intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu đề tài "Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" nhằm làm rõ cơ sở lý luận và trên cơ sở thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật đề xuất các giải pháp đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng là công chức cấp xã.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ HỒNG HÀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ néi – 2010 1
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 7 CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.1. Mục đích và yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật cho công 7 chức cấp xã 1.1.1. Những nguyên lý chung về phổ biến, giáo dục pháp luật áp 8 dụng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ công chức cấp xã và công tác phổ 12 biến, giáo dục cho công chức cấp xã 1.1.2.1. Khái niệm công chức cấp xã và công tác phổ biến, giáo dục 12 pháp luật cho công chức cấp xã 1.1.2.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức 19 cấp xã 1.1.2.3. Chủ thể và đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho công 21 chức cấp xã 1.1.2.4. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 25 1.1.2.5. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 27 1.2. Đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 29 1.2.1. Những thuận lợi và trở ngại trong phổ biến, giáo dục pháp 29 luật cho công chức cấp xã 1.2.2. Những yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật đặt ra đối với 33 5
  3. công chức cấp xã 1.2.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đòi hỏi 33 tính chuyên ngành 1.2.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã phải gắn 34 với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức 1.2.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là phổ 35 biến, giáo dục cho các chủ thể thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng khác Chương 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 37 CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ 2.1. Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã và thể chế về phổ biến, 37 giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 2.1.1. Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã 37 2.1.2. Thể chế về phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 43 2.2. Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 48 2.2.1. Chính quyền cấp xã với nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp 48 luật cho công chức cấp xã 2.2.2. Cơ quan và công chức chuyên trách phổ biến, giáo dục pháp 49 luật cho công chức cấp xã 2.2.3. Đội ngũ những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp 51 luật cho công chức cấp xã 2.2.4. Cơ sở vật chất và việc sử dụng các nguồn lực cho công tác 52 phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 2.2.5. Cơ chế phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức 53 cấp xã 2.2.6. Nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục 55 pháp luật cho công chức cấp xã 6
  4. 2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 61 2.3.1. Những hạn chế, tồn tại 61 2.3.2. Nguyên nhân 64 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG 67 TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ 3.1. Yêu cầu khách quan của việc nâng cao hiệu quả công tác 67 phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay 3.2. Các giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, 72 giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã hiện nay 3.2.1. Giải pháp về nâng cao năng lực của chủ thể phổ biến, giáo 72 dục pháp luật cho công chức cấp xã 3.2.1.1. Nâng cao chất lượng của chủ thể phổ biến, giáo dục pháp 72 luật cho công chức cấp xã 3.2.1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác phổ biến, giáo dục 73 pháp luật đối với công chức cấp xã 3.2.1.3. Đầu tư cần thiết và thỏa đáng hơn cho công tác phổ biến, 76 giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã 3.2.2. Giải pháp về nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của công 77 chức cấp xã 3.2.2.1. Nâng cao nhận thức cho công chức cấp xã về vai trò của 77 pháp luật trong đời sống xã hội và đối với chính quyền cơ sở 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng, trình độ pháp luật cho công chức cấp 78 xã và thu hút sự tham gia của đối tượng này vào hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 7
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong hệ thống chính quyền bốn cấp hoàn chỉnh của Nhà nước ta, chính quyền cấp xã có một vị trí quan trọng, là "cầu nối" giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chính quyền cấp xã mạnh hay yếu, việc làm của chính quyền tốt hay không tốt, đúng hay sai đều có tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ảnh hưởng đến sự vững mạnh của chính quyền. Do đó, ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào của công cuộc xây dựng đất nước, Việt Nam đã, đang và sẽ quan tâm đến việc xây dựng chính quyền cơ sở cấp xã vững mạnh. Các công việc của chính quyền cấp xã thực hiện chủ yếu thông qua đội ngũ công chức cấp xã. Công chức cấp xã là những người thường xuyên, trực tiếp quan hệ với nhân dân, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và thi hành pháp luật của Nhà nước tại cơ sở, là tấm gương để nhân dân học tập, làm theo và có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Công cuộc đổi mới đất nước ta trong gần 25 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng, nhất là ở cơ sở. Trong những thành tựu đó có sự đóng góp tích cực của đội ngũ công chức cấp xã (trước đây là đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã). Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, đặc biệt là yêu cầu tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đội ngũ công chức nói chung, trong đó có đội ngũ công chức cấp xã phải thường xuyên tìm hiểu kịp thời cập nhật văn bản pháp luật, từ đó có sự hiểu biết, nắm vững và thực thi công vụ đúng pháp luật, đồng thời, vận động, tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. 8
  6. Trong những năm qua, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đã được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc quản lý xã hội bằng pháp luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Ngày 17 tháng 01 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ban hành kèm theo Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007. Ngày 16 tháng 12 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Tiếp đó, ngày 12 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 với mục tiêu là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập như việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được thường xuyên, còn dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm, chưa đảm bảo chiều sâu và chưa hướng mạnh về cơ sở; nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền chưa phù hợp với trình độ của người được tuyên truyền và đặc thù của địa bàn… dẫn đến trình độ hiểu biết pháp luật của một bộ phận công chức cấp xã vẫn còn thấp, vẫn còn công chức cấp xã làm sai quy định của pháp luật trong khi thi hành công vụ…. Trước tình hình đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức xã là việc làm thiết thực, hết sức cần thiết, 9
  7. nhằm tìm ra những hình thức, biện pháp, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với đội ngũ công chức này, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã. Từ thực trạng tình hình nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã có ý nghĩa quan trọng, góp phần đưa công tác này có những chuyển biến tích cực trong thời gian tới, tác giả đã chọn đề tài: "Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" để làm luận văn tốt nghiệp Cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề từ lâu được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất là từ năm 1986, khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện thì hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được đặt ở tầm cao mới, là một trong những vấn đề được các nhà khoa học pháp lý quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố như: - Giáo dục pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó Tiến sĩ luật học (nay là Tiến sĩ) của tác giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ tại Liên Xô cũ); - Giáo dục pháp luật qua hoạt động nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học của Lê Đình Quý, 1992; - Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động Tư pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học của Dương Thị Thanh Mai, 1996; - Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; - Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ của Khoa Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999; 10
  8. - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 1994; - Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Đắc Lắc hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Văn Dương, 2002; - Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định- thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Văn Trầm, 2002; - Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Hà, 2003; - Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Trung Thành, 2004; - Thực hiện chương trình giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở các trường chính trị tỉnh, Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Quốc Dụng, 2005; Các công trình khoa học trên đã nêu ra những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều đối tượng, dưới nhiều góc độ khác nhau. Song do phạm vi, giới hạn và nhiệm vụ nghiên cứu nên chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong phạm vi toàn quốc. Luận văn này kế thừa các kết quả nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung trong các công trình nêu trên, đồng thời nghiên cứu thêm đặc điểm, yêu cầu trong nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cũng như những giải pháp tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với đối tượng là công chức cấp xã hiện nay. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu đề tài "Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" nhằm làm rõ cơ sở lý luận và 11
  9. trên cơ sở thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật đề xuất các giải pháp đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng là công chức cấp xã. Luận văn sẽ nghiên cứu đối tượng công chức cấp xã trên phạm vi toàn quốc. Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu dưới giác độ phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, giới hạn của luận văn chỉ nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã, tức là chỉ đi sâu nghiên cứu đối tượng được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, mà không đi sâu nghiên cứu các đối tượng là cán bộ cấp xã. Như vậy, giới hạn công chức cấp xã luận văn đề cập tới là 07 chức danh chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp xã: Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy), Chỉ huy trưởng quân sự, Văn phòng - Thống kê, Địa chính - Xây dựng, Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch và Văn hóa - Xã hội. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, điều tra, khảo sát... 5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Khái quát, hệ thống các vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nói 12
  10. riêng, đồng thời làm rõ yêu cầu khách quan của việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã; - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong thời gian qua; - Đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay và kiến giải việc hoàn thiện pháp luật trong vấn đề này. 6. Đóng góp mới của luận văn - Nghiên cứu đặc điểm về phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã và những yêu cầu khách quan của việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ công chức này. - Đánh giá có hệ thống và toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã. - Đề xuất được các quan điểm, giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã. Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã. 13
  11. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.1. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ Quản lý xã hội bằng pháp luật là một nguyên tắc quan trọng của quản lý ở nhà nước ta đã được quy định tại Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Muốn thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, trước hết cần phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp, điều chỉnh kịp thời và toàn diện các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống xã hội. Vì vậy, việc ban hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật là công việc rất quan trọng của nhà nước ta. Tuy nhiên, một trong những vấn đề quan trọng không kém là làm thế nào để pháp luật đi vào cuộc sống, được thực thi trong đời sống, phát huy tác dụng trong tiến trình đổi mới của đất nước. Việc thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào ý thức, thói quen chấp hành pháp luật của công dân, mà trước hết là cán bộ, công chức. Pháp luật được ban hành ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng phục vụ quyền và lợi ích hợp pháp của toàn thể nhân dân lao động, một công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội và là công cụ để mỗi cá nhân - công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội. Mục đích của pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử sự cụ thể của mỗi cá nhân. Hành vi xử sự của các chủ thể phù hợp với các quy định của pháp luật sẽ giữ cho các quan hệ xã hội được ổn định, ngược lại nếu hành vi xử sự không phù hợp với các quy định của pháp luật thì các quan hệ xã hội sẽ mất ổn định, mục đích của sự ban hành pháp luật không đạt được, pháp luật 14
  12. không phát huy được hiệu quả trong cuộc sống. Hành vi pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào ý thức pháp luật của họ. Ý thức pháp luật càng cao thì sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật càng cao. Chính vì vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tăng cường pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07 tháng 01 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay nêu rõ: "Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, công tác này càng có vai trò quan trọng về nhiều mặt" [7]. Phổ biến, giáo dục pháp luật vừa mang tính thực tiễn vừa mang tính khoa học, do đó trước tiên phải nghiên cứu khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật dưới góc độ lý luận, khoa học để đối chiếu vào thực hiện và tổ chức thực hiện tốt trong thực tiễn. 1.1.1. Những nguyên lý chung về phổ biến, giáo dục pháp luật áp dụng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã Trong khoa học pháp lý hiện nay chưa có khái niệm chính thức, thống nhất về thuật ngữ "phổ biến, giáo dục pháp luật", còn có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Trên thực tế, phổ biến, giáo dục pháp luật hầu như chưa được nhắc đến ở khía cạnh học thuật mà chủ yếu được biết đến với khái niệm giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong đa số các văn bản của Đảng và Nhà nước, phổ biến, giáo dục pháp luật được đề cập phổ biến và thường xuyên. Nghiên cứu nguyên lý về phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã, trước hết phải tìm hiểu phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong khoa học pháp lý, có quan niệm cho rằng nên hiểu giáo dục pháp luật theo cả hai nghĩa rộng và hẹp: Giáo dục pháp luật là quá trình ảnh hưởng của những nhân tố 15
  13. khách quan và sự tác động có mục đích, hệ thống và thường xuyên của chủ thể giáo dục tới đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, trang bị cho đối tượng kiến thức pháp lý để họ có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Với quan niệm này, sự tác động của các nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng, là yếu tố quyết định đến hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, song quá trình giáo dục không tách rời những điều kiện tồn tại của xã hội như chế độ kinh tế, chính trị trong từng giai đoạn cụ thể của sự phát triển xã hội. Những thay đổi về điều kiện khách quan trong từng giai đoạn phát triển xã hội sẽ có tác động quan trọng, tạo khả năng biến động trong đời sống tinh thần của con người và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, nếu theo quan niệm này thì sẽ dẫn đến sự đồng nhất phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù hình thành ý thức pháp luật, việc xác định nội dung, phương hướng, hình thức, phương pháp, phương tiện giáo dục pháp luật sẽ gặp khó khăn. Thực tiễn chỉ ra rằng kết quả của giáo dục chỉ đạt được khi xác định đúng đắn nội dung, hình thức, phương tiện và phương pháp giáo dục, đồng thời có nghệ thuật khéo léo định hướng các yếu tố đó phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ và đối với từng loại khách thể giáo dục khác nhau. Ngược lại, nếu buông trôi, thả lỏng thì các ảnh hưởng tiêu cực khách quan sẽ có điều kiện lan rộng. Có quan điểm cho rằng nên hiểu giáo dục pháp luật theo nghĩa rộng, đó là ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan. "Giáo dục pháp luật được quan niệm là tổng thể các tác động, ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và khách quan đến sự hình thành ý thức, hành vi và kỹ năng xử sự theo các giá trị, chuẩn mực pháp luật của con người" [25]. Có quan điểm cho rằng, nên hiểu pháp luật theo nghĩa hẹp để phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù hình thành ý thức pháp luật: 16
  14. Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của nền pháp chế hiện hành [29]. Theo quan niệm này, giáo dục pháp luật là một nhân tố chủ quan quan trọng, chủ đạo trong quá trình hình thành ý thức của con người bên cạnh nhân tố khách quan là các điều kiện tồn tại của xã hội như chế độ kinh tế, chính trị với những giai đoạn cụ thể của sự phát triển xã hội ấy, như C.Mác đã viết: "Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó, con người thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi" [28, tr. 20]. Với những quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật nêu trên, nguyên lý chung của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là những nguyên tắc chung, phương pháp và cách thức nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống. Nguyên lý công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã vừa có những đặc điểm của nguyên lý chung, vừa có những đặc điểm đặc thù. Điểm đặc thù này xuất phát trên cơ sở đặc điểm của đội ngũ công chức cấp xã. Chính vì lý do đó, trong thực tiễn triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã phải bàn tới mặt kỹ thuật (nghiệp vụ) với tính chất là một hoạt động thực tiễn, nó bao gồm các bước, các công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: Định hướng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; lập chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; kiểm tra đôn đốc, uốn nắn, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật… 17
  15. Qua thực tiễn cho thấy, những yếu tố mang tính nguyên lý không thể thiếu trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã là: - Về mục đích, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nhằm cung cấp tri thức pháp luật và xây dựng ý thức pháp luật cho đối tượng này. Phổ biến, giáo dục pháp luật có sự tác động của các chủ thể đến công chức cấp xã nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, làm cho đối tượng này tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức pháp luật, thực hiện đúng quy định của pháp luật trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ được giao và làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng khác và nhân dân trên địa bàn. - Về nội dung, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã các tri thức về pháp luật và nhà nước, đặc biệt là những quy định của pháp luật thực định, khoa học pháp lý và kinh nghiệm, nghiệp vụ trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật tại cơ sở. - Về chủ thể, đối tượng, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã cần đa dạng, phong phú. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho những đối tượng của đội ngũ công chức cấp xã có sự tham gia của nhiều chủ thể với những vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền khác nhau cùng thực hiện tác động giáo dục tới các đối tượng công chức cấp xã nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật tương đối phong phú, đa dạng bởi vì trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật, các chủ thể công chức cấp xã đều cần phải có sự hiểu biết pháp luật để có thể tham gia vào những quan hệ xã hội tùy theo lĩnh vực hoạt động và địa vị pháp lý của mình. Phổ biến, giáo dục pháp luật có sự tác động một cách thường xuyên, liên tục và lâu dài chứ không phải chỉ là sự tác động nhất thời của chủ thể đến 18
  16. đối tượng. Đó là một quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước. Đối tượng công chức cấp xã sẽ chịu sự tác động có tổ chức, định hướng của các thông tin pháp luật, do vậy, chủ thể giáo dục pháp luật phải hiểu biết được trình độ, nhân thân, đặc điểm của đội ngũ công chức này để có những phương thức, định hướng truyền tải thông tin đến đối tượng sao cho hiệu quả nhất. Đồng thời, phổ biến, giáo dục pháp luật phải được thực hiện ngay trong quá trình xây dựng pháp luật như cung cấp thông tin, phản ánh, tập hợp các ý kiến đóng góp của các cơ quan, các địa phương... Trong quá trình thực hiện pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ dừng lại ở mức độ thông tin, giáo dục phòng ngừa chung mà còn tác động lên ý thức, khả năng phát hiện, đề xuất của các đối tượng thi hành nhằm đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã và yêu cầu phát triển toàn xã hội. 1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ công chức cấp xã và công tác phổ biến, giáo dục cho công chức cấp xã 1.1.2.1. Khái niệm công chức cấp xã và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã Để hiểu rõ về công chức cấp xã, trước hết cần làm rõ khái niệm và vai trò của chính quyền cấp xã. Hiện đang có nhiều cách hiểu khác nhau về chính quyền cấp xã. Trong các văn bản chính trị, pháp lý hiện nay đang tồn tại nhiều khái niệm và cách hiểu về chính quyền cấp xã: chính quyền cấp xã, chính quyền cơ sở, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã. Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, chính quyền được hiểu là: "1. Bộ máy điều hành, quản lý công việc nhà nước ở các cấp. 2. Quyền quản lý, điều khiển bộ máy nhà nước ở các cấp" [44]. Chính quyền theo nghĩa này gắn với từ "địa phương", là chính quyền địa phương - bộ máy quản lý, điều hành các công việc nhà nước ở địa phương. Từ điển Oxford Advanced Learner’s 19
  17. Dictionary thì cho rằng: Chính quyền địa phương là một nhóm người chịu trách nhiệm đối với việc quản lý hành chính một vùng lãnh thổ [45]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chính quyền được chia thành 4 cấp: Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Chính quyền cấp xã, còn gọi là cấp cơ sở, là cấp thấp nhất trong các cấp chính quyền, được tổ chức tại các đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Chính quyền cấp xã có một vị trí đặc biệt trong các cấp chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi" [30]. Qua các thời đại, chính quyền làng - xã vẫn giữ được vị trí quan trọng của nó trong tổ chức hành chính Việt Nam. Chế độ xã, thôn tự quản được áp dụng ở nước ta ngay từ thời xa xưa, theo đó xã thôn Việt Nam được hưởng một nền tự trị rộng rãi về các phương diện: hành chính, tài chính... Mối quan hệ giữa Nhà nước và xã thông thường thể hiện bằng câu ngạn ngữ được truyền tụng trong nhận thức của tất cả mọi người: "Phép Vua thua lệ làng", là một bằng chứng xác đáng nói lên nhận định đó [13, tr. 23]. Khác với các bộ phận khác trong hệ thống chính trị ở cơ sở, chính quyền cấp xã được nhà nước trao quyền lực đặc biệt, được áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong khuôn khổ pháp luật và có nguồn lực để thực hiện quản lý nhà nước ở cơ sở. Đường lối, chủ trương của tổ chức cơ sở đảng - hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị ở cơ sở chỉ có thể đi vào đời sống của nhân dân thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã. Chính quyền cấp xã thể chế hoá và hiện thực hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong cuộc sống. Có đưa cuộc sống vào pháp luật thì mới có thể đưa pháp luật vào cuộc sống được bởi vì pháp luật khi phù hợp cuộc sống, được người dân chấp nhận, tin tưởng thì mới có thể "trở thành hành vi thực tế" của họ. Đành rằng, nếu chỉ có người dân tin tưởng, tôn 20
  18. trọng và tuân thủ không thôi thì cũng chưa đủ để có thể đưa pháp luật vào cuộc sống một cách toàn diện được, mà nó còn đòi hỏi từ phía nhà nước, nơi đề ra và tổ chức thực thi pháp luật [34, tr. 43]. Chính quyền cấp xã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ở cơ sở, tiếp thu các kiến nghị của các tổ chức chính trị - xã hội về những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân địa phương. Để tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của chính quyền cấp xã chính là đội ngũ công chức cấp xã. Hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ công chức này. Vấn đề đặt ra là công chức cấp xã là ai? Các nhà lý luận và thực tiễn ở nước ta đã đưa ra nhiều quan niệm về cán bộ, công chức, viên chức và khái niệm người lao động với tính chất chung là người làm công ăn lương. Việc quan niệm thế nào là cán bộ, thế nào là công chức, viên chức phụ thuộc vào từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển của nền hành chính công vụ. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến cho rằng: "Công chức là người đại diện cho nhà nước để thực thi quyền hành pháp" [38]. Đến năm 1998, pháp luật nước ta cũng không đưa ra định nghĩa thế nào là cán bộ, thế nào là công chức, mà chỉ đưa ra một khái niệm chung về cán bộ, công chức. Theo đó, tại Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (sửa đổi, bổ sung năm 2003) quy định: Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế, bao gồm: a- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - 21
  19. xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện); b- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; c- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; d- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội đ- Thẩm phán tòa án nhân dân; kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân; e- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. g- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân; Bí thư, phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); h- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã [40]. 22
  20. Cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, ngày 10 tháng 10 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, theo đó khoản 2 Điều 2 quy định: Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm có các chức danh sau đây: a- Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); b- Chỉ huy trưởng quân sự; c- Văn phòng - Thống kê; d- Địa chính - Xây dựng; đ- Tài chính - Kế toán; e- Tư pháp - Hộ tịch; g- Văn hoá - Xã hội [9]. Mới đây nhất, khái niệm công chức và cán bộ, công chức cấp xã đã được ghi nhận tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, cụ thể là: 2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản 23
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2