intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp và giải pháp khắc phục khó khăn khi thu hồi đất nông nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay

  1. Đại học quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Nhàn Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2010
  2. Đại học quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Nhàn Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hữu Nghị Hà nội - 2010
  3. Mục lục Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng biểu Mở đầu 1 Chương 1: Một số vấn đề chung về đất nông nghiệp, thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 5 1.1. Khái niệm và vai trò của đất nông nghiệp 5 1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp 5 1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp 10 1.2. Khái niệm thu hồi đất 14 1.3. Khái quát về pháp luật thu hồi đất nông nghiệp từ năm 1992 đến nay 19 Chương 2: Thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 24 2.1. Quy định về mục đích thu hồi đất 24 2.2. Quy định về thẩm quyền thu hồi đất 26 2.3. Quy định về trình tự thu hồi đất nông nghiệp 29 2.4. Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất nông nghiệp 39 2.4.1. Quy định về bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất nông nghiệp 39 2.4.2. Quy định về tái định cư khi thu hồi đất nông nghiệp 53 2.5. Quy định về mức giá áp dụng để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 54 Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp và một số kiến nghị 58 3.1. Khái quát tình hình thu hồi đất nông nghiệp trong thời gian gần đây 58 3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp tại một số địa phương và tại huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội 66
  4. 3.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp 66 3.2.2. Về những dự án đã thu hồi đất nông nghiệp nhưng không được triển khai thực hiện 68 3.2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về mức giá bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp 70 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 75 3.3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp 75 3.3.2. Hoàn thiện các quy định về giá đất để bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp 76 3.3.3. Hoàn thiện các quy định về tái định cư khi thu hồi đất nông nghiệp 78 3.3.4. Học tập kinh nghiệm bảo vệ quỹ đất nông nghiệp từ các nước trên thế giới 79 3.3.5. Một số giải pháp nhằm khắc phục khó khăn sau khi thu hồi đất nông nghiệp 82 Kết luận 88 Danh mục tài liệu tham khảo 90
  5. Danh mục các bảng biểu Trang Biểu 3.1: Biến động sử dụng đất sản xuất nông nghiệp ở huyện 59 Đông Anh từ năm 1995 đến năm 2000 Biểu 3.2: Hiện trạng sử dụng đất năm 2006 của huyện Đông Anh 60 Biểu 3.3 : Tình hình biến động sử dụng đất trên địa bàn huyện 61 Đông Anh từ năm 2000-2007 Biểu 3.4: Sự suy giảm diện tích đất sản xuất đất nông nghiệp 64 huyện Đông Anh Biểu 3.5: Kết quả việc thu hồi đất ở huyện Đông Anh từ năm 65 2000- 2005
  6. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai được coi là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn thu nhập và tạo ra sản phẩm hàng hoá thiết yếu cho toàn xã hội. Việc sử dụng nguồn tài nguyên này một cách hợp lý, có hiệu quả đảm bảo sự phát triển bền vững là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp - nông thôn, Đảng ta trong nhiều thập kỷ qua đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách lớn để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta đã đề ra chủ trương “người cày có ruộng”. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, người cày có ruộng được hiểu là những người thiết tha với đồng ruộng, có khả năng sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Để nâng cao vị trí của họ trong xã hội, trước hết Nhà nước cần giúp họ có quyền trên mảnh ruộng được giao bằng các quy định bảo đảm quyền sử dụng đất của họ. Trong lịch sử cũng như hiện nay, Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển, bảo vệ quỹ đất nông nghiệp để người nông dân có đất canh tác. Song với nhu cầu phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế hay các mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng... đã dần dần làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Quá trình thu hồi đất đã bộc lộ nhiều vấn đề vướng mắc trong việc giải phóng mặt bằng, bồi thường thiệt hại, hỗ trợ khi thu hồi đất... Hậu quả của việc thu hồi đất đã để lại không ít khó khăn cho nông dân trong lúc các chính sách giải quyết vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Thực tiễn cho thấy: tình trạng người nông dân không còn đất để sản xuất do việc bị thu hồi đất nông nghiệp đang là một vấn đề rất bức xúc hiện nay. Tình trạng đất nông 1
  7. nghiệp, nhất là đất trồng lúa nước bị thu hồi dẫn đến việc người nông dân không có đất để sản xuất kéo theo không ít hậu quả kinh tế - xã hội khác là một vấn đề thời sự rất cấp thiết, đòi hỏi cần phải có hướng khắc phục và giải quyết kịp thời. Trong khi đó, khung pháp lý quy định về vấn đề thu hồi đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng còn nhiều bất cập cần phải giải quyết. Những điều trình bày trên đây chính là lý do của việc chọn đề tài: "Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn thạc sĩ của học viên. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian gần đây, với tốc độ đô thị hoá tăng nhanh, nhu cầu phát triển kinh tế lớn đã dẫn đến hàng loạt các dự án cần đến mặt bằng đất để xây dựng cơ sở hạ tầng. Do đó, tình hình thu hồi đất nông nghiệp dẫn đến việc người nông dân mất đất sản xuất kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực đã tạo nên sự bức xúc trong xã hội. Nhiều vụ cưỡng chế thu hồi đất xảy ra, nhiều vụ khiếu kiện cũng do nguyên nhân thu hồi đất gây ra. Do đó, hiện nay vấn đề thu hồi đất và pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp đang được các nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm. Trên các tạp chí và các báo viết, báo điện tử đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập vấn đề này như các bài viết: “Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” của ThS. Lê Ngọc Thạnh -Tạp chí Tài nguyên và Môi trường kỳ 1- tháng 6/2009, trang 40- 42; “Một số giải pháp tái định cư cho các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp” của Phan Văn Thọ- Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường - Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, kỳ 2- tháng 5/2009; “Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi thu hồi đất” của Th.S Đặng Đức Long- Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, kỳ 1- tháng 5/2009, trang 7-8 ; “Tái định cư cho các hộ nông dân bị thu hồi đất ở Sơn La” của Lò Hùng Thuận - Tạp chí Tài nguyên và 2
  8. Môi trường, Kỳ 2- tháng 5/2009, trang 35-37 ; “39% nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long không có đất sản xuất” của Hà Dịu, Báo điện tử VietNamnet.vn cập nhật ngày 09/10/2008 ; “Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù” của Lan Hương, Báo điện tử Dân trí cập nhật ngày 03/10/2008, “Về việc thu hồi đất nông nghiệp tại phường Đại Kim, quận Hoàng Mai” của Quốc Hoàn, Báo An ninh Thủ đô số 2556 ngày 22/6/2009, trang 8. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể về pháp luật thu hồi đất hiện nay. Vì vậy, từ việc nghiên cứu thực trạng pháp luật thu hồi đất nông nghiệp, kết hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt từ số liệu cụ thể của huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, tác giả đã nghiên cứu một cách nghiêm túc để từ đó phân tích và đưa ra những nhận định, đánh giá của mình về thực trạng thu hồi đất nông nghiệp cũng như việc áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề thu hồi đất nông nghiệp trong thực tiễn, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần khắc phục những khó khăn, bất cập trong việc thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp và giải pháp khắc phục khó khăn khi thu hồi đất nông nghiệp. Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài được đặt ra như sau: - Khẳng định được tầm quan trọng của đất nông nghiệp trong đời sống xã hội, từ đó nhận thấy được yêu cầu điều chỉnh pháp luật một cách rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ các quan hệ phát sinh trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp. 3
  9. - Phân tích thực trạng pháp luật về thu hồi đất hiện nay để thấy những bất cập cần phải khắc phục. - Phân tích, đánh giá thực tiễn thu hồi đất, từ đó tìm ra những bất cập trong việc áp dụng pháp luật thu hồi đất và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thu hồi đất và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp. Để có hướng nghiên cứu tập trung và cụ thể, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu quy định của pháp luật đất đai về thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại một số địa phương, đặc biệt là thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội - nơi tác giả luận văn đang công tác và sinh sống. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật đất đai. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp chứng minh, phương pháp diễn giải, phương pháp thống kê... để làm sáng tỏ những vấn đề của đề tài. 5. ý nghĩa của kết quả nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số giải pháp của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật về việc thu hồi đất ở nước ta. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 4
  10. Chương 1: Một số vấn đề chung về đất nông nghiệp, thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp. Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp và một số kiến nghị. 5
  11. Chương 1 Một số vấn đề chung về đất nông nghiệp, thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật thu hồi đất nông nghiệp 1.1. Khái niệm và vai trò của đất nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là một trong các yếu tố quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam cho đến nay vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Trong toàn bộ hoạt động vật chất của con người, sản xuất nông nghiệp giữ một vị trí quan trọng. Kinh nghiệm của những nước đã đạt đến trình độ cao như Mỹ, Nhật Bản, cũng như các nước trở thành nước công nghiệp mới, trong những thập niên gần đây vẫn rất coi trọng nông nghiệp, nông thôn. Thành công mà họ đạt được là hiện đại hoá ngành nông nghiệp, cải biến cơ cấu nông thôn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn không chênh lệch quá xa so với khu vực đô thị. Do đó, nông nghiệp và kinh tế nông thôn có điều kiện tích tụ vốn cho quá trình công nghiệp hoá. Việt Nam là một quốc gia trong vùng nhiệt đới, có nhiều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, thu hút hơn 80% dân số và 70% lực lượng lao động [16]. Trong nhiều thập kỷ tới, nông nghiệp vẫn còn là một ngành kinh tế quan trọng ở nước ta. Nông thôn vẫn là khu vực địa lý rộng lớn và là một trong 6
  12. những yếu tố quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc điểm lớn nhất của sản xuất nông nghiệp là gắn chặt với các điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, nguồn nước...Trong các điều kiện đó, đất đai là cơ sở đầu tiên không thể thiếu được và là tư liệu sản xuất chủ yếu. Hoạt động lao động của con người bao giờ cũng gắn chặt với đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là vật hoặc những vật mà hoạt động của con người tác động vào. Còn tư liệu lao động là những phương tiện vật chất mà nhờ đó, con người tác động vào đối tượng lao động. Đất đai tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Vì vậy, đất đai trở thành một loại tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được, đất đai được coi là nguồn gốc của mọi của cải. Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam thì đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô, khoai, sắn và những loại cây được coi là lương thực. Tuy nhiên, trên thực tế, việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản hay để trồng các cây lâu năm... Trước đây, Luật Đất đai năm 1993 đưa ra định nghĩa về đất nông nghiệp tại Điều 42 như sau: Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Theo quy định của Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam chia làm sáu loại: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Với sự phân loại này, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được tách ra thành hai loại đất nằm trong sáu loại đất thuộc vốn đất quốc gia và được định nghĩa theo Điều 42 và Điều 43 của Luật 7
  13. Đất đai năm 1993. Tuy nhiên, sự phân loại này dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen, chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế đó, Luật Đất đai năm 2003 đã chia đất đai thành ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu. Trên cơ sở đó, đất đai được chia theo ba nhóm: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, có thể hiểu: nhóm đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có đặc tính sử dụng giống nhau, với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, khoanh nuôi, tu bổ, bảo vệ rừng, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp. Căn cứ vào mục đích sử dụng, Luật Đất đai 2003 phân loại nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: a) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; b) Đất trồng cây lâu năm; c) Đất rừng sản xuất; d) Đất rừng phòng hộ; đ) Đất rừng đặc dụng; e) Đất nuôi trồng thuỷ sản; g) Đất làm muối; h) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ. Với diện tích đất nông nghiệp có hạn trong khi dân số đông, để đảm bảo tất cả mọi người nông dân đều có đất để sản xuất và đảm bảo đất nông 8
  14. nghiệp được sử dụng có hiệu quả, đất nông nghiệp được Nhà nước giao theo hạn mức. Đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối thì hạn mức giao đất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá ba héc ta đối với mỗi loại đất. Hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá mười héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá ba mươi héc ta đối với các xã, phường thị trấn ở trung du, miền núi. Hạn mức giao đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 30 héc ta đối với mỗi loại đất. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao đất không quá năm héc ta. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao thêm đất trồng cây lâu năm thì hạn mức đất trồng cây lâu năm là không quá năm héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá hai mươi lăm héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao thêm đất rừng sản xuất thì tổng hạn mức giao đất rừng sản xuất là không quá hai mươi lăm héc ta. Hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối không vượt quá hạn mức giao đất quy định giao đất trồng cây lâu năm và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân theo những quy định trên. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, chủ sử dụng đối với đất nông nghiệp bao gồm: - Hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư: đối với các chủ thể này, đất nông nghiệp được Nhà nước giao, cho thuê, do được thuê quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác; do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 9
  15. Hộ gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất trước ngày Luật Đất đai có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng theo thời hạn giao đất còn lại. Còn đối với những địa phương chưa giao đất cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp luật về đất đai thì ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất lập phương án giao đất và đề nghị ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết định giao đất. Đối với những địa phương mà ủy ban nhân dân các cấp đã hướng dẫn hộ gia đình, cá nhân thương lượng điều chỉnh đất cho nhau trong quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến nay đã sử dụng ổn định thì được tiếp tục sử dụng. - Đất nông nghiệp còn được giao cho cộng đồng dân cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số. Cộng đồng dân cư được giao đất nông nghiệp có trách nhiệm bảo vệ diện tích đất được giao, được sử dụng đất kết hợp với mục đích sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, không được chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Ngoài ra, đất nông nghiệp còn được sử dụng vào mục đích công ích: Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, mỗi xã, phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thuỷ sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương. Đất nông nghiệp do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại hoặc tặng cho quyền sử dụng cho Nhà nước, đất khai hoang, đất nông nghiệp thu hồi là nguồn để hình thành hoặc bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường thị trấn. Bên cạnh đó, tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng được quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tổ chức kinh tế có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng 10
  16. thuỷ sản, làm muối thì được nhà nước xem xét giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất hàng năm. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt thì được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng hoặc cho thuê đất thu tiền đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm để thực hiện dự án đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 phải chuyển sang thuê đất hoặc được giao đất có thu tiền sử dụng đất. Tổ chức được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối nhưng không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích hoặc sử dụng không có hiệu quả thì Nhà nước thu hồi đất để giao cho địa phương đưa vào sử dụng theo quy định của Luật Đất đai năm 2003. 1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp, là nguồn nội lực, nguồn vốn lớn của đất nước, là thành phần quan trọng của môi trường sống. C. Mác cho rằng đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư. Khi nói về vai trò và ý nghĩa của đất đối với nền sản xuất xã hội C.Mác đã khẳng định “Lao động không phải là nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và giá trị tiêu thụ” [36]. Như William Petti đã nói “Lao động chỉ là cha của cải vật chất, còn đất là mẹ” [36]. Chúng ta hiểu rằng đất sinh ra mọi của cải vật chất xã hội, không có đất thì không thể sản xuất cũng như không thể phát triển đô thị và khu công nghiệp. Đất nông nghiệp có đặc điểm là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được của ngành nông- lâm nghiệp. Nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên 11
  17. của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ: "đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài người" [3]. Có thể thấy rõ đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là tài nguyên thiên nhiên không sinh sản được. Đất nông nghiệp có vị trí cố định và không thể di chuyển được. Không giống như vốn, đất không thể sản sinh thêm thông qua quá trình sản xuất. Đất nông nghiệp có vị trí cố định không di chuyển được bởi nó gắn liền với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi vùng. Mặt khác, cùng với xu thế đô thị hoá ngày càng nhanh, chủ thể sử dụng đất có xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục đích khác để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Quá trình này làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. ở Việt Nam, xu hướng này đã và đang diễn ra ngày một nhanh chóng, trong 10 năm từ năm 1990 đến năm 2000, đất trồng lúa nước ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ bị giảm không có diện tích bù lại đã lên tới 62.612ha trong khi đây lại thường là những ruộng lúa tốt, màu mỡ [4]. Từ những trình bày trên đây cho thấy đất nông nghiệp có vai trò là tư liệu sản xuất chủ yếu quyết định tính đa dạng, quy mô và hiệu quả của sản phẩm hàng hoá nông nghiệp phục vụ nhu cầu đời sống thiết yếu của con người. Các sản phẩm nông nghiệp được khai thác từ đất như: các loại cây trồng, vật nuôi... để duy trì sự sống của loài người, bên cạnh đó các sản phẩm nông nghiệp còn làm nguyên liệu chính cho các ngành sản xuất khác. Đất nông nghiệp đóng vai trò đảm bảo vấn đề an ninh lương thực đối với mỗi quốc gia. Có thể nói không có đất nông nghiệp con người không thể tồn tại được. Ngày nay, trong xu thế phát triển toàn cầu, mục tiêu công nghiệp hoá, đô thị hoá, hiện đại hoá là khát vọng hướng tới của loài người. Để đáp ứng nhu cầu to lớn đó, đất nông nghiệp là nguồn đất chính cung cấp đất phục vụ 12
  18. phát triển các khu đô thị và công nghiệp. Đất nông nghiệp đang phải chịu áp lực mạnh mẽ từ thực tế phát triển đô thị, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh trong quá trình đô thị hoá. Kết quả kiểm kê đất đai năm 2005 cho thấy, tổng diện tích đất nông nghiệp ở nước ta là 9.415.568 ha, trong đó đất trồng lúa của cả nước là 4.165.277ha, giai đoạn 2001-2005 tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp là 438.068ha. Đáng lưu ý là đất trồng lúa của nước ta trong giai đoạn 2000- 2005 bị giảm đến 302.493 ha [29]. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá với sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng kinh tế dịch vụ công nghiệp thì quỹ đất nông nghiệp càng chịu áp lực mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất cũng thay đổi theo hướng đất phi nông nghiệp tăng lên, đất nông nghiệp giảm dần. Để có được một vùng đất nông nghiệp tốt phải trải qua quá trình canh tác cải tạo hàng ngàn, hàng vạn năm. Đất cùng với nền sản xuất nông nghiệp tạo nên niềm tự hào cho nhân loại. Với vai trò quan trọng của đất nông nghiệp trong diện tích đất nông nghiệp quá hạn hẹp của nước ta, từ Luật Đất đai năm 1993 đến Luật Đất đai năm 2003 đều có các quy định nhằm bảo vệ quỹ đất nông nghiệp. Những quy định về việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích khác được chú ý để giảm thiểu việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Đó là việc nhà nước quy định điều kiện để chuyển mục đích sử dụng phải căn cứ vào kế hoạch hàng năm mà các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đăng ký nhu cầu với Chính phủ và phải được ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua. Tại Chỉ thị số 247/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1995 chỉ rõ: địa phương nào không lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp trình Chính phủ phê duyệt thì nhất thiết không được 13
  19. chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác. Cũng tại Chỉ thị số 11/TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2006 về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã chỉ rõ: ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải rà soát, điều chỉnh quy hoạch các dự án sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, của từng vùng và cả nước; có định hướng quy hoạch, kế hoạch về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm từ dự án dạy nghề cho lao động nông thôn. Tại khoản 3, Điều 38, Luật Đất đai năm 2003 đã quy định đất sử dụng không đúng mục đích sẽ bị thu hồi. Thậm chí, trong hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, bên cho thuê có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu bên thuê không chấm dứt ngay hành vi sử dụng đất không đúng mục đích (Điều 719- Bộ luật Dân sự năm 1995). Đồng thời, để người làm nông nghiệp không có tư tưởng chuyển mục đích sử dụng đất hay bỏ đất nông nghiệp để làm ngành nghề khác nhằm bảo vệ diện tích đất nông nghiệp được sử dụng đúng mục đích, Nhà nước còn luôn dành cho họ những ưu đãi về tài chính như không phải nộp tiền sử dụng đất nếu “hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp..., nuôi trồng thuỷ sản...sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp... trong hạn mức theo quy định của pháp luật đất đai” (Điều 7, Nghị định 04/NĐ-CP ngày 11/02/2004 về thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2003” và Điều 3 - Nghị định 38/2000/NĐ-CP ngày 23/8/2000 về thu tiền sử dụng đất). Ngoài ra, để khuyến khích việc tập trung mở rộng hơn nữa diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất quy định “trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp thì thuế suất từ 20-50%”, trong khi đó, nếu chuyển mục đích sử dụng từ đất phi 14
  20. nông nghiệp sang đất nông nghiệp thì thuế suất là 0% (Điều 8, Luật sửa đổi bổ sung Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất). Cũng nhằm khuyến khích việc sản xuất nông nghiệp mà Nhà nước chỉ thực hiện thu một loại thuế đối với sản xuất nông nghiệp ngành trồng trọt. Đó là thuế sử dụng đất nông nghiệp với thuế suất 10% tổng thu nhập của nông dân. Nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được nhà nước để lại tỷ lệ thoả đáng cho ngân sách xã và huyện để tái đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Ngoài ra, Nhà nước còn có chính sách miễn, giảm thuế cho người sử dụng đất nông nghiệp sản xuất trong điều kiện khó khăn như: sử dụng đất hoang hoá đưa vào sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân sản xuất nông nghiệp ở vùng cao, miền núi, biên giới, hải đảo… Với tầm quan trọng to lớn của đất nông nghiệp, bảo vệ quỹ đất nông nghiệp là bảo vệ nguồn sống của người nông dân. Tuy có những quy định ưu tiên như vậy để bảo vệ đất nông nghiệp nhưng hiện nay đất nông nghiệp đang giảm sút nghiêm trọng, phần lớn do việc thu hồi đất để phát triển kinh tế. Tuy là một nước nông nghiệp nhưng nước ta có diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người thấp với 1137 m2/người, đất trồng lúa nước là 899 m2/người (năm 1980) và đến năm 1995 diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người chỉ còn 778 m2/người và diện tích đất trồng lúa nước là 560 m2/người [12]. Đất sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam bị chia cắt rất manh mún, cản trở lớn cho phát triển sản xuất, đặc biệt cho quá trình đi lên sản xuất lớn, công nghiệp hoá nông nghiệp. Với đồng bằng Bắc Bộ, mỗi hộ có từ 15 - 20 thửa đất, mỗi thửa khoảng 150 - 300 m2 nên giá trị sinh lợi thấp, bình quân 1 ha đất nông nghiệp cho giá trị được 600 USD/năm trong khi ở Đài Loan là 15.172 USD/năm và Hà Lan là 16.600 USD/năm [41]. Trong khi đó, những năm gần đây, diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh mà nguyên nhân chủ yếu là nhà nước thu hồi đất để phục vụ các mục đích phát triển kinh tế. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2