intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

26
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tái thẩm trong tố tụng dân sự, từ đó, phân tích các điểm chưa hợp lý trong quy định của pháp luật và đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm hạn chế những vướng mắc trong thực tiễn tái thẩm, nâng cao hiệu quả tái thẩm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI HỒNG ANH TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI HỒNG ANH TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Khánh Hà nội - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Mai Hồng Anh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI THẨM 7 TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm tái thẩm dân sự 7 1.2. Đặc điểm của tái thẩm 9 1.3. Ý nghĩa của tái thẩm trong tố tụng dân sự 14 1.3.1. Ý nghĩa pháp lý của tái thẩm 14 1.3.2. Ý nghĩa chính trị của tái thẩm 15 1.3.3. Ý nghĩa xã hội của tái thẩm 16 1.4. Sự hình thành và phát triển của các quy định về tái thẩm 17 trong pháp luật Việt Nam 1.4.1. Sự hình thành và phát triển của tái thẩm trong Luật tổ chức 17 Tòa án nhân dân 1.4.2. Sự hình thành và phát triển của những quy định về tái thẩm 21 trong các văn bản quy phạm pháp luật khác 1.5. Tái thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự một số 27 nước trên thế giới 1.5.1. Liên bang Nga 28 1.5.2. Cộng hòa Pháp 29 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN 30 SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TÁI THẨM 2.1. Tính chất của tái thẩm 30 2.2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dân sự 31
  5. 2.2.1. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm 31 2.2.2. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm 41 2.2.3. Đối tượng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm 47 2.2.4. Thời hạn kháng nghị, thay đổi, bổ sung và rút kháng nghị 49 theo thủ tục tái thẩm 2.2.5. Hình thức kháng nghị và gửi quyết định kháng nghị 51 2.3. Xét xử tái thẩm 52 2.3.1. Thẩm quyền tái thẩm 52 2.3.2. Hội đồng tái thẩm 55 2.3.3. Những người tham gia phiên tòa tái thẩm 57 2.3.4. Chuẩn bị phiên tòa tái thẩm 59 2.3.5. Thủ tục tiến hành phiên tòa tái thẩm 60 2.3.6. Phạm vi xét xử tái thẩm 62 2.3.7. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm 63 2.3.8. Quyết định tái thẩm 65 Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ 67 NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 3.1. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng dân sự 67 Việt Nam về tái thẩm 3.1.1. Công tác giải quyết đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết 68 định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm 3.1.2. Công tác kháng nghị theo thủ tục tái thẩm 73 3.1.3. Thực tiễn hoạt động xét xử tái thẩm 82 3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tái thẩm trong tố tụng 84 dân sự Việt Nam 3.2.1. Một số kiến nghị về lập pháp 84 3.2.2. Một số kiến nghị về thực hiện chế định tái thẩm 92 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự HĐTP : Hội đồng thẩm phán TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một bản án được xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là mong muốn của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ được bảo vệ một cách kịp thời và đúng đắn. Tuy nhiên, trên thực tế có tình trạng một số bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực nhưng vẫn bị phát hiện là có thiếu sót hoặc sai lầm vì những nguyên nhân khác nhau. Khi đó, những bản án, quyết định kể trên cần phải được xem xét và sửa chữa theo một thủ tục đặc biệt do pháp luật tố tụng quy định. Việc xét lại bản án , quyết định đã có hiệu lực không chỉ là yêu cầu đặt ra của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn là sự thể hiện của nguyên tắc công bằng xã hội trong hoạt động xét xử, đảm bảo cho tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tuyệt đối không được trái pháp luật. Tái thẩm là một trong hai phương thức xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, được quy định thành một chương (chương 19) trong Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự năm 2004 và được sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo Luật số 65/2011/QH12, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Trong thời gian qua, thực tiễn áp dụng thủ tục tái thẩm dân sự đã gặp phải không ít những vướng mắc, bất cập. Tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của người dân đang tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án các cấp cũng gặp nhiều vấn đề phức tạp, quá tải; nhiều vụ án kéo dài nên chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và gây bức xúc trong dư luận. Nhiều quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục tái thẩm đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Ngày 25 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật tố tụng dân sự 1
  8. mới thay thế Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011), nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Thủ tục tái thẩm được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn hiện hành; đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm khắc phục khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên Bộ luật tố tụng dân sự mới vẫn chưa giải quyết được triệt để. Tuy thủ tục tái thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thêm một bước những vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục này chưa được làm rõ như: Căn cứ kháng nghị tái thẩm, địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng trong thủ tục tái thẩm, thời hạn kháng nghị tái thẩm, phạm vi xét xử tái thẩm, những vấn đề liên quan đến công tác nghiên cứu, giải quyết đơn khiếu nại của đương sự đề nghị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm... Vì vậy, vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam để từ đó có những đề xuất thiết thực, cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái thẩm và nâng cao hiệu quả công tác tái thẩm của Tòa án, Viện kiểm sát. Vì những lý do trên, học viên đã chọn đề tài "Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài “Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam”, hiện tại trong khoa học luật tố tụng dân sự chưa có một công trình nghiên cứu khoa học riêng biệt và chuyên sâu về vấn đề này. Tuy nhiên, có một số công trình nghiên cứu về “Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật”, “Thủ tục giám đốc thẩm dân sự” có nhiều nét tương đồng với đề tài, 2
  9. chúng ta có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học: "Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Ngô Anh Dũng, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; luận án tiến sĩ luật học: "Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam", của Đào Xuân Tiến, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009; luận án tiến sĩ luật học: "Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", của Mai Ngọc Dương, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; ... Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao: “Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” do Tiến sĩ Trần Văn Trung làm chủ nhiệm đề tài, 2003; đề tài khoa học cấp Bộ năm 2012 "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao" của TANDTC, do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm chủ nhiệm đề tài ... Một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong các sách, báo, tạp chí chuyên ngành như: "Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành", của Trần Anh Tuấn, Tạp chí Luật học, số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; "Bàn về Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn Điều 284B Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011", của Nguyễn Hồng Nam, Tạp chí TAND, tháng 5, 2012 (kỳ 2) và tháng 6, 2012 (kỳ 1); chuyên đề "Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao", của Trần Anh Tuấn, trong cuốn Bình luận khoa học BLTTDS sửa đổi năm 2011... Các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu một cách tổng thể về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật hoặc tập trung nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm mà chưa tập trung nghiên cứu thủ tục tái 3
  10. thẩm trong tố tụng dân sự. Cho đến nay, sau khi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành, nhất là khi Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tái thẩm trong tố tụng dân sự, từ đó, phân tích các điểm chưa hợp lý trong quy định của pháp luật và đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm hạn chế những vướng mắc trong thực tiễn tái thẩm, nâng cao hiệu quả tái thẩm. Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về tái thẩm trong tố tụng dân sự như: Khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa, quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về tái thẩm dân sự. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm. - Phản ánh thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm trong phạm vi từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) có hiệu lực đến trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (trước ngày 01/7/2016). - Tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong việc quy định và thi hành quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả tái thẩm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4
  11. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về tái thẩm trong tố tụng dân sự; pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm; thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tái thẩm ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sĩ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề sau: - Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và quá trình phát triển của các quy định về tái thẩm dân sự ở Việt Nam. - Đối với pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về tái thẩm được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), trong đó phân tích và so sánh những điểm tương đồng, những điểm khác biệt với giám đốc thẩm dân sự, đồng thời phân tích những điểm mới, những quy định được sửa đổi, bổ sung về tái thẩm dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. - Việc khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm chủ yếu thực hiện tại Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và trong những năm gần đây (trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử nói chung và xét xử các vụ án dân sự nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng các biện pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương 5
  12. pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn… để nghiên cứu vấn đề này. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện các vấn đề về tái thẩm trong tố tụng dân sự. Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tái thẩm dân sự; đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về tái thẩm. So sánh, phân tích, đánh giá những điểm mới, điểm sửa đổi, bổ sung về tái thẩm dân sự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Luận văn cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn công tác tái thẩm của ngành Toà án, Viện kiểm sát trong những năm qua, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tái thẩm. Đề xuất một số kiến nghị xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về tái thẩm, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về tái thẩm, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tái thẩm trong thực tiễn áp dụng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái thẩm trong tố tụng dân sự. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về tái thẩm. Chương 3: Thực tiễn thi hành và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm tái thẩm dân sự Theo pháp luật Việt Nam, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tiến hành theo hai loại thủ tục, đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thủ tục tái thẩm được quy định khá sớm và luôn được hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện tổ chức của các cơ quan tư pháp nói chung và Toà án nói riêng, phù hợp với trình độ quản lý của Nhà nước và ý thức pháp luật của người dân, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục tái thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Theo Từ điển Tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên và xuất bản năm 1992 có đưa ra khái niệm: “Tái thẩm là xét lại một bản án đã xử” [44]. Theo khái niệm này thì tái thẩm được hiểu như một hoạt động của chủ thể, đó là Toà án. Hoạt động này là hoạt động xét lại một bản án đã xử. Thủ tục phúc thẩm cũng là xét lại một bản án đã xử, và thủ tục giám đốc thẩm cũng là việc xét lại một bản án đã xử. Nên khái niệm như trên chưa giúp người đọc thấy được bản chất của thủ tục tái thẩm và nội hàm của khái niệm “thủ tục tái thẩm” trong tố tụng dân sự. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì: “Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó” [14, tr.102]. Với khái niệm này, đã thấy được căn cứ kháng nghị tái thẩm là những tình tiết mới phát hiện nhưng không đưa ra được quan điểm của tác 7
  14. giả về việc xác định thủ tục tái thẩm là một giai đoạn tố tụng hay một thủ tục tố tụng đặc biệt. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm: “Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà tòa án và các đương sự đã không biết được khi toà án giải quyết vụ án” [37, tr.352]. Với khái niệm này, thì đối tượng của việc xét lại theo thủ tục tái thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện được những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án nhưng lúc ra bản án, quyết định các đương sự và Toà án đã không thể biết. Do mới phát hiện được những tình tiết của vụ án mà trước đó các đương sự và Toà án đã không biết được nên làm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án trở nên không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, không đúng đắn. Điều 304 BLTTDS quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính là khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó” [22]. Khái niệm pháp lý này tiếp tục được BLTTDS năm 2015 kế thừa và quy định tại Điều 351 [25]. Như vậy, có thể hiểu: Tái thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự, theo đó Hội đồng tái thẩm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án, các đương sự đã không biết và không thể biết được khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định đó, nhằm đảm bảo sự thật 8
  15. của vụ án được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, để nhận diện đầy đủ bản chất của tái thẩm cần làm rõ đặc điểm của tái thẩm trong tố tụng dân sự. 1.2. Đặc điểm của tái thẩm Tái thẩm là thủ tục đặc biệt trong hoạt động tố tụng dân sự, tính chất đặc biệt này được hình thành bởi những đặc trưng riêng và thông qua đó có thể phân biệt được thủ tục này với các thủ tục tố tụng khác. Tái thẩm có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, đối tượng của tái thẩm là những bản án, quyết định dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trước hết, bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý được Tòa án có thẩm quyền tuyên xử hoặc quyết định theo một trình tự tố tụng do luật định về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc quan hệ pháp luật phát sinh từ một vụ án cụ thể. Bên cạnh đó, đối với một bản án, quyết định của Tòa án không phải lúc nào cũng có hiệu lực pháp luật ngay lập tức, tùy vào từng loại bản án, quyết định có thời hạn khác nhau theo luật định. Chẳng hạn, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự sẽ có hiệu lực pháp luật ngay hay bản án dân sự sơ thẩm nếu không có kháng cáo, kháng nghị thì sau 15 ngày kể từ ngày tuyên án sẽ có hiệu lực pháp luật . Với tái thẩ m chỉ đă ̣t ra vấ n đề kháng nghi ̣đố i với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được cho là không đúng với thực tế khách quan do mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà trước đó Toà án và các đương sự không thể biết được khi giải quyết vụ việc dân sự. Theo quy định của BLTTDS, các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật có thể trở thành đối tượng kháng nghị tái thẩm, bao gồm, bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc 9
  16. thẩm; quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Thứ hai, tái thẩm không xét xử lại vụ án mà là xem xét tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Như vậy, trước hết phải xem xét tình tiết được phát hiện có phải là tình tiết mới hay không. Tình tiết được coi là mới khi thỏa mãn các điều kiện sau: Tình tiết đó tồn tại trước khi Tòa án ra bản án, quyết định; được phát hiện sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và Tòa án không biết được tình tiết đó khi ra bản án, quyết định. Sau đó phải xem xét ý nghĩa của tình tiết mới đối với vụ án. Tình tiết mới phải có ý nghĩa làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án thì mới là căn cứ để có thể làm phát sinh tái thẩm. Thứ ba, việc xét lại bản án, quyết định phải dựa trên kháng nghị của người có thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, cơ sở làm phát sinh thủ tục tái thẩm chỉ có thể là kháng nghị của người có thẩm quyền. Tuy nhiên, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nét đặc thù trong pháp luật tố tụng dân sự. Vì vậy, đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở ưu tiên hàng đầu để Tòa án xem xét, kiểm tra lại bản án, quyết định. Không phải đơn đề nghị hoặc văn bản thông báo nào của đương sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng được kháng nghị và đưa ra để Hội đồng tái thẩm xem xét mà còn cần dựa trên các căn cứ kháng nghị theo quy định của pháp luật để người có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị trong thời hạn luật định. Như vậy, quyền đề nghị xem xét lại theo thủ tục tái thẩm của đương sự chỉ là cơ sở để người có thẩm quyền kháng nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải là căn cứ để Hội đồng tái thẩm xác định những tình tiết mới 10
  17. có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng tái thẩm chỉ xem xét lại bản án, quyết định đó tại phiên tòa tái thẩm trên cơ sở quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị. Thứ tư, phạm vi tái thẩm bị giới hạn bởi phạm vi của kháng nghị. Chỉ có phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị mới được đưa ra xem xét. Phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị chỉ bị xem xét lại nếu nó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án [22, Điều 296]. BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị cũng sẽ bị xem xét lại nếu nó xâm phạm đến lợi ích công cộng [25, Điều 342]. Thứ năm, phiên tòa tái thẩm không mở công khai. Về thành phần tham gia, chỉ đại diện VKS cùng cấp bắt buộc phải có mặt, những người tham gia tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị chỉ được tham gia phiên tòa tái thẩm trong trường hợp Tòa án "xét thấy cần thiết" [22, Điều 292] [25, Điều 338]. Từ những đặc điểm trên, nhận thấy tái thẩm có khá nhiều điểm tương đồng với thủ tục giám đốc thẩm, bên cạnh đó cũng có nhiều điểm khác biệt, cụ thể như sau: * Giống nhau: - Đối tượng kháng nghị: Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. 11
  18. - Chủ thể có quyền kháng nghị: chỉ có Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh (nay là Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao), Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. - Hậu quả khi bị kháng nghị: quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa làm mất hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định bị kháng nghị nếu người có thẩm quyền kháng nghị không ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án hoặc quyết định hoãn thi hành án. - Hiệu lực: Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có hiệu lực ngay khi Hội Đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định. Ngoài ra, tái thẩm và giám đốc thẩm vụ án dân sự còn giống nhau ở nội dung quyết định kháng nghị; thẩm quyền xét xử; Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa; trình tự, diễn biến phiên tòa; phạm vi xét xử; nội dung quyết định;... * Khác nhau: - Về tính chất: + Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. + Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó. - Về căn cứ kháng nghị: + Giám đốc thẩm: Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan trong vụ án. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. 12
  19. + Tái thẩm: phát hiện được tình tiết mới trong vụ án mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án, có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có sự giả mạo chứng cứ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật. - Về thời hạn kháng nghị: + Giám đốc thẩm: 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị, hoặc bản án, quyết định xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của đương sự, người thứ ba, Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm thì sẽ được kéo dài thêm 2 năm. + Tái thẩm: 1 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. - Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử: Nếu như hội đồng giám đốc thẩm có quyền huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc phúc thẩm lại thì hội đồng tái thẩm chỉ có thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật dể xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung. Như vậy, việc tách riêng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm như hiện nay là hợp lý vì như đã phân tích ở trên, hai thủ tục này khác nhau về tính chất, dẫn đến các quy định về cơ chế xử lý và hậu quả pháp lý là khác nhau. BLTTDS đã có những quy định khá rõ ràng, và chi tiết về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng pháp lý là một ngành khoa học đặc thù nên xung quanh những vấn đề mà luật đã quy định còn có nhiều ý kiến trái chiều. Những quan điểm khác nhau cũng như những luận điểm mà các nhà nghiên cứu đưa ra sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật TTDS về hai thủ tục này. 13
  20. 1.3. Ý nghĩa của tái thẩm trong tố tụng dân sự 1.3.1. Ý nghĩa pháp lý của tái thẩm Tái thẩm có ý nghĩa pháp lý đặc biệt trong tố tụng dân sự. Tái thẩm khắc phục sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, góp phần bảo đảm quyền con người, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự, góp phần bảo đảm sự tồn tại của nguyên tắc Nhà nước pháp quyền trong mỗi quốc gia. Tái thẩm ý nghĩa với hoạt động lập pháp. Khi tiến hành tái thẩm, Tòa án có điều kiện phát hiện những chỉ dẫn mới của các ngành khoa học khác có liên quan cũng như của khoa học pháp lý có thể sử dụng trong quá trình xác định sự kiện thực tế đã xảy ra trên thế giới khách quan trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Thứ nhất, tái thẩm dân sự bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa của công tác xét xử. Việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm giúp cho Tòa án khắc phục được những thiếu sót trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không phụ thuộc vào thời gian của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được thi hành từ bao giờ [37, tr.353]. Chính vì lẽ đó mà tái thẩm là cơ sở pháp lý để khẳng định tính đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; là cơ sở để hủy bỏ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án hoặc khôi phục lại trình tự tố tụng đối với vụ án nhằm xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án, giúp vụ án được giải quyết một cách đúng đắn, công bằng nhất. Thứ hai, tái thẩm còn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động lập pháp. Thông qua công tác tái thẩm, Tòa án phát hiện những bất hợp lý của 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2