp, rõ ràng và thống nhất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THU HƯỜNG Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Thu Thủy Hà nội - 2004
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 3 1.1. Khái quát chung về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng .................................................. 11 1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay và hợp đồng tín dụng ......................................................... 11 1.1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng .............. 21 1.2. Khái niệm thế chấp quyền sử dụng đất ........................................................................................ 27 1.2.1. Quyền sử dụng đất ............................................................................................................... 27 1.2.2. Khái niệm thế chấp quyền sử dụng đất ................................................................................. 29 1.3. Thế chấp quyền sử dụng đất - biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ............................................................................................................................................. 32 CHƯƠNG 2 ...........................................................................................................38 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ...................................................38 2.1. Đối tượng, điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất......................................................................... 38 2.1.1. Đối tượng của thế chấp quyền sử dụng đất. ......................................................................... 38 2.1.2. Điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất ................................................................................. 39 2.2. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ......................................................................................... 43 2.2.1. Chủ thể được thế chấp quyền sử dụng đất ........................................................................... 43 2.2.2. Hình thức hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ................................................................. 45 2.2.3. Nội dung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất .................................................................. 50 2.3. Trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất .................................................................. 56 2.3.1. Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất .................................................................................... 56 2.3.2. Xoá đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất ............................................................................. 59 2.4 Xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất ................................................................................. 60 CHƯƠNG 3 ...........................................................................................................70 ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ....................70 3.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng .................................................................................................................................................. 70
  3. 3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ..................................................................................................................................... 74 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất là một bộ phận của pháp luật về giao dịch bảo đảm. ................................................................................................................................ 74 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về chủ thể, đối tượng, điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất. ....... 76 3.2.3. Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất............... 80 3.2.4. Hoàn thiện các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất:.............. 82 3.2.5. Hoàn thiện các quy định về xử lý quyền sử dụng đất để thu hồi nợ ..................................... 85 KẾT LUẬN..............................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................89
  4. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các tổ chức tín dụng ra đời với vai trò là trung gian tài chính tiền tệ của nền kinh tế với chức năng huy động vốn để cho vay. Với chức năng này, hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng luôn tiểm ẩn những rủi ro. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là hoạt động mang tính nghề nghiệp, truyền thống và chủ yếu của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng nói chung có ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế. Mục tiêu hoạt động của các tổ chức tín dụng là an toàn, ổn định, lành mạnh và có hiệu quả. Vì vậy, để bảo đảm mục tiêu của hoạt động cho vay, ngoài việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về quy trình, điều kiện, thủ tục vay vốn thì các tổ chức tín dụng thường hay áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, trong đó có biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất. Thế chấp quyền sử dụng đất được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Đất đai 1993, theo đó người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng được thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất [7]. Việc cho phép người sử dụng đất được thực hiện các giao dịch trên thị trường mà trong đó có quyền thế chấp quyền sử dụng đất đã mang lại những lợi ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là biện pháp bảo đảm tiền vay được áp dụng phổ biến, thông dụng nhất, vì biện pháp này tạo cho tổ chức tín dụng và khách hàng vay những lợi ích đáng kể.
  5. Và đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất được hợp thành từ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nhiều lĩnh vực như: Luật đất đai, Luật Dân sự, Luật Ngân hàng... Cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các chính sách, quy định của pháp luật đất đai nói chung và quy định của pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Các quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất chưa thống nhất, đồng bộ, các quy định không rõ ràng, mâu thuẫn đã cản trở không nhỏ đến việc áp dụng các quy định về thế chấp quyền sử dụng đất trên thực tế (Chủ thể của thế chấp quyền sử dụng đất, đối tượng của thế chấp quyền sử dụng đất; Điều kiện đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất; Hình thức thế chấp quyền sử dụng đất; Trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất; Xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất...). Chính những hạn chế này đã làm cho việc áp dụng biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng chưa thuận lợi và cũng chưa thực sự có hiệu quả đối với cả tổ chức tín dụng cũng như khách hàng vay. Một thời gian dài, do chưa có một hành lang pháp lý ổn định, cũng như cơ chế thực hiện thông thoáng, dẫn đến tình trạng các tổ chức tín dụng bị “đóng băng” nguồn vốn cho vay. Vì vậy, để tạo cơ hội cho mọi đối tượng, chủ thể được tiếp cận nguồn vốn tín dụng, Nhà nước cần có những quy định bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trong việc thực hiện quyền thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
  6. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề phát triển đồng bộ các thị trường trong đó có thị trường quyền sử dụng đất đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng đã khẳng định: hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cho vay, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, tăng cường những chế định pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ hợp pháp của người cho vay [tr 197, 1]. Xuất phát từ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của nền kinh tế mà việc nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là rất cần thiết. Từ thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất, đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của pháp luật, tạo môi trường pháp lý đầy đủ để các quy định về thế chấp quyền sử dụng đất được thực thi có hiệu quả, đem lại lợi ích cho xã hội. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất nói riêng, đã có một số đề tài khoa học như: Luận án Tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Như Minh về “Những giải pháp về bảo đảm tiền vay”; Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Thanh Hằng về “Thế chấp quyền sử dụng đất bảo đảm hợp đồng tín dụng Ngân hàng ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Dung về “Thế chấp giá trị quyền sử
  7. dụng đất những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Nga về “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật thị trường quyền sử dụng đất ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ của Trần Phú Nhuận về “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất”, Luận văn Thạc sỹ của Lê Thu Hiền về “Bảo đảm tiền vay ngân hàng thực trạng và giải pháp”; Luận văn Thạc sỹ của Trần Thị Minh Tâm về “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng”.... Các công trình trên đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo đảm tiền vay, thế chấp quyền sử dụng đất, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu một cách tổng thể cả về lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, theo thời gian các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này cũng đã được thay đổi nhiều. Chính vì vậy đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích: - Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về hoạt động cho vay và thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. - Từ thực trạng áp dụng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng để đặt ra những vấn đề cần phải tháo gỡ trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật sao cho phù hợp, rõ ràng và thống nhất. - Xem xét, phân tích những mâu thuẫn, bất cập trong việc áp dụng các quy định hiện hành về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, đưa ra phương hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
  8. về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Nhiệm vụ của Luận văn - Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, nội dung pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất để từ đó đi sâu phân tích cụ thể từng nội dung này. - Nghiên cứu thế chấp quyền sử dụng đất với vai trò là một trong những biện pháp bảo đảm tiền vay được áp dụng phổ biến trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng để thấy được sự cần thiết của thế chấp quyền sử dụng đất trong việc bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. - Qua nghiên cứu thực trạng, các vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng để đặt vấn đề khắc phục những vướng mắc, khó khăn này trên thực tế. - Kiến nghị hướng hoàn thiện các quy định pháp luật tạo nên sự thống nhất, đồng bộ của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của Luận văn, tôi chỉ nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, mà cụ thể là những khía cạnh pháp lý cơ bản, cơ sở lý luận của hoạt động cho vay và biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay, đồng thời nghiên cứu, xem xét những bất cập, vướng mắc trên thực tế khi áp dụng. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, trong luận văn tôi đưa ra những khuyến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
  9. trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng và pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam nói chung. 6. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu và thực hiện đề tài; Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu của luận văn này bao gồm: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê. 7. Đóng góp khoa học của đề tài: Với việc nghiên cứu đề tài, luận văn dự kiến đóng góp một số nội dung sau: - Nghiên cứu, so sánh giữa hoạt động cho vay thông thường và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, từ đó thấy được những đặc trưng của hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng đó là hoạt động có tính rủi ro cao, mang tính hệ thống và có ảnh hưởng dây chuyền. Vì những đặc trưng đó mà bảo đảm an toàn cho hoạt động cho vay là nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của các tổ chức tín dụng. - Nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay trong đó tìm hiểu cụ thể về khái niệm, đặc điểm của thế chấp quyền sử dụng đất để chứng minh rằng thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là biện pháp bảo đảm tiền vay được áp dụng phổ biến, thường xuyên và mang lại lợi ích cho những người sử dụng đất. Thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng một mặt tạo cơ hội, điều kiện cho người sử dụng đất được tiếp cận với nguồn vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, mặt khác tạo cho các tổ chức tín dụng mở rộng và thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính, đem nguồn vốn tín dụng đến mọi đối tượng có nhu cầu vốn trong xã hội. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, chỉ ra những khó khăn, vướng
  10. mắc trên thực tế. Tìm ra những điểm hạn chế của thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. - Kiến nghị và định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. 8. Bố cục của Luận văn: Với đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt nam”, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo thì bố cục của Luận văn được chia thành 3 phần chính sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
  11. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1. Khái quát chung về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng 1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay và hợp đồng tín dụng 1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng Cho vay là một hiện tượng xuất hiện khi xã hội có sự phân hoá giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội do nền kinh tế hàng hoá phát triển. Lúc này xuất hiện một số tầng lớp dân cư có thu nhập cao, thừa vốn với một tầng lớp dân cư có thu nhập thấp chiếm đa số. Cho vay ra đời với vai trò điều tiết nhu cầu thừa thiếu vốn trong xã hội. Như vậy, cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan xuất hiện khi xã hội loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn [33]. Thuật ngữ “Cho vay” theo nghĩa thông thường có nghĩa là việc một người chuyển một vật của mình cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định [30], theo đó khi một người có tài sản không sử dụng hoặc trong tình trạng tạm thời thừa chuyển cho một người muốn sử dụng hoặc trong tình trạng tạm thời thiếu để sử dụng tài sản đó trong một thời gian nhất định theo thoả thuận và dựa vào sự tín nhiệm của các bên về khả năng hoàn trả. Ban đầu, tài sản cho vay có thể dưới hình thức là vật, cho vay chủ yếu là thoả mãn các lợi ích tinh thần của các bên. Nhưng do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng thì tài sản cho vay lúc này không chỉ đơn thuần là vật mà tài sản cho vay đã đa dạng hơn như tiền hoặc các tài sản có giá trị và cho vay để đáp ứng các nhu cầu khác như kinh doanh, buôn bán.
  12. Xét về bản chất, cho vay là một giao dịch dân sự, dựa trên cơ sở hợp đồng. Trong giao dịch dân sự, cho vay dựa trên cơ sở hợp đồng vay tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự, theo đó các bên thoả thuận trong hợp đồng về việc bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền hoặc vật, khi đến hạn, bên vay phải trả tiền hoặc vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định [6]. Tổ chức tín dụng ra đời với chức năng là trung gian tài chính của nền kinh tế, cụ thể là hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ: huy động vốn nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức (gọi chung là huy động vốn trong dân cư) để cấp tín dụng cho các khách hàng (cá nhân hoặc các tổ chức có nhu cầu về vốn), hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là “đi vay” để cho vay. Hoạt động của các tổ chức tín dụng đóng vai trò rất quan trọng, và được coi là trung gian giữa cung và cầu về vốn tiền tệ của nền kinh tế. Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, hoạt động có tính truyền thống, đặc trưng và chủ yếu của các tổ chức tín dụng là hoạt động tín dụng được thể hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có cho vay. Theo quy định tại Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 thì “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước” [11]. Trong nghiệp vụ cấp tín dụng thì hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là hình thức cấp tín dụng phổ biến, quan trọng hàng đầu của các tổ chức tín dụng. Vì hoạt động cho vay là nguồn cung cấp vốn trực tiếp chủ yếu cho nền kinh tế. Mặt khác, xét về lịch sử hoạt động ngân hàng thì hoạt động cho vay được coi là hoạt động truyền thống của các tổ chức tín dụng. Hoạt động cho vay được hiểu là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
  13. đời sống. Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở hợp đồng tín dụng và tuỳ thuộc vào tính chất nguồn vốn, đặc điểm của khoản vay mà tổ chức tín dụng quyết định cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân thủ các quy định về nguyên tắc, hình thức, thủ tục cho vay và các biện pháp bảo đảm khả năng hoàn trả nợ vay [11]. Hay nói cách khác, cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi [23]. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, vì vậy hoạt động cho vay mang đầy đủ những đặc trưng của hoạt động kinh doanh tiền tệ, thể hiện ở những đặc trưng sau: Thứ nhất, Đối tượng của hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nói riêng là tiền tệ: Trong hoạt động cho vay thì nguồn tiền tệ này chủ yếu là do các tổ chức tín dụng đi vay để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình hay nói cách khác là kinh doanh bằng vốn của người khác. Trong Luật các Tổ chức tín dụng (Điều 20) quy định hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng được thực hiện trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động. Một trong những điểm cần lưu ý là hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng được pháp luật cho phép huy động vốn cao hơn nhiều vốn tự có của tổ chức tín dụng mà không cần áp dụng bất cứ một biện pháp bảo đảm nào cho việc “đi vay” đó. Thực tế này được chứng minh qua việc Ngân hàng Nhà nước quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng theo đó tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ tối thiểu bằng 8% vốn tự có so với Tài sản “Có” [21]. Vì vậy, hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung là hoạt động đặc thù của các tổ chức tín dụng.
  14. Thứ hai, Hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng là hoạt động có tính rủi ro cao: Rủi ro đầu tiên phụ thuộc vào đối tượng của hoạt động kinh doanh tiền tệ như nêu ở trên. Tuy nhiên, tính rủi ro không chỉ dựa vào đặc trưng về đối tượng mà nó còn phụ thuộc vào khả năng kiểm soát các khoản vay. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động “đi vay” để cho vay. Trên thực tế, nhu cầu về vốn của khách hàng là rất đa dạng, thể hiện ở việc tổ chức tín dụng cho khách hàng vay với rất nhiều loại thời hạn như vay ngắn hạn, vay trung hạn, vay dài hạn. Khoản vay có thời hạn càng dài thì tính rủi ro càng cao. Khi những người có nguồn tiền nhàn rỗi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng thì họ luôn trong tình trạng mất quyền quản lý trực tiếp nguồn tiền này, và khi các tổ chức tín dụng cho vay thì bản thân tổ chức tín dụng cũng mất quyền quản lý trực tiếp khoản tiền cho vay đó. Có thể nói rằng, khả năng kiểm soát các khoản vay là vấn đề khó khăn đối với tổ chức tín dụng, vì hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng có hiệu quả không chỉ dựa vào yếu tố chủ quan (việc đánh giá năng lực của khách hàng, công tác kiểm soát...) mà còn dựa vào yếu tố khách quan đó là kết quả kinh doanh của khách hàng. Kết quả kinh doanh của khách hàng là yếu tố khó định lượng nhất trong khi xem xét cho vay của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nhiệm vụ trọng tâm và là mục tiêu hoạt động của các tổ chức tín dụng bao giờ cũng là sử dụng vốn có hiệu quả và bảo đảm an toàn vốn. Thứ ba, Hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng là hoạt động mang tính hệ thống, có ảnh hưởng dây chuyền: Với chức năng là nguồn cung ứng vốn và điều tiết vốn trong nền kinh tế, các tổ chức tín dụng hoạt động trong một hệ thống liên kết về nghiệp vụ như cho vay, thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác. Vì vậy, hoạt động kinh doanh tiền tệ giữa các tổ chức tín dụng luôn có mối liên hệ chặt chẽ, có ảnh hưởng không chỉ trong các tổ chức tín dụng với nhau mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển chung của
  15. nền kinh tế. Trong trường hợp, khách hàng vay không có khả năng thanh toán nợ sẽ tác động tới khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng, vì nguồn vốn chủ yếu mà các tổ chức tín dụng cấp tín dụng là nguồn vốn đi vay. Khi các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của bản thân tổ chức tín dụng đó, đồng thời ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng khác. Chính vì tính liên kết giữa các tổ chức tín dụng mà sự yếu kém hay sụp đổ của một tổ chức tín dụng có thể ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng khác. Khi một tổ chức tín dụng bị phá sản, bị sụp đổ sẽ gây ảnh hưởng về tâm lý, niềm tin của những người gửi tiền, điều này dẫn đến tâm lý hoang mang và những người gửi tiền sẽ có hành động rút các khoản vốn của mình không chỉ tại chính tổ chức tín dụng đó mà còn tại các tổ chức tín dụng khác. Tình trạng này dẫn đến các tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết nguồn vốn để trả nợ và có nguy cơ mất khả năng thanh toán trong toàn hệ thống, gây nên những hậu quả to lớn đối với nền kinh tế. Ví dụ như ở Achentina, hệ thống ngân hàng suy sụp dẫn đến khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Như vậy có thể thấy rằng, sự thành công, tính ổn định hay sự thất bại, đổ vỡ của một hay một số tổ chức tín dụng đều có tác động đến sự an toàn của cả hệ thống tổ chức tín dụng và cũng tương tự, nó tác động tích cực hoặc tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế [45]. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ngoài những đặc trưng của hoạt động kinh doanh tiền tệ nói trên, thì hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng còn có điểm riêng để phân biệt với các hình thức cấp tín dụng khác thể hiện: (*) Hoạt động cho vay là nghiệp vụ cấp tín dụng mang tính truyền thống lâu đời và chủ yếu của các tổ chức tín dụng [37]. Hoạt động cho vay là hình thức cấp vốn trực tiếp cho khách hàng đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng trực tiếp chuyển dịch nguồn vốn của mình cho khách hàng vay trên cơ sở thoả thuận của các bên trong hợp đồng tín dụng, Tổ
  16. chức tín dụng có quyền quyết định thời hạn cho vay dựa vào tính chất nguồn vốn để cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo từng đối tượng cụ thể. Tổ chức tín dụng quyết định chuyển nguồn vốn sau khi đã xem xét đầy đủ hồ sơ xin vay vốn và các điều kiện, thủ tục theo quy định của pháp luật. (*) Hoạt động cho vay có thể phân biệt với các hình thức cấp tín dụng khác như cấp tín dụng bằng chiết khấu thương phiếu, các giấy tờ có giá khác và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ở chỗ: Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động cấp tín dụng trực tiếp và người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay. Do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động có tính rủi ro cao nên đòi hỏi các tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân thủ theo một quy trình cho vay chặt chẽ. Và một trong những biện pháp hạn chế rủi ro là việc các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay để bảo đảm khả năng thu hồi nợ của mình, đây là một trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Qua nghiên cứu những đặc trưng của hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, có thể phân biệt hoạt động cho vay thông thường trong giao dịch dân sự với hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, qua việc xem xét một số yếu tố sau: * Về chủ thể: Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng thì bao giờ một bên giao dịch cũng phải là tổ chức tín dụng, còn trong hoạt động cho vay thông thường thì giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể là cá nhân, tổ chức với nhau. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là hoạt động có tính nghề nghiệp chủ yếu, thường xuyên. Vì vậy, để tiến hành hoạt động này thì các tổ chức tín dụng phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và phải tuân thủ theo những quy định cụ thể, nghiêm ngặt về tổ chức, bộ máy, nguyên tắc hoạt động và chịu sự giám sát thường xuyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  17. * Về nguồn vốn: Trong hoạt động cho vay thông thường thì nguồn vốn của người cho vay (là một khoản tiền hay là vật) chủ yếu là vốn thuộc sở hữu của người đó, bởi vì họ không có chức năng trung gian tài chính như các tổ chức tín dụng mà họ chỉ dùng nguồn tiền của chính mình để cho vay. Nhưng đối với hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng thì nguồn vốn cho vay (chỉ là tiền tệ) chủ yếu dựa vào nguồn vốn đi vay của các tổ chức tín dụng. Điểm này xuất phát từ chức năng, vai trò của tổ chức tín dụng là huy động vốn để cấp tín dụng hay “đi vay” để cho vay. Do đó, rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng sẽ cao hơn nhiều so với hoạt động cho vay thông thường. Trong hoạt động cho vay thông thường, nếu người vay không trả được nợ thì rủi ro chỉ xảy ra đối với người cho vay mà không ảnh hưởng tới nền kinh tế. Còn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng thì rủi ro không chỉ ảnh hưởng tới tổ chức tín dụng đó mà còn ảnh hướng tới nền kinh tế, vì đặc trưng hoạt động của các tổ chức tín dụng là mang tính hệ thống và có ảnh hưởng dây chuyền. Chính vì vậy, tổ chức tín dụng luôn phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền bằng cách kinh doanh có hiệu quả và đảm bảo an toàn nguồn vốn đi vay. * Về mục đích cho vay: Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng bao giờ cũng nhằm mục tiêu là thu được lợi nhuận, việc thu lợi nhuận của các tổ chức tín dụng với mục đích bù đắp các chi phí hoạt động cũng như bảo đảm bù đắp rủi ro trong các hoạt động khác của các tổ chức tín dụng trong đó có cả rủi ro liên quan đến huy động vốn, nhận tiền gửi trong dân chúng. Vì vậy, xét cho cùng lợi nhuận từ hoạt động của các tổ chức tín dụng không chỉ mang lại lợi ích cho chính các tổ chức tín dụng mà còn phục vụ cho lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của toàn xã hội. Trong hoạt động cho vay thông thường thì mục đích thu lợi nhuận là do các bên thoả thuận, không phải là mục tiêu, yếu tố bắt buộc hai bên phải đạt tới.
  18. * Về hình thức giao kết hợp đồng: Việc cho vay của các tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải lập thành văn bản được thể hiện bằng hình thức hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng có đầy đủ những nội dung như: điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay[23]. Trong hợp đồng vay thông thường thì hình thức giao kết của hợp đồng có thể bằng văn bản hoặc bằng lời nói. * Về cơ chế pháp lý điều chỉnh: Trong hoạt động cho vay thông thường, xuất phát từ những đặc điểm của chủ thể, nguồn vốn, mục đích vay như đã nêu ở trên mà hoạt động cho vay thông thường ít rủi ro so với hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, cơ chế pháp lý điều chỉnh đối với hoạt động cho vay này thường đơn giản. Còn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, xuất phát từ những đặc trưng của hoạt động cho vay như phân tích ở trên thì cơ chế pháp lý điều chỉnh bao giờ cũng phải tuân theo một quy định riêng, chặt chẽ. Mặt khác, hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng luôn phải chịu sự giám sát của Nhà nước thông qua cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng đó là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Qua việc xem xét, phân tích các đặc điểm về hoạt động cho vay, mối liên hệ của hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng với cho vay thông thường trong giao dịch dân sự, chúng ta có thể khái quát về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng như sau: Hoạt động cho vay là hình thức cấp tín dụng có tính truyền thống của các tổ chức tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng trực tiếp chuyển dịch nguồn vốn của mình cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong một thời gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Điều kiện, thủ tục và biện pháp bảo đảm khả năng hoàn trả khoản vay được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
  19. 1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng tín dụng Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng thực chất cũng là giao dịch hợp đồng, cụ thể là hoạt động cho vay được thể hiện dưới dạng hợp đồng tín dụng được ký giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Có thể nói hợp đồng tín dụng là hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng [41]. Như phân tích ở trên về hoạt động cho vay thông thường và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thì hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng vay tài sản. Do hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là một hoạt động đặc thù, nên hợp đồng tín dụng ngoài đặc điểm của hợp đồng vay tài sản, còn có một số đặc điểm riêng, cụ thể: - Hợp đồng tín dụng bao giờ một bên tham gia hợp đồng cũng là tổ chức tín dụng, với tư cách là bên cho vay. Còn bên vay là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn và thoả mãn các điều kiện vay vốn (tư cách pháp lý, mục đích sử dụng vốn vay, khả năng tài chính...) theo quy định của pháp luật. - Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng chỉ là tiền, được xác định bằng một số tiền cụ thể và ghi rõ trong hợp đồng. Trong trường hợp, hợp đồng tín dụng không ghi rõ số tiền vay thì hợp đồng này không có giá trị. Đối tượng của hợp đồng tín dụng chủ yếu là dựa vào đặc trưng của hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, đó là thông qua các hợp đồng tín dụng, các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng là trung gian tài chính đáp ứng các nhu cầu về vốn tiền tệ cho khách hàng vay thuộc mọi thành phần kinh tế. - Hợp đồng tín dụng bao giờ cũng được ký kết bằng văn bản. Hình thức văn bản của hợp đồng tín dụng là điểm khác biệt so với hợp đồng vay tài sản. Bởi lẽ khi hợp đồng tín dụng được thể hiện bằng văn bản thì có giá trị pháp lý cao hơn, chắc chắn hơn khi giao kết bằng lời nói. Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn
  20. bản sẽ là một minh chứng cụ thể, chính thức về quan hệ pháp lý được thiết lập giữa bên cho vay và bên vay, là một “sợi dây” ràng buộc trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các thoả thuận trong hợp đồng, cũng như là cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hợp đồng. - Hợp đồng tín dụng phát sinh hiệu lực ngay sau khi các bên ký kết hợp đồng, mặc dù các bên chưa trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đã cam kết, nhưng đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Cụ thể là bên vay có quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ cấp tín dụng (chuyển giao tiền vay) theo thoả thuận trong hợp đồng. Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay sẽ là tiền đề cho việc bên vay thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. - Hợp đồng tín dụng là hợp đồng luôn có tính rủi ro. Tính rủi ro của hợp đồng tín dụng bị chi phối bởi tính rủi ro của hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, các tranh chấp, vi phạm phát sinh từ hợp đồng này là tương đối phổ biến. Hiện nay chưa văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra một định nghĩa cụ thể về khái niệm hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu quan niệm chung về hợp đồng và những đặc điểm của hợp đồng tín dụng, có thể hiểu khái niệm về hợp đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên cho vay (các tổ chức tín dụng) và bên vay (tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật), nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc chuyển giao một số tiền từ bên cho vay sang bên vay trong một thời hạn nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Qua nghiên cứu về hợp đồng tín dụng, có thể thấy rằng hợp đồng tín dụng là hợp đồng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy, việc các bên trong hợp đồng tín dụng thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là rất cần thiết,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2