intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:130

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Thông qua việc phân tích tình hình tái hòa nhập xã hội nói chung và đi sâu phân tích công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2008 - 2012),... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HƢỜNG TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HƢỜNG TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §inh ThÞ H-êng 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ 8 HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 8 1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại cơ sở giam giữ 14 1.1.2. Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ 20 1.1.3. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội sau khi được trả 27 tự do khỏi cơ sở giam giữ 1.2. Các chương trình tái hòa nhập xã hội 31 1.3. Các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm một số nước 34 Chương 2: THỰC TRẠNG, KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC, NGUYÊN NHÂN 41 VÀ TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. Thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm 41 tội của thành phố Hải Phòng 2.2. Những kết quả đạt được công tác tái hòa nhập xã hội đối với 43 người phạm của thành phố Hải Phòng 2.3. Nguyên nhân và những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã 52 hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng 4
  5. 2.3.1. Những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với 52 người phạm tội của thành phố Hải Phòng 2.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong công 66 tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG 81 CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI TỘI PHẠM 3.1. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập xã hội 81 đối với người phạm tội 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa 85 nhập xã hội đối với người phạm tội 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát trong 85 công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của 88 đội ngũ cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công 91 tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 3.2.4. Các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cộng đồng trong 98 việc tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 3.2.5. Giải pháp mang tính nghiệp vụ 102 3.2.6. Giải pháp mang tính xã hội 106 3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các 111 quy định về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120 5
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Thống kê số liệu tái hòa nhập xã hội tại Hải Phòng từ 44 năm 2008 đến năm 2012 2.2 Số liệu về đặc xá từ 2010 đến 2012 tại Hải Phòng 47 2.3 Bảng số liệu về tái phạm, tái phạm nguy hiểm của thành 63 phố Hải Phòng 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một công tác gắn liền với việc thực thi các biện pháp hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội sau khi được trở về với xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo điều kiện cho những người đã chấp hành xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình thường đồng thời giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Hạn chế tối đa những trường hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà còn được thể hiện rất rõ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nhấn mạnh: "Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng" [18]. Bên cạnh đó, công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội được thực hiện dựa trên nguyên tắc của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 1982, theo đó: "Chế độ giam giữ, thi hành án phải nhằm mục đích chính yếu trong việc đối xử với tù nhân là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội" [38]. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một hoạt động có liên quan đến nhiều cơ quan, ban ngành và toàn xã hội. Khoản 2 Điều 39 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù [32]. 7
  8. Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đưa người phạm tội trở lại cuộc sống lương thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại địa phương, minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tình, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án [21]. Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lượng người phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hướng gia tăng, do đó việc tái hòa nhập xã hội cho các đối tượng này cần được quan tâm một cách đúng đắn. Việc tiếp nhận số lượng các đối tượng đã bị cách ly với xã hội trong một thời gian dài là một thách thức không nhỏ trong công tác tái hòa nhập xã hội. Trong những năm vừa qua thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội có những biến chuyển tích cực và đạt được một số thành tích nhất định. Tuy nhiên, tái hòa nhập xã hội được xác định là công tác mang tầm quốc gia và lâu dài do đó dù nhiều chương trình tái hòa nhập đã được thực hiện và đạt được những hiệu quả nhất định thì còn những mặt hạn chế và những tồn tại, chưa thực sự thu hút được sự quan tâm và tham gia của toàn xã hội. Thời gian chấp hành hình phạt là quãng thời gian hạn chế tự do, cách ly người bị kết án 8
  9. khỏi cộng đồng xã hội để cải tạo giáo dục họ tại trại giam, việc hạn chế lâu dài các chức năng xã hội bình thường của một con người đồng thời gây ra sự lãng quên các thói quen xã hội có ích của họ như học tập, làm việc, quan hệ cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp. Do đó việc khôi phục lại các chức năng xã hội này là một việc rất khó khăn và tương đối phức tạp. Mặt khác hiện nay các văn bản về tái hòa nhập xã hội còn chưa đồng bộ và thống nhất. Thực tế hiện nay cho thấy, các quy định về việc tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội thường được phân tán ở các văn bản pháp luật khác nhau như luật hình sự, luật thi hành án phạt tù hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ và ngành Công an như Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy. Ngoài ra công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội chưa thực sự được quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho công tác tái hòa nhập xã hội chưa thực sự phát huy hết vai trò của nó trong quá trình giáo dục, cảm hóa người phạm tội để khi mãn hạn tù họ trở thành những người có ích cho xã hội. Theo số liệu thống kê của của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, tính từ năm 2009 đến năm 2012 số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm là khá cao. Thành phố Hải Phòng là một trong những thành phố lớn với tình hình tội phạm về cả mức độ phức tạp và số lượng tội phạm trong cả nước và do vậy việc tìm hiểu và nghiên cứu về công tác tái hoà nhập xã hội đối với người phạm tội của Hải Phòng là một việc làm cần thiết và đáng quan tâm hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng" làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, người mãn hạn tù và cả những người cai nghiện và người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể là các công trình như: 9
  10. Giáo dục, giúp đỡ người tù tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, của Nguyễn Quốc Nhật, Nguyễn Trung Hòa và Trần Hải Âu, năm 2001; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ, của tập thể tác giả Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Quang Hưng. Một số bản báo cáo của vụ pháp luật hình sự - hành chính như: Báo cáo đánh giá, kiến nghị về tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2010; Rà soát, đánh giá pháp luật, chính sách và thực tiễn tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2007; Thực tiễn tái hòa nhập xã hội của người mãn hạn tù trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, của Đàm Thanh Thế; Thực trạng và giải pháp trong công tác quản lý, giúp đỡ người được đặc xá, mãn hạn tù trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, của Nguyễn Lợi; Bài học thực tiễn của quá trình hòa nhập xã hội từ trại giam đến nơi cứ trú của những người mãn hạn tù, của Nguyễn Văn Cảnh; Chương trình giáo dục cải tạo phạm nhân trong trại giam - bước chuẩn bị cho quá trình tái hòa nhập xã hội, của Phạm Đức Chuẩn. Hay một số bài viết của Võ Khánh Vinh, Nguyễn Ngọc Hòa, Hồ Sĩ Sơn v.v… trong Hội thảo khoa học "Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy". Một số giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện An Ninh, Học viện Cảnh sát nhân dân…) cũng đề cập đến vấn đề này. Mặt khác, tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội chưa đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là khái niệm được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác nhau và ở phạm vi rộng, tính từ khi một người là bị 10
  11. can, bị cáo trong các vụ án đến khi có bản án, quyết định của Tòa án và giai đoạn chấp hành án cũng như sau khi chấp hành án xong. Do vậy có rất nhiều tên gọi khác nhau ở từng giai đoạn, đó là bị can, bị cáo, người bị kết án, người tù tha, người chấp hành án, người mãn hạn tù v.v... Công tác tái hòa nhập đối với người phạm tội được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau với những đối tượng khác nhau, nhưng đều được gọi chung là người phạm tội. Phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về tái hòa nhập xã hội đối người phạm tội ở giai đoạn chấp hành án và sau khi chấp hành án xong trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm trở lại đây (2007 - 2012). Luận văn còn đi sâu nghiên cứu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội sau khi mãn hạn tù để từ đó đánh giá, nhận xét về thực trạng công tác tái hòa nhập hiện nay trên địa bàn thành phố. Đồng thời, từ những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này và thực trạng hoạt động tái hòa nhập xã hội của Hải Phòng, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong lĩnh vực này cũng như nâng cao hiệu quả của công tác tái hòa nhập xã hội của thành phố nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới. Cơ sở pháp lý nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, các quy định của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành án năm 2010, các văn bản hướng dẫn thi hành và một số văn bản hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn về công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Thông qua việc phân tích tình hình tái hòa nhập xã hội nói chung và đi sâu phân tích công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 11
  12. của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2008 - 2012), luận văn đánh giá được thực trạng của công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng nói riêng, một trong những địa phương điển hình của cả nước về tình hình tội phạm. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để vận dụng có hiệu quả vào công tác tái hòa nhập xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian sắp tới. Đồng thời luận văn cũng đưa ra một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này. Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tái hòa nhập xã hội như: Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội; các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các luật có liên quan về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của vấn đề. Đồng thời tác giả đưa ra một số giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội hiện nay. 5. Cơ sở khoa học của đề tài Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng. Ngoài ra luận văn còn dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực tội phạm học và các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này. 12
  13. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng khoa học kết hợp với một số phương pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống và một số phương pháp bổ trợ khác. 7. Điểm mới của đề tài Luận văn không phải là tài liệu có tính chất hàn lâm, học thuật hoặc chuyên khảo mà chủ yếu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội của thành phố Hải Phòng nói riêng, một địa phương điển hình trong cả nước về tình hình tội phạm và cả nước nói chung, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về lĩnh vực này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Chương 2: Thực trạng, kết quả đạt được, nguyên nhân và tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với tội phạm. 13
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI 1.1. KHÁI NIỆM TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI Quan niệm chung của Việt Nam hiện nay, vấn đề tái hòa nhập xã hội chỉ đặt ra với những người vi phạm pháp luật hình sự, hành chính mà bị cách ly khỏi cộng đồng xã hội trong một thời gian. Hệ thống chế tài về hình sự và hành chính của Việt Nam đã đưa ra các đối tượng bị cách ly khỏi xã hội bao gồm những đối tượng sau: thứ nhất là người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân; thứ hai là người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; thứ ba là người bị đưa vào trường giáo dưỡng (áp dụng đối với người chưa thành niên). Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là quá trình tính từ khi một người trở thành bị can bị cáo, bị kết án, chấp hành án và mãn hạn tù. Tuy nhiên đối tượng mà luận văn đi sâu nghiên cứu thuộc đối tượng thứ nhất đó là những người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân và tính từ khi còn là bị can, bị cáo cho đến khi mãn hạn tù hay hay là các đối tượng tù tha và trở về địa phương. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Khoản 1, Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự); bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra xét xử (Khoản 1 Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm về người bị kết án, tuy nhiên lại đề cập khá nhiều về người bị kết án khi quy định về việc chấp hành hình phạt. Như vậy có thể hiểu người bị kết án là người đã có bản án có hiệu lực của Tòa án và đang trong thời gian chấp hành án. Người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân (khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010). Có rất nhiều quan điểm khác nhau về người mãn hạn tù (hay còn gọi là đối tượng tù tha). Đa số các quan điểm đều cho rằng người mãn hạn tù bao gồm tất cả 14
  15. các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các trại giam, trại cải tạo, có quyết định được tha về địa phương. Tuy nhiên quan điểm này chưa phân biệt rõ được đối tượng tù tha với các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các cơ sở tập trung như cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh, cai nghiện được tha về địa phương. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng tù tha là tất cả các đối tượng "hết thời hạn chấp hành hình phạt tù" về địa phương. Đây là những đối tượng đã hết thời hạn chấp hành bản án do Tòa án nhân dân quyết định, được tha về địa phương [26, tr. 11-12]. Rõ ràng, quan điểm này cũng chưa thật đầy đủ, bởi lẽ nếu xác định như vậy đối tượng mãn hạn tù chỉ bao gồm những đối tượng đã chấp hành xong bản án ở các trại giam, trại cải tạo hết thời gian cải tạo theo quyết định của Tòa án được tha về địa phương, như vậy theo cách hiểu này thì số đối tượng tù tha được giảm thời hạn chấp hành án, được đặc xá không nằm trong diện đối tượng tù tha. Theo Từ điển Nghiệp vụ phổ thông thì tù tha về là những kẻ phạm tội bị phạt án tù giam đã hết hạn được tha hoặc chưa hết hạn nhưng được ân xá, ân giảm tha về. Cần quản lý chặt chẽ đối tượng tù tha về và cần bố trí công ăn việc làm cho họ, tạo điều kiện để cho họ làm ăn lương thiện. Nếu hiểu theo quan điểm này thì đối tượng mãn hạn tù bao gồm số đối tượng bị phạt án tù giam được tha kể cả số đã hết thời hạn nhưng ân xá, ân giảm tha về do có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo. Khái niệm này đã có cái nhìn toàn diện hơn so với những quan điểm trên về đối tượng mãn hạn tù, tuy nhiên chưa phân định được rõ số tù giam có thời hạn với số tù chung thân được tha về và cũng chưa đề cập tới vấn đề đối tượng tù tha được đặc xá. Để có được khái niệm đầy đủ về người mãn hạn tù, Điều 2 Quyết định của Chủ tịch nước số 35/QĐ-CTN ngày 23/2/2000 về đặc xá năm 2000 cũng chỉ rõ: "Đối tượng được xét đặc xá tha tù là những phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản lý, kể cả những phạm nhân đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù hoặc hoãn thi hành án phạt tù có những hoàn cảnh đặc biệt theo luật định" [25]. Theo đó thì đối tượng đặc xá bao gồm ba loại: Phạm nhân đang chấp hành án 15
  16. phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng và quản lý có nhiều tiến bộ được tha trước thời hạn; Phạm nhân trong thời gian được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ được miễn thi hành án phạt tù; Những người bị kết án tù trong thời gian được hoãn thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ được miễn hình phạt tù. Tổng hợp từ những quan điểm trên thì người mãn hạn tù hay còn gọi là đối tượng tù tha: Là những người có hành vi phạm tội đã bị Tòa án nhân dân kết án bằng bản án tù chung thân hoặc có thời hạn, phải chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, bị cách ly khỏi đời sống xã hội nay đã chấp hành xong hình phạt tù hoặc vì một lý do nào đó được tha ra khỏi trại, được trở về với đời sống xã hội cộng đồng [26, tr. 13]. Quan điểm này đưa ra cái nhìn tương đối phù hợp và toàn diện về người mãn hạn tù, do đó người mãn hạn tù chỉ bao gồm số đối tượng phạm tội đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân ở các trại giam, trại tạm giam, hết thời hạn hay chưa hết thời hạn nhưng tiến bộ được hưởng chính sách khoan hồng và được tha về địa phương. Số đối tượng đang chấp hành án phạt tù trong các trại giam được xét giảm án, đặc xá cũng là đối tượng mãn hạn tù. Riêng đối tượng được đặc xá cần phân biệt rõ, chỉ những phạm nhân đang chấp hành án trong các trại giam được giảm án tha về địa phương mới được coi là mãn hạn tù. Số đối tượng đang được tạm hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù không bị giam giữ, quản lý trong trại giam mà ở ngoài xã hội do có nhiều tiến bộ được hưởng chính sách khoan hồng và được xét đặc xá, thì không coi là mãn hạn tù. Các đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo Điều 20 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính như: Cải tạo ở các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh được về địa phương không phải là đối tượng mãn hạn tù. Các đối tượng chấp hành các hình phạt của Tòa án nhưng được cải tạo ở ngoài xã hội như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất đã hết thời hạn cải tạo và số bị áp dụng các hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp khác như: 16
  17. Cấm cứ trú, quản chế, tước một số quyền công dân và kể cả án treo (trừ trường hợp đối tượng đã chấp hành xong án phạt tù phải áp dụng hình phạt bổ sung) thì không phải đối tượng mãn hạn tù. Qua những phân tích nêu trên có thể hiểu người mãn hạn tù là những đối tượng có hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật hình sự, đã có quyết định của Tòa án về việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân. Họ bị xử lý, bị cách ly khỏi xã hội và được quản lý, giam giữ giáo dục trong trại giam hoặc các trại tạm giam trong một thời gian nhất định theo quyết định của Tòa án, nay họ đã hết thời hạn giam giữ, cải tạo hoặc chưa hết thời hạn nhưng có tiến bộ, được hưởng chính sách khoan hồng được tha về địa phương. Đây là những đối tượng đã bị kết án tù giam hoặc tù chung thân đã chấp hành án ở các trại giam và được tha về. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập xã hội và tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Một số quan điểm cho rằng tái hòa nhập xã hội là "tái hoàn lương" trở lại đối với cuộc sống đời thường mà những người vi phạm, những người lầm lỗi đã mất đi. Cũng có ý kiến cho rằng tái hòa nhập xã hội thực chất là các biện pháp quản lý của cộng đồng đối với những người phạm tội. Bên cạnh đó đa phần các quan điểm đều cho rằng tái hòa nhập xã hội là "quay lại lần thứ hai" hòa nhập với cộng đồng xã hội đối với những người có quá khứ tội lỗi sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên có thể hiểu tái hòa nhập xã hội như sau: Tái hòa nhập xã hội là xóa đi những quá khứ tội lỗi và mặc cảm của người phạm tội, tạo cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ hội nhập với cộng đồng nơi cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên của gia đình, cộng đồng xã hội [26, tr. 24]. Đây là những biện pháp tác động tích cực giúp đỡ những người lầm lỗi, những người có quá khứ phạm tội xóa bỏ đi mọi mặc cảm của bản thân họ đối với cộng đồng, gia đình và xã hội để họ có thể trở về là người dân lương thiện với đúng nghĩa của nó. Có thể hiểu tái hòa nhập xã hội là khái niệm thường đề cập đến các biện pháp hòa nhập xã hội được thiết kế riêng biệt để giúp người phạm tội được tha từ một cơ sở giam giữ và để 17
  18. giúp họ đối mặt với những thách thức liên quan đến việc trở về với cộng đồng. Tái hòa nhập không có nghĩa chỉ là việc đưa đối tượng lầm lỡ từ các cơ sở tập trung trở về nơi cư trú cũ, về với gia đình họ và cộng đồng dân cư nơi họ sống trước đây. Tái hòa nhập xã hội cần được hiểu ở mức độ và phạm vi rộng hơn, đây thực chất là quá trình giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện để những con người vi phạm sau một thời gian cách ly trở về với cuộc sống của cộng đồng, là người công dân lương thiện được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân. Tái hòa nhập xã hội nói chung đề cập cụ thể đến các chương trình và sáng kiến nhằm giúp người phạm tội đã được đưa vào các cơ sở giam giữ. Mục đích của nó là giúp người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng thành công sau khi chấp hành bản án cải tạo. Thông thường có hai loại chương trình: Thứ nhất là, hỗ trợ ngay trong các cơ sở giam giữ, trước khi phóng thích của người phạm tội, nhằm giúp người phạm tội giải quyết các vấn đề, xử lý các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi phạm tội của họ, trang bị các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt các chức năng xã hội của mình và chuẩn bị tái tham gia vào cộng đồng. Đây là quá trình tác động từ bên ngoài đối với đối tượng để đối tượng tiến bộ hòa nhập với cộng đồng. Đó cũng chính là các biện pháp của chính quyền, cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội và thân nhân gia đình đối với đối tượng mãn hạn tù nhằm quản lý, giáo dục giúp đỡ họ.Và chương trình thứ hai là, những chương trình dựa trên cộng đồng, thường được gọi là chương trình "hậu chăm sóc" nhằm tạo thuận lợi cho hòa nhập xã hội của người phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở giam giữ. Rất nhiều các chương trình sau này bao gồm cả một số hình thức giám sát cũng như hỗ trợ tại cộng đồng. Có thể nhận thấy đây là các biện pháp tác động hướng thiện chủ quan từ nội tâm, tự bản thân đối tượng phấn đấu để tái hòa nhập xã hội. Như vậy có thể hiểu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội được xét ở hai khía cạnh: Với cá nhân đối tượng thì tái hòa nhập xã hội chính là quá trình tự bản thân họ nhận thức điều chỉnh tư duy và hành vi cho phù hợp với quy định của pháp luật và chuẩn mực của cộng động, đồng thời thông 18
  19. qua lao động và giao tiếp, họ dần dần thích nghi với các sinh hoạt chung của cộng đồng; Bên cạnh đó các chủ thể là nhà nước và xã hội, thông qua các hoạt động hỗ trợ cụ thể, tạo các điều kiện cần và đủ cho đối tượng tạo lập cuộc sống bình thường trong cộng đồng và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau để chuẩn bị cho người phạm tội những điều kiện cần thiết và tâm lý, kỹ năng sống khi trở về với xã hội sau một thời gian bị cách ly [26, tr. 23- 25]. Tái hòa nhập xã hội bao gồm nhiều giai đoạn bắt đầu từ việc chuẩn bị cho người phạm tội bị cách ly khỏi xã hội những điều kiện cần thiết về nhận thức, tâm lý và một số kỹ năng nghề nghiệp ngay trong quá trình giáo dục, cải tạo tại nơi giam giữ và kết thúc khi họ được hỗ trợ các yếu tố cần thiết để tạo lập được một cuộc sống bình thường trong xã hội, do đó có thể phân chia quá trình tái hòa nhập xã hội theo thành nhiều giai đoạn như sau: giai đoạn thứ nhất là quá trình chuẩn bị tái hòa nhập của người phạm tội tại các cơ sở cải tạo, giam giữ. Ở giai đoạn này họ được giáo dục về văn hóa, pháp luật, giáo dục về đạo đức, tư tưởng cũng như rèn luyện ý thức lao động, đây là sự chuẩn bị cần thiết cho sự thích ứng nhanh chóng của đối tượng với môi trường bên ngoài cơ sở cải tạo, giam giữ; giai đoạn thứ hai là quá trình hòa nhập vào gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất mà đối tượng phải hòa nhập sau khi trở về với cuộc sống cộng đồng. Kết thúc quá trình này là người thân chấp nhận họ trở lại là một thành viên bình thường của gia đình, quan tâm đùm bọc họ; giai đoạn thứ ba là quá trình hòa nhập vào cộng đồng xã hội tại địa phương mà đối tượng trở lại sinh sống, đây là quá trình thích nghi và điều chỉnh hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật và các quy tắc đạo đức tại địa phương. Kết quả của quá trình này là sự ghi nhận của đoàn thể xã hội, của chính quyền địa phương, của những người xung quanh với những tiến bộ của họ; giai đoạn thứ tư là quá trình khẳng định vị trí của đối tượng tại cộng đồng, quá trình này thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong việc xây dựng một cuộc sống lương thiện, từng bước hoàn thiện nhân cách, nâng cao kiến thức văn hóa và năng lực, trách nhiệm trong lao động. Lúc này 19
  20. những đóng góp của họ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của cộng đồng [24, tr. 10]. Công tác tái hòa nhập xã hội là sự kết hợp tổng thể của nhiều biện pháp tư pháp, tâm lý, tư tưởng, hướng nghiệp, giáo dục văn hóa, pháp luật v.v…Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là vấn đề phức tạp đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng xã hội thông qua nhiều chính sách và mô hình cụ thể, đóng vai trò hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều kiện nâng cao năng lực thích nghi cho đối tượng và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Như vậy từ những phân tích nêu trên, theo tác giả có thể hiểu: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện trọn vẹn và có ý nghĩa một bản án hình sự; là một quá trình với nhiều giai đoạn khác nhau có nội dung bao gồm các biện pháp, cách thức và chương trình hòa nhập xã hội được thiết kế riêng biệt nhằm mục đích đưa người phạm tội trở về với xã hội trở thành những người có ích sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội với sự tham gia của chính bản thân người phạm tội và Nhà nước cũng như cộng đồng xã hội; thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời góp phần ổn định an ninh và phòng chống tội phạm. 1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội tại cơ sở giam giữ Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, theo đó tại Điều 3 của Bộ luật có quy định về nguyên tắc xử lý như sau: "Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt" [29]. Bên cạnh đó Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng đã nhấn mạnh mục đích của hình phạt như sau: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới" [29]. Theo quy định tại Điều 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về nhiệm vụ, quyền hạn, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2