intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:129

77
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống những quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, đồng thời tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới để có sự so sánh, đối chiếu về vấn đề này. Từ đó, phân tích, luận giải để đánh giá những điểm tích cực, những hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm, tìm kiếm giải pháp cho Việt Nam từ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHU THỊ HỒNG NHUNG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHU THỊ HỒNG NHUNG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học:TS. TRẦN ANH TUẤN Hà Nội – 2015 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn là chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2015 Tác giả luận văn Chu Thị Hồng Nhung 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viêt tắt MỞ ĐẦU 6 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC 14 THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ 14 án dân sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự 14 1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự 20 1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thủ tục 25 giám đốc thẩm dân sự 1.2.1. Việc xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự xuất 25 phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo vệ công lý 1.2.2. Việc xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự được 27 thực hiện trên cơ sở xác định bản chất của những sai lầm, vi phạm của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án dân sự 1.2.3. Cơ sở xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự xuất 29 phát từ nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, nguyên tắc giám đốc việc xét xử và quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm 1.3. Lược sử hình thành và phát triển các quy định về thủ tục giám 31 đốc thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam 1.3.1. Từ năm 1945 đến năm 1989 31 1.3.2. Từ năm 1989 đến năm 2004 37 1.3.3. Từ năm 2004 đến nay 38 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 43 HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 2.1. Quy định về quyền yêu cầu giám đốc thẩm và cơ chế thực hiện 43 2.1.1. Phát hiện sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định đã có hiệu 43 4
  5. lực pháp luật của Tòa án 2.1.2. Đề nghị giám đốc thẩm và thủ tục xét đơn 45 2.2. Quy định về kháng nghị giám đốc thẩm 47 2.2.1. Chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm 47 2.2.2. Đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm 48 2.2.3. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm 49 2.2.4. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm 57 2.2.5. Phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm 59 2.2.6. Trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm 60 2.3. Quy định về xét xử giám đốc thẩm 65 2.3.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm dân sự 65 2.3.2. Chuẩn bị mở phiên tòa giám đốc thẩm 67 2.3.3. Người tiến hành tố tụng và người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm 69 2.3.4. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm 75 2.3.5. Phạm vi giám đốc thẩm 77 2.3.6. Quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm 78 2.3.7. Quyết định giám đốc thẩm 82 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ KIẾN NGHỊ 84 NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 3.1. Thực tiễn thực hiện thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự 84 3.1.1. Về một số kết quả đạt được từ thực tiễn giám đốc thẩm vụ án 84 dân sự 3.1.2. Những tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục giám 86 đốc thẩm vụ án dân sự 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm vụ 103 án dân sự 3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục giám 103 đốc thẩm vụ án dân sự 3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án 117 dân sự KẾT LUẬN 122 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 124 5
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự HĐTPTANDTC : Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao LSĐBS : Luật sửa đổi, bổ sung PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao 6
  7. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc chủ đạo được ghi nhận tại Điều 17 BLTTDS Việt Nam năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (gọi tắt là BLTTDS sửa đổi năm 2011), theo đó hoạt động xét xử gồm hai cấp: cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Việc ghi nhận nguyên tắc này với mục đích nhằm hạn chế hoặc khắc phục những sai sót trong quá trình xét xử vụ án, đảm bảo cho hoạt động xét xử được đúng đắn, khách quan, toàn diện, cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, nhiều vụ án dù đã trải qua hai cấp xét xử nhưng vẫn có những sai lầm hoặc vi phạm pháp luật làm tổn hại tới quyền lợi hợp pháp của đương sự. Điều này có thể xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, bởi lẽ xét xử về bản chất là hoạt động xác định bản chất sự việc và áp dụng quy định pháp luật của cá nhân Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nhân danh Nhà nước để giải quyết vụ án, do đó vẫn có thể có những sai lầm, thiếu sót. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận một loại thủ tục đặc biệt - thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự nhằm sửa chữa, khắc phục những sai lầm, thiếu sót xảy ra trong hoạt động xét xử. Trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia đã có những quy định rất tiến bộ về thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành đã chứng minh hiệu quả của thủ tục tố tụng đặc biệt này. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong thực tiễn hiện nay, tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của người dân ngày một tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án các cấp cũng gặp nhiều vấn đề vướng mắc, phức tạp và quá tải, nhiều vụ án kéo dài nên chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, gây bức xúc trong dư luận. Sau 10 năm thi hành BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi năm 2011) cho thấy các quy định về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự của 6
  8. chúng ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội về việc giải quyết các vụ án dân sự. Chính những hạn chế, thiếu sót của các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã dẫn tới những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết và giảm hiệu quả công tác giám đốc thẩm vụ án dân sự của ngành Toà án. Như vậy, thực tế xã hội hiện nay đã đặt ra một nhu cầu cấp thiết, đòi hỏi các nhà lập pháp phải nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện các quy định chưa rõ ràng, chưa phù hợp về thủ tục giám đốc thẩm khiến công tác thực hiện trên thực tế còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập. Trong quá trình sửa đổi, chúng ta cũng cần học hỏi những kinh nghiệm quý báu của các nước có nền lập pháp tiên tiến để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Vì những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành” để thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là một đề tài được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Việc khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này được thể hiện dưới hình thức luận văn, luận án hoặc bài viết chuyên khảo. Có thể nêu ra đây một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: - Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời có một số công trình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm sau đây: + Cuốn sách về “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự”của tác giả Dương Thị Thanh Mai do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2000 ấn hành. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải quyết một số vấn đề về khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị. 7
  9. + Cuốn sách về “Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự” của Tiến sĩ Lê Thu Hà, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2003. Tác giả đã nghiên cứu tổng thể các cấp xét xử của Toà án các cấp bao gồm cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng nên tác giả chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, do công trình này được tiến hành trước năm 2004 nên chưa có điều kiện phân tích, luận giải về các quy định của BLTTDS sửa đổi năm 2011. + Bài viết “Thủ tục giám đốc thẩm trong dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Văn Minh trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03, tháng 03/2004 đã đóng góp ý kiến về việc có nên quy định đơn đề nghị và thời hạn gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự là bắt buộc hay không, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm như thế nào. Các công trình trên được thực hiện trước năm 2004 nên nhiều thực trạng, kiến nghị và giải pháp đưa ra đã được tiếp thu và chỉnh lý trong BLTTDS 2004 (sửa đổi năm 2011). Hơn nữa, với tình hình kinh tế - xã hội thay đổi nhanh chóng như hiện nay, những vấn đề mà các tác giả luận giải và đề xuấtđã không còn phù hợp nên cần được tiếp tục tập trung nghiên cứu thêm. - Sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như: + Luận án “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam” của tiến sĩ Đào Xuân Tiến, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2009. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự, phân tích pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự, thực trạng áp 8
  10. dụng của Toà án và một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án, quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án. + Luận án “Giám đốc thẩm dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tiến sĩ Mai Ngọc Dương, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2010. Luận án giải quyết một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành Toà án. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về phần quy định giám đốc thẩm. + Luận văn “Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự” của thạc sĩ Hà Hoàng Hiệp, Luận văn thạc sĩ năm 2007. Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của thủ tục giám đốc thẩm, trên cơ sở có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. + Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao” do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm chủ nhiệm đề tài của TANDTC năm 2012. Ngoài ra, còn có một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong các sách, báo, tạp chí chuyên ngành như bài “Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Luật học số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; bài “Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung Điều 285, Điều 288 BLTTDS” của tác giả Hà Tĩnh - Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 9 năm 2010; bài “Một số ý kiến đối với Dự thảo Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004” của tác giả Nguyễn Như Bích đăng trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 9 năm 2010; bài “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn Quang Hiền đăng trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 4 năm 2009.... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây được thực hiện trước khi Luật sửa đổi, bổ 9
  11. sung một số điều của BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành, do đó việc nghiên cứu về đề tài này vẫn rất cần thiết và hữu dụng. - Sau khi BLTTDS được sửa đổi năm 2011 cũng đã có công trình nghiên cứu về vấn đề này như Luận văn “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” của thạc sĩ Hà Thị Thúy Hà, luận văn thạc sĩ năm 2012, bài “Bàn về Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn Điều 284b Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011” của tác giả Nguyễn Hồng Nam đăng trên Tạp chí TAND tháng 5 năm 2012 (kỳ 2) và tháng 6 năm 2012 (kỳ 1); chuyên đề “Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC” của tác giả Trần Anh Tuấn trong cuốn Bình luận khoa học BLTTDS sửa đổi năm 2011... Tuy nhiên, thực tiễn giám đốc thẩm dân sự trong những năm qua và thực tiễn sửa đổi BLTTDS sửa đổi hiện nay (2015) theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu và đề xuất giải pháp cho phù hợp với tình hình mới. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống những quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, đồng thời tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới để có sự so sánh, đối chiếu về vấn đề này. Từ đó, phân tích, luận giải để đánh giá những điểm tích cực, những hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm, tìm kiếm giải pháp cho Việt Nam từ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế. Ngoài ra, Luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm dân sự tại Tòa án nhằm làm rõ những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề này, luận giải và tìm kiếm giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm dân sự từ góc độ thực tiễn. 10
  12. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Để giải quyết vấn đề đặt ra, luận văn nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới về thủ tục giám đốc thẩm. Việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm chủ yếu tập trung vào các quy định hiện hành, còn việc nghiên cứu lược sử pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm dân sự cũng chỉ được giới hạn đối với những quy định từ năm 1945 đến nay. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu, đánh giá thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự tại Tòa án. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào thực tiễn giám đốc thẩm dân sự trong khoảng thời gian 05 năm gần đây, cụ thể là từ năm 2010 đến năm 2014. 5. Nội dung nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể sau: - Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự trong tố tụng dân sự. - Tập trung nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự của một số nước cụ thể trên thế giới về vấn đề này. Bên cạnh đó, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. Từ đó, so sánh, đối chiếu nhằm tìm ra những điểm tiến bộ, tích cực trong pháp luật nước ngoài mà Việt Nam cần học tập trong quá trình hoàn thiện các quy định về thủ tục giám đốc thẩm tại Việt Nam. - Đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề đang nghiên cứu, những mặt hạn chế, tồn tại của quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giám đốc thẩm vụ án dân sự. Đồng thời tìm ra và phân tích nguyên nhân của những thực trạng, bất cập nêu trên. 11
  13. - Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, Luận vănđưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội nhằm hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học Mác- Lênin về Nhà nước pháp quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra các phương pháp nghiên cứu khoa học khác cũng được sử dụng như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp lịch sử. 7. Những đóng góp của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất, các vấn đề lý luận cơ bản của thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, trong đó có những vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, lịch sử hình thành và phát triển. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra những phân tích và đánh giá về thực trạng các quy định pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm phù hợp với tình hình kinh tế xã hội Việt Nam. Luận văn cũng đánh giá được thực trạng áp dụng thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự trong những năm qua, làm rõ được những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thủ tục tố tụng này trong pháp luật Việt Nam. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Khái quát về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. 12
  14. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự và kiến nghị. 13
  15. CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự Ở Việt Nam hiện nay, việc xét xử các vụ án dân sự được tiến hành theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Điều này được hiểu là một vụ án dân sự có thể được xét xử qua cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Khi vụ án được xét xử sơ thẩm, bản án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, trong thời hạn luật định nếu thấy bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với thực tế khách quan hoặc đúng pháp luật thì, các đương sự có quyền kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Việc ghi nhận nguyên tắc này nhằm mục đích đảm bảo tính đúng đắn và tuân theo pháp luật của hoạt động xét xử, qua đó bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, hết thời hạn luật định, nếu bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm thì đương nhiên có hiệu lực pháp luật, trong khi đó khác với cấp sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có tính chất chung thẩm và được thi hành ngay. Từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án trong nhiều năm đã chứng minh một thực tế rằng nhiều vụ án, kể cả những vụ đã qua hai cấp xét xử và bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn phát hiện có những sai lầm trong quá trình giải quyết làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng một cơ chế để kiểm tra, giám đốc việc xét xử của Tòa án nhằm khắc phục tình trạng nói trên. Thủ tục giám đốc thẩm dân sự là một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự do Tòa án có thẩm quyền thực hiện để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp 14
  16. luật bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Giám đốc thẩm dân sự không phải là một cấp xét xử thứ ba và khác biệt với tái thẩm dân sự ở căn cứ kháng nghị. Theo đó, kháng nghị giám đốc thẩm được tiến hành trên cơ sở phát hiện những sai lầm, vi phạm của Tòa án, trong khi đó kháng nghị tái thẩm được dựa trên việc phát hiện những tình tiết làm thay đổi về cơ bản nội dung vụ án. Đến thời điểm hiện tại, do cách tiếp cận khác nhau nên cũng có nhiều quan điểm khác nhau về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. Có thể nêu ra đây một số quan điểm tiêu biểu như sau: Quan điểm thứ nhất: Dựa vào đối tượng, căn cứ của việc xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm như sau: “Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án” [36, tr.325]. Quan điểm này về cơ bản đã thể hiện được tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, nhưng chưa xác định rõ giám đốc thẩm là một loại thủ tục tố tụng đặc biệt, mà không phải là một cấp xét xử thứ ba. Quan điểm thứ hai: Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra khái niệm như sau: “Giám đốc thẩm dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự.” [37, tr.303] Quan điểm này về cơ bản đã làm rõ được tính chất, đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ “Tòa án” trong khái niệm này dễ gây nhầm lẫn, người đọc không thể xác định Tòa án có thẩm quyền và Tòa án ra bản án, quyết định bị kháng nghị là một hay là hai Tòa án cấp khác nhau. 15
  17. Quan điểm thứ ba: Căn cứ vào mục đích của việc xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, trong Luận án tiến sĩ của mình về “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam”, tác giả Đào Xuân Tiến đã cho rằng: “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là thủ tục đặc biệt nhằm kiểm tra, xem xét, xác định bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được xét xử đúng pháp luật và xét xử lại đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi nội dung hoặc kết quả giải quyết vụ án” [34, tr.20]. Với quan điểm này, tác giả Đào Xuân Tiến đã khẳng định thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (trong đó bao gồm thủ tục giám đốc thẩm) là loại thủ tục tố tụng đặc biệt, qua đó đã gián tiếp phân biệt với thủ tục xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự. Tòa án có thẩm quyền tiến hành thủ tục đặc biệt này nhằm hai mục đích: thứ nhất là để kiểm tra, xem xét tính đúng đắn của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; thứ hai là để xét xử lại đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi nội dung, kết quả giải quyết vụ án. Như vậy, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nói chung và thủ tục giám đốc thẩm nói riêng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, trong đó bao gồm cả hoạt động giám đốc việc xét xử. Tuy nhiên, khái niệm trên lại không đề cập đến căn cứ để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là phải dựa trên kháng nghị của người có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Quan điểm thứ tư: Dựa vào mục đích, căn cứ và đối tượng của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tiến sĩ Khuất Văn Nga với bài viết “Thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng dân sự” đã đưa ra khái niệm như sau: “Thủ tục giám đốc thẩm là một 16
  18. trình tự đặc biệt của tố tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”[16]. Theo quan điểm này, giám đốc thẩm cũng được khẳng định là một trình tự tố tụng đặc biệt, được tiến hành dựa trên sự kháng nghị của những người có thẩm quyền nhằm mục đích xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, khái niệm này đã chi tiết hơn khi đưa ra căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm là các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Từ những phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự như sau: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là một trình tự tố tụng đặc biệt được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền nhằm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Nhìn chung, các quan điểm về thủ tục giám đốc thẩm nêu trên tuy khác nhau về cách thức tiếp cận nhưng vẫn thể hiện được những đặc điểm, tính chất cơ bản của loại thủ tục tố tụng đặc biệt này như sau: - Thứ nhất, về tính chất thì thủ tục giám đốc thẩm dân sự là một loại thủ tục tố tụng đặc biệt, chứ không phải là cấp xét xử thứ ba. Theo quy định của pháp luật, mọi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều phải được các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành đó. Tuy nhiên, nếu bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực nhưng vẫn không đảm bảo đầy đủ tính có căn cứ và hợp pháp thì bản án, quyết định đó cần phải được xét lại theo thủ tục đặc biệt. Giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử 17
  19. như xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm, mà thực chất nó là một trong số những hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Nội dung của nó là việc Tòa án kiểm tra lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật thông qua hoạt động “xét” chứ không “xử”. Sự khác biệt này thể hiện rõ nét nhất qua các quy định về phiên tòa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự và phiên xét lại vụ án dân sự theo trình tự giám đốc thẩm, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và Hội đồng giám đốc thẩm... Tòa án sau khi tiến hành thủ tục giám đốc thẩm sẽ ban hành một trong các quyết định sau: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại; hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án. Các quyết định giám đốc thẩm của Tòa án rõ ràng không giống với các bản án, quyết định sơ thẩm hay phúc thẩm, bởi lẽ nó không giải quyết đến quyền, lợi ích của các đương sự hoặc làm thay đổi nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. - Thứ hai, đối tượng của giám đốc thẩm là những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Đối tượng của giám đốc thẩm dân sự là những bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án bao gồm những bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; bản án, quyết định phúc thẩm và các quyết định theo thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. “Đây là điểm hoàn toàn khác biệt với việc giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, đối tượng xét xử theo thủ tục phúc thẩm là vụ án dân sự mà bản án, quyết định 18
  20. chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị” [16, tr.14]. Một bản án, quyết định sơ thẩm khi chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của người có thẩm quyền thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ tiến hành xét xử lại vụ án dựa trên nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Đây là đặc điểm phân biệt với giám đốc thẩm vụ án hình sự. Trong khi giám đốc thẩm vụ án hình sự tiến hành xét lại những bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật thì thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự lại tiến hành xét lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Sự khác biệt này xuất phát từ quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ pháp luật có tính chất khác nhau nên đối tượng của giám đốc thẩm dân sự và giám đốc thẩm hình sự cũng có những điểm khác biệt nhất định. - Thứ ba, thủ tục giám đốc thẩm dân sự chỉ được tiến hành khi có kháng nghị của người có thẩm quyền. Do giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử, không bắt buộc tiến hành công khai như phiên tòa sơ thẩm hay phiên tòa phúc thẩm, và là một hoạt động kiểm tra mang tính chất nghiệp vụ nên pháp luật tố tụng dân sự đã giới hạn việc xem xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp có kháng nghị của người có thẩm quyền được pháp luật quy định. Đây là điểm khác biệt căn bản với thủ tục phúc thẩm dân sự, theo đó việc xét xử lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm có thể trên cơ sở kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát. - Thứ tư, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự chỉ được kháng nghị trong trường hợp phát hiện có sai lầm hay vi phạm đã được pháp luật quy định trước. Đây là đặc điểm phân biệt với thủ tục phúc thẩm, theo đó pháp luật quy định đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2