intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương hướng để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát hoạt động điều các tra vụ án gây rối TTCC nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội gây rối TTCC, pháp luật tố tụng hình sự trong THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ph¹m thÞ thóy thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra vô ¸n g©y rèi trËt tù c«ng céng trªn ®Þa bµn tØnh h­ng yªn luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2015 1
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ph¹m thÞ thóy thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra vô ¸n g©y rèi trËt tù c«ng céng trªn ®Þa bµn tØnh h­ng yªn Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù vµ tè tông h×nh sù M· sè : 60 38 01 04 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn V¨n Tu©n Hµ néi - 2015 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN 7 CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công 7 tố và kiểm sát điều tra 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố 7 1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra 16 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 18 1.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát 21 điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng 1.2.1. Tội gây rối trật tự công cộng 21 1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án 25 gây rối trật tự công cộng 1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai 26 đoạn điều tra vụ án hình sự 1.3.1. Quan hệ phối hợp 26 1.3.2. Quan hệ chế ước 27 1.4. Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công 29 tố và kiểm sát điều tra ở Việt Nam 3
  4. Chương 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG 33 THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ÐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN 2.1. Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm 33 sát điều tra 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các 40 vụ án gây rối trật tự công cộng 2.2.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn 41 khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội gây rối trật tự công cộng 2.2.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, 64 hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 2.2.3. Một số hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều 76 tra vụ án gây rối trật tự công cộng khác 2.4. Những tồn tại hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công 84 tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 2.4.1. Những tồn tại, hạn chế 84 2.4.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 84 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP 91 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công 91 tố và kiểm sát điều tra 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành 94 quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng 3.2.1. Tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động 94 điều tra 4
  5. 3.2.2. Nâng cao kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 97 3.2.3. Nâng cao chất lượng tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành của 110 Viện trưởng Viện kiểm sát 3.2.4. Đổi mới phương thức đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán 102 bộ làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra KẾT LUẬN 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 5
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra KSĐT : Kiểm sát điều tra THQCT : Thực hành quyền công tố TTCC : Trật tự công cộng VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao 6
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tình hình giải quyết án gây rối TTCC 43 2.2 Tình hình bắt, giữ trong vụ án gây rối TTCC 65 2.3 Tình hình áp dụng và giải quyết biện pháp tạm giam ở 66 giai đoạn điều tra vụ án gây rối TTCC DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Tỷ lệ các loại tố giác, tin báo về tội gây rối TTCC 44 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (TTCC) nói riêng và đặc biệt là tội gây rối TTCC đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này có tính nguy hiểm không cao so với các loại tội phạm khác nhưng nó có tính phổ biến, đa dạng và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi gây rối TTCC xâm phạm các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, hành vi này được thực hiện công khai và thường ở những nơi đông người, biểu hiện ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước. Hình thức biểu hiện của hành vi gây rối thường là: Hành hung, đánh lộn, đập phá, gây lộn xộn ở nơi đông người, tụ tập đi xe máy tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, gây huyên náo đường phố... và ngày càng có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là các hành vi hủy hoại tài sản, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, thậm chí là giết người... Nằm trong xu thế chung của cả nước, Hưng Yên một tỉnh cũng đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ngày càng nhiều trong khi chưa có sự cơ cấu hợp lý về việc làm và giá bồi thường đất dẫn đến tình trạng bất ổn trong một bộ phận nhân dân. Trường hợp người dân tụ tập với số lượng đông biểu tình, cản trở, gây sức ép và phản đối các công trình đầu tư thi công, tụ tập trước các trụ sở cơ quan nhà nước, cản trở giao thông, gây mất TTCC ngày càng nhiều nhưng con số xử lý thì quá ít và dường như còn khá ngại va chạm. Với chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát (VKS) phải là đơn vị đi đầu, định hướng quan trọng trong việc điều tra xác định tội danh gây rối TTCC. Góp phần củng cố tình hình an ninh địa phương, trật tự an toàn xã hội, không để bỏ lọt 8
  9. tội phạm hay làm oan người vô tội. Do đó, hơn lúc nào hết vấn đề THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra vụ án gây rối TTCC trở lên cấp thiết. Trong xu hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay thì những vấn đề gì đặt ra khi THQCT và kiểm sát điều tra (KSĐT) nói chung, cũng như đối với vụ án gây rối TTCC nói riêng cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong xu hướng cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Thực hành quyền công tố và KSĐT là chủ đề đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới góc độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó phải kể đến một số công trình điển hình như sau: - Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Hà Nội. - Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Trịnh Duy Tám (2005), áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. - Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. 9
  10. - Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động thực THQCT và KSĐT cụ thể đối với vụ án gây rối TTCC. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" là một đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài - Mục đích của đề tài Luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương hướng để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát hoạt động điều các tra vụ án gây rối TTCC nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội gây rối TTCC, pháp luật tố tụng hình sự trong THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra. - Nhiệm vụ của đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: + Phân tích cơ sở lý luận về THQCT và KSĐT. + Phân tích thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, những khó khăn, vướng mắc gặp phải, nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. + Đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về THQCT và KSĐT. + Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT nói chung, chất lượng THQCT và KSĐT đối với vụ án gây rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về THQCT và KSĐT các vụ án hình sự và hoạt động THQCT 10
  11. và KSĐT các vụ án gây rối TTCC của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Hưng Yên. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Đánh giá những tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC. Đưa những vấn đề cần làm sáng tỏ trong khi THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án gây rối TTCC trong 05 năm (2010 - 2014). 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 11
  12. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và hình sự để làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự thông qua hoạt động THQCT và KSĐT của VKS. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Phản ánh được thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC; - Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC thường gặp phải; - Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC; - Đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật hình sự liên quan đến THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 7. Ý nghĩa của luận văn - Ý nghĩa khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về hoạt động THQCT và KSĐT. Đồng thời còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập tại các trường đào tạo luật và Trường Đại học Kiểm sát. 12
  13. - Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm góp phần giúp VKSND tỉnh Hưng Yên cũng như VKSND các địa phương trong cả nước nâng cao được chất lượng THQCT và KSĐT đối với các vụ án gây rối TTCC. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Chương 2: Pháp luật thực định và thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến năm 2014. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng. 13
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 1.1. khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố * Quyền công tố Tại Việt Nam, thuật ngữ "quyền công tố" với tư cách là quyền năng của VKS lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, sau đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, BLTTHS năm 2003, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật tổ chức VKSND năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên 2011... Ngày nay, thuật ngữ này đã trở lên phổ biến hơn. Tuy nhiên, trong khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung, vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND để xem xét quyền công tố. Theo đó, "tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố" [15, tr. 85]. Có nghĩa là ngay cả khi VKS kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động THQCT. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Quan điểm thứ hai: "Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này được giao cho Viện kiểm sát nhân dân" [15, tr. 19]. Quan điểm này cho rằng 14
  15. quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành luật nó đã lan sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này, quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Quan điểm này quá mở rộng dẫn đến xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác. Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh nhà nước thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa, tức là chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử. Ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân [53, tr. 1-60]. Theo quan điểm này việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử. Theo tôi, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố; không những vậy, nó còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố, còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT bởi vì truy tố và buộc tội trước Tòa chỉ là một trong số các quyền năng cụ thể của hoạt động THQCT tại giai đoạn xét xử. Quan điểm thứ tư: "Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội" [53, tr. 10]. Quan điểm này cho rằng quyền công tố chỉ xuất hiện trong lĩnh vực hình sự và chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (CQĐT, Tòa án, Thi hành án) và như vậy quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên 15
  16. tắc truy cứu trách nhiệm hình sự rằng tội phạm phải bị truy cứu và bị trừng trị, đã nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử …). Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [39, tr. 40]. Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất VKS, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được. Như vậy có thể thấy, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố… Tác giả Lê Hữu Thể đã viết: Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể, quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ đó cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời việc nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất đó (đó là tội phạm) tức lĩnh vực tố tụng hình sự [39, tr. 37]. 16
  17. - Tháng 7/1967, đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đưa ra kết luận rất quan trọng về quyền công tố và trách nhiệm của ngành kiểm sát: Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ nhà nước nào. Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân phải trông nom, đảm bảo tốt. - Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [9, tr. 2]. - Tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729 ngày 14/3/2002) về dự án Luật Tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tòa" [44, tr. 4]. - Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân, quán triệt những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng VKSND tối cao đã khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử". - Hiến pháp 2013 (Điều 107) và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp" [37, tr. 39]. Từ những dẫn chứng trên, tôi bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ Lê Hữu Thể, cũng chính là quan điểm thứ 5 đã nêu trên: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công 17
  18. tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa [39, tr 40]. * Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra Thời gian qua, vấn đề THQCT, phạm vi và nội dung của nó, mối quan hệ giữa chức năng THQCT với thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự còn ít được đề cập và chưa được rõ ràng. Một số chuyên đề về nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp do VKSND tối cao tổ chức cũng chỉ đua ra một số biện pháp pháp lý, kiến nghị để nâng cao hiệu quả các công tác thực hiện chức năng như: KSĐT, kiểm sát xét xử, THQCT. Trong nội dung nghiên cứu của các chuyên đề này chưa phân biệt rành mạch hành vi tố tụng nào là THQCT, hành vi tố tụng nào là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Cho đến nay, nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn của các cơ quan tư pháp còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT, giữa thẩm quyền của VKS và các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó. Vì vậy, nhiều người đã gặp vướng mắc và không lý giải được vấn đề khi một số cơ quan khác cũng khởi tố vụ án thì các cơ quan này có phải cũng THQCT hay không? Từ Hiến pháp năm 1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tổ chức VKSND năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT. Tuy vậy, việc phát động quyền công tố thì không chỉ có VKS và còn có cả CQĐT, Tòa án cũng có quyền. Nhưng các quyết định khởi tố của các cơ quan đó chỉ thực sự có ý nghĩa phát động công tố quyền sau khi được VKS xem xét; nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt, 18
  19. nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét, nếu có vi phạm pháp luật thì VKS sẽ kháng nghị. Như vậy, về mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT chỉ có quyền đề nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, còn việc quyết định là do VKS; CQĐT có quyền độc lập thu thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần xử lý người đó trước Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS nước ta đã quy định thẩm quyền công tố của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là "được áp dụng các biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội" (Điều 23 BLTTHS). Từ những nội dung trên, tôi đồng ý với quan điểm: "Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [19, tr. 40]. Phạm vi quyền công tố Trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay, VKS thực hiện quyền công tố ở các giai đoạn tố tụng, bởi vì khi có việc tiến hành tố tụng thì bao giờ cũng gắn liền với việc buộc tội. Do đó, không thể quan niệm việc THQCT chỉ ở giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, VKS cũng có thể bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS cấp dưới khi bị cáo kháng cáo kêu oan, bảo vệ kháng nghị của VKS theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Về nguyên tắc, khi có tội phạm xảy ra là xuất hiện quyền công tố, luật tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiển rõ nguyên tắc này là: Mục đích của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi tội phạm xảy ra đều được phát hiện và khởi tố nên số vụ án được khởi tố điều tra bao giờ 19
  20. cũng nhỏ hơn số vụ phạm tội xảy ra. Dưới góc độ tội phạm học những vụ phạm tội chưa được phát hiện là phần tội phạm ẩn chưa có trong thống kê hình sự. Theo đó, giữa phạm vi quyền công tố và phạm vi THQCT có thể được do bằng tình trạng tội phạm ẩn đang cần được phát hiện, xử lý. Do vậy, nếu quan niệm phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự là thu hẹp phạm vi quyền này và nhầm lẫn khởi tố vốn là một biện pháp THQCT với quyền công tố. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Những căn cứ dẫn đến triệt tiêu quyền công tố và theo đó chấm dứt việc THQCT là: Không có sự kiện phạm tội; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người phạm tội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; miễn trách nhiệm hình sự; hiệu lực của Bộ luật hình sự (BLHS) về mặt thời gian. Từ đó có thể kết luận rằng: Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ khi có một trong những căn cứ do luật tố tụng hình sự qui định. Nội dung thực hành quyền công tố Nhiều người cũng tán thành với quan điểm rằng THQCT, đó là những biện pháp do luật định mà VKS sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội... Thế nhưng trong lý luận và thực tiễn hiện nay vẫn chưa có một công trình nào nêu rõ được nội dung THQCT bao gồm những quyền năng pháp lý cụ thể nào. Điều này dẫn tới tình trạng nhầm lẫn giữa chức năng THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Từ kết quả 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2