intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

25
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là làm rõ được thực tiễn của công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình bằng việc nghiên cứu, phân tích những vụ việc cụ thể, đánh giá được những vướng mắc khó khăn hiện nay, tìm ra được nguyên nhân của những vướng mắc. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng án tồn đọng, đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được đưa ra thi hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ LÝ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH THÁI BÌNH luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
  2. KHOA LUẬT ĐỖ THỊ LÝ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH THÁI BÌNH Chuyên ngành : Luật Dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ngọc Thỉnh Hµ néi - 2010
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự 8 1.1.1. Khái niệm chung về thi hành án 8 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự 10 1.1.3. Ý nghĩa 14 1.2. Những quy định cơ bản về thi hành án dân sự trong pháp 16 luật hiện hành 1.2.1. Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án 16 1.2.2. Những quy định cơ bản về thủ tục thi hành án 17 1.2.3. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án 26 1.2.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án 28 1.3. Một số nét khái quát về thi hành án dân sự ở Việt Nam 32 1.3.1. Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1993 32 1.3.2. Thời kỳ 1993-2004 và hiện nay 34 1.3.2.1. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 34 1993 đến trước khi có Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 1.3.2.2. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 35 2004 đến nay 1.4. Pháp luật về thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới 38
  4. 1.4.1. Tổ chức bộ máy và quy chế chấp hành viên thi hành án 38 1.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án, chấp hành viên 40 1.4.3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình thi hành án 41 1.4.4. Về thời hiệu thi hành án 42 1.4.5. Về thủ tục và biện pháp cưỡng chế thi hành án 42 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH THÁI BÌNH 45 2.1. Về đặc điểm tự nhiên - xã hội và một số nét khái quát về 45 công tác tư pháp ở Thái Bình 2.1.1. Về đặc điểm tự nhiên - xã hội 45 2.1.2. Về một số nét khái quát của công tác tư pháp ở Thái Bình 47 2.2. Về tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự ở Thái Bình 49 2.3. Cơ chế thực hiện 52 2.3.1. Trường hợp thỏa thuận thi hành án 52 2.3.2. Trường hợp thi hành án theo yêu cầu 53 2.4. Một số vụ điển hình và nguyên nhân của những vướng mắc 56 đặt ra 2.4.1. Một số vụ điển hình 56 2.4.2. Nguyên nhân của những vướng mắc 71 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÁO GỠ ÁN TỒN ĐỌNG 76 TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THÁI BÌNH 3.1. Tính đòi hỏi khách quan của những giải pháp 76 3.2. Một số giải pháp cụ thể 78 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thi hành án là giai đoạn tiếp nối cuối cùng của quá trình tố tụng, nếu những phán quyết của Tòa án không được đưa ra thi hành thì các giai đoạn trước đó của quá trình tố tụng không có ý nghĩa trên thực tế. Thi hành án đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động thi hành án hiệu quả thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, của bản án và quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, có thể nói vị trí, vai trò của công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa thực sự được quan tâm đầy đủ, dẫn đến hiệu quả hoạt động của các Cơ quan thi hành án dân sự chưa cao, án dân sự còn tồn đọng nhiều, đòi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ những ách tắc trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong những năm qua, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định, nhưng hiệu quả của công tác thi hành án vẫn còn là vấn đề phải bàn luận. Trong thi hành án dân sự, số án tồn đọng chưa thi hành gia tăng qua các năm mà chưa tìm ra phương án giải quyết hữu hiệu nhất. Theo thống kê, năm 2009, các cơ quan thi hành án dân sự thụ lý 662.961 việc, đã thi hành xong 354.490 việc, đạt 81,05% số việc có điều kiện thi hành; đã thi hành xong 6.621,7 tỷ về tiền, đạt 70,5% số việc có điều kiện thi hành. Mặc dù số việc và tiền thi hành xong vượt chỉ tiêu đề ra nhưng số lượng việc tồn đọng vẫn nhiều, trong số 270.925 việc còn phải thi hành thì có hơn 188 ngàn chưa có điều kiện, với tổng số tiền phải thi hành là 17.199 tỷ 843 triệu đồng (trong số trên 188 ngàn việc chưa có điều kiện thi hành án, có hơn 89 ngàn việc người phải thi hành án ốm nặng, chưa xác định được nơi cư trú; người phải thi hành án không có tài sản, các việc Tòa án, Viện kiểm sát yêu 1
  6. cầu hoãn. Ngoài ra, án tồn đọng vì những nguyên nhân khác như đình chỉ vì có kháng nghị; tuyên không rõ ràng, không phù hợp với thực tế, tài sản kê biên chưa xử lý được hoặc có khiếu nại tổng số 98 ngàn 754 việc) [40]. Theo Bộ Tư pháp, còn có khoảng gần 30% vụ việc thi hành án tồn đọng là do người phải thi hành án không có điều kiện thi hành. Hầu hết trong số đó là những trường hợp người phải thi hành án bị tuyên phạt tù nhiều năm, tù chung thân, hoặc không có tài sản để thi hành án. Nhiều vụ việc có giá trị thi hành án nhỏ, nhưng nếu tính chi phí thực tế mà cơ quan thi hành án phải bỏ ra để tổ chức thi hành án còn lớn hơn nhiều lần giá trị phải thi hành. Xét về mặt nhận thức, nhiều tổ chức cá nhân trong xã hội và ngay cả các cấp chính quyền cũng thường coi tổ chức thi hành án dân sự là việc riêng của hệ thống cơ quan thi hành án thuộc Bộ Tư pháp, thậm chí, một số ủy ban nhân dân là đối tượng bị thi hành án còn không tự giác thi hành hoặc cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tồn đọng ngày càng nhiều, dẫn đến hiệu quả của công tác thi hành án chưa cao. Riêng đối với tỉnh Thái Bình, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án Dân sự, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, cấp ủy và chính quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ, công chức trong ngành, công tác thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kết quả thi hành án từ ngày 01/10/2009 đến ngày 30/9/2010 [22] như sau: Tổng số việc thụ lý 5.882 việc trong đó ủy thác 79 việc, tổng số việc phải thi hành là 5.803 việc, giảm 360 việc so với năm 2009 (trong đó số thụ lý mới 2683 việc, giảm 33 việc so với năm 2009), bao gồm: + 3.320 việc có điều kiện thi hành (57%) + 2.483 việc chưa có điều kiện thi hành (43%) 2
  7. Trong đó việc có điều kiện thi hành, đã thi hành xong 3.040 việc /3.320 việc, đạt 90% vượt 4% so với chỉ tiêu đặt ra, giảm 264 việc = 10% so với cùng kỳ năm 2009. Số việc giải quyết xong (ủy thác + xong + đình chỉ + miễn giảm + trả đơn) là 3.286 việc/5.882 đạt 55%. Tổng số tiền và giá trị hiện vật thụ lý là 60.141.190.000đ, ủy thác 842.319.000đ còn tổng số tiền và giá trị hiện vật phải thu là: 59.298.871.000đ. Trong đó: số có điều kiện thu 14.679.331.000đ (30%), số chưa có điều kiện thu 37.632.927.000đ (70%) Tổng số tiền và giá trị hiện vật đã thu được 12.006.576.000đ, đạt (82%) số tiền có điều kiện thu vượt 18% so với chỉ tiêu và giảm so với cùng kỳ năm 2009 là 2.404.429.000đ = 20% Mặc dù các kết quả thi hành án dân sự của Thái Bình cả về việc và tiền đều đạt và vượt so với chỉ tiêu do Bộ Tư pháp đặt ra nhưng lượng án tồn đọng vẫn còn nhiều, án xếp vào diện không có điều kiện thi hành chiếm tỉ lệ lớn (43%), có những vụ kéo dài hàng chục năm, nhiều cơ quan đã tham gia, nhiều cuộc họp được tổ chức song đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm, đương sự liên tục đến yêu cầu và gửi đơn đi rất nhiều nơi. Tính đến năm 2010 số lượng án tồn đọng của Thái Bình vẫn còn khá lớn cụ thể: + Số việc có thời gian trên 10 năm là 405 việc với số tiền là 4.743.590.000đ + Số việc có thời gian từ 5 năm đến dưới 10 năm là 928 việc với số tiền là 11.553.436.000đ. + Số việc có thời gian dưới 5 năm là 1.894 việc với số tiền là 31.909.230.000đ. + Kết quả đã giải quyết xong bằng hình thức xét miễn giảm 366 việc với số tiền 215.589.000đ. + Trong đó đã phối hợp với các trại giam trong đợt đặc xá năm 2010 được 43 việc với số tiền 220.058.000đ 3
  8. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình còn đang gặp rất nhiều khó khăn, bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau như: cơ chế chính sách về thủ tục thi hành án chưa hoàn thiện; chế tài đối với người chây ỳ không chấp hành án còn nhẹ; công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng thiếu chặt chẽ; đội ngũ chấp hành viên ít về số lượng, trình độ không đồng đều, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm còn hạn chế, chưa tích cực tổ chức thi hành án, không kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế... Từ những lý do trên khẳng định cho việc lựa chọn đề tài "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình" cho luận văn tốt nghiệp của tác giả sẽ góp phần đánh giá được thực trạng và những hạn chế, bất cập trong công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình để từ đó tìm ra được nguyên nhân, đưa ra được những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Thi hành án là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thi hành án dân sự: Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Văn Quảng (1996): Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Công Long (2000): Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện; Luận văn thạc sĩ của Lê Xuân Hồng (2001): Xã hội hóa thi hành án dân sự; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Thủy (2001): Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự. Ngoài ra còn có nhiều công trình, nhiều bài báo đề cập đến các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự như: Thực tiễn thi hành án dân sự: vẫn nhiều án tồn đọng của tác giả Nhật Anh - Báo Người đại biểu nhân dân số ra ngày 16/01/2010; Những bất cập trong thực thi Luật thi hành án dân sự của tác giả Dương Văn Thịnh - Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên - Báo Người đại biểu nhân dân số ra ngày 08/7/2010; Mô hình tổ chức thi hành án một số nước trên thế giới- Thạc sĩ Nguyễn Văn Nghĩa - 4
  9. Tạp chí Nghề luật số 1 năm 2007; Để nâng cao chất lượng công tác thi hành án của tác giả Việt Anh - Tạp chí Cộng sản số 10 (154) năm 2008; Vướng mắc trong việc thu phí thi hành án trên thực tế, khắc phục và thống nhất thực hiện của Nguyễn Linh Giang đăng trên Website Đongnghieptha.ucoz.com ngày 10/6/2010; Luật thi hành án dân sự và những điều bất cập - Báo Bình Thuận số ra ngày 05/4/2010. Đây là những công trình nghiên cứu công phu, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến các vấn đề mang tính chung, trên phạm vi cả nước còn vấn đề mang tính thực tiễn riêng ở tỉnh Thái Bình thì chưa được nghiên cứu và đề cập. Do vậy, việc lựa chọn đề tài "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình" được xem là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở một địa phương cụ thể. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Làm rõ được thực tiễn của công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình bằng việc nghiên cứu, phân tích những vụ việc cụ thể, đánh giá được những vướng mắc khó khăn hiện nay, tìm ra được nguyên nhân của những vướng mắc. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng án tồn đọng, đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được đưa ra thi hành. - Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chủ yếu sau: + Nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự. + Phân tích những vụ việc điển hình và những vướng mắc đặt ra khi thực hiện quá trình thi hành án. + Đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng án tồn đọng hiện nay. 5
  10. - Đối tượng nghiên cứu: Các quy định về thi hành án dân sự trong pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Thái Bình hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thi hành án và thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm giảm lượng án tồn đọng hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận truyền thống của chủ nghĩa Mác- Lê nin đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử. - Cùng với các phương pháp trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp thu thập thông tin, số liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp và nghiên cứu thực tiễn. Đây là các phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài. Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu được thực hiện qua hệ thống Công báo, các trang Web của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời thông qua các báo cáo, các hồ sơ từng vụ việc thi hành án cụ thể của Cục Thi hành án, các Chi cục thi hành án ở Thái Bình, thông qua các bài viết, tạp chí…của các tác giả trên báo chí, internet để lấy số liệu liên quan đến quá trình nghiên cứu, thông qua việc phỏng vấn trực tiếp một số chấp hành viên, cán bộ thi hành án… Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật về công tác thi hành án, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình thi hành án, thực tiễn thi hành án ở Thái Bình. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác để nghiên cứu nội dung của luận văn như phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phương pháp suy đoán… 6
  11. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề về thi hành án dân sự. Chương 2: Thực tiễn thi hành án ở Thái Bình. Chương 3: Một số giải pháp nhằm tháo gỡ án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Thái Bình. 7
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm chung về thi hành án Hoạt động thi hành án có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn trật tự, kỷ cương pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhất là trong điều kiện hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Việc đạt được công lý, công bằng qua hoạt động xết xử sẽ phát huy vai trò của Tòa án khi những bản án, quyết định được tổ chức thi hành. Bản án, quyết định - kết quả giải quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước - là sự xác nhận quyền và nghĩa vụ của các đương sự có liên quan. Vì vậy, theo quy định của Điều 136 Hiến pháp năm 1992 thì "Các bản án và quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành". Chính vì vậy, khi bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án muốn giải quyết được các tranh chấp, muốn những phán quyết của Tòa án được thực thi trên thực tế thì phải có thi hành án. Theo nguyên tắc hiến định nêu trên và yêu cầu khách quan trong hoạt động của nhà nước, có thể thấy thi hành án là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của nhà nước, vừa có những đặc tính phổ biến của một dạng hoạt động nhà nước, vừa có những đặc trưng riêng: Thứ nhất, thi hành án là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử của tòa án. Các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, thi hành án là một dạng hoạt động 8
  13. hành chính nhà nước, chứ không phải là hoạt động tố tụng bởi xét về bản chất thì hoạt động tố tụng phải tuân theo một trình tự, thủ tục tố tụng hết sức chặt chẽ với mục đích tìm ra sự thật của vụ án, còn thi hành án chỉ là sự thực thi kết quả của quá trình tố tụng trước đó trên thực tế, tức là không phải đi tìm sự thật của vụ án nữa mà là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, thi hành án là hoạt động có tính chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của toà phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là bảo đảm cho các quyết định của tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải ban hành văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính chất điều hành như trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động thi hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bởi bản thân pháp luật được nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải tôn trọng thực hiện. Thứ ba, hoạt động thi hành án bên cạnh việc sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục còn sử dụng các phương pháp điều chỉnh của hoạt động hành chính như phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc thi hành đặc biệt là trong thi hành án hình sự. Trong thi hành án dân sự phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc thể hiện rõ nhất trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Từ những phân tích trên có thể hiểu thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm thực hiện trên thực tế các phán quyết của Tòa án theo bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật. 9
  14. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội và quá trình tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh thì bản án, quyết định dân sự - kết quả giải quyết của tòa án nhân danh nhà nước là sự xác nhận quyền và nghĩa vụ dân sự của các đương sự có liên quan. Hoạt động thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự. Căn cứ theo Luật thi hành án dân sự hiện nay thì việc thi hành án dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản án, quyết định). Tuy nhiên, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo trình tự tố tụng khác nhau (như những vụ việc về hành chính, về lao động, về kinh tế…) nhưng đến giai đoạn thi hành đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Như vậy, có thể nói phạm vi của thi hành án dân sự hiện nay là rất rộng. Việc ban hành Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã tạo bước ngoặt mới trong sự phát triển của pháp luật về thi hành án dân sự, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động thi hành án theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan cho công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, từ các văn bản pháp lý trước đó về thi hành án dân sự như Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đến năm 2008 là Luật thi hành án dân sự vẫn chưa có điều luật nào khái niệm cụ thể về thi hành án dân sự. Chính vì vậy cũng phát sinh những ý kiến khác nhau về tính chất đặc trưng của thi hành án dân sự: 10
  15. Có ý kiến cho rằng "thi hành án dân sự là tổng hợp các hành vi tố tụng thực hiện bản án, quyết định dân sự của Tòa án theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định" [28]. Theo ý kiến này, xét về những đặc điểm cơ bản của hoạt động thi hành án, thì có thể coi đây là một giai đoạn kết thúc quá trình tố tụng dân sự. Ngay trong hệ thống pháp luật hiện hành, hoạt động thi hành án dân sự cũng đã được xác định thuộc phạm vi điều chỉnh trong các văn bản pháp luật về tố tụng như: Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động…và về thi hành án dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành cũng có một phần riêng (phần thứ bảy) quy định về thi hành án bản án, quyết định dân sự của Tòa án… Có ý kiến lại cho rằng: Thi hành án là tố tụng hành chính vì các cơ quan thực hiện việc thi hành án thuộc Chính phủ không phải thuộc tòa án, việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án đã khác hẳn về hình thức, thủ tục so với việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị trong tố tụng dân sự [36]. Nhưng trên cơ sở bản chất của hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất tư pháp đặt dưới sự chỉ đạo, tổ chức và quản lý của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước cho thấy: Thứ nhất cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của Tòa án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng). Thứ hai thi hành án và giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ với nhau. Nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả 11
  16. thi sẽ gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử. Xuất phát từ sự phân tích trên, trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự có thể khái niệm mang tính bao quát: thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp, là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng do các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp quản lý và thực hiện nhằm thi hành trên thực tế các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Từ khái niệm trên, có thế thấy thi hành án dân sự có những đặc điểm sau: - Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản chính vì thế mà quá trình thi hành án dân sự cũng mang tính tài sản, nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, tức là khôi phục lại những lợi ích vật chất trước đó của người được thi thi hành án. Do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến các quyền công dân. - Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt: Xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong luật dân sự, các chủ thể được phép sử dụng quyền của mình theo nhiều cách thức khác nhau nhằm thực hiện lợi ích của mình. Chủ thể có quyền được yêu cầu chủ thể khác thực hiện những hành vi nhất định hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng lợi ích, ở đây là việc người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện thi hành án (thi hành án theo yêu cầu của đương sự). Quyền lợi của người được thi hành án chỉ có thể được thực hiện khi cơ quan thi hành án thực hiện một hoặc nhiều hành vi tích cực (ra quyết định thi hành án, quyết định kê biên tài sản…). Chính vì vậy mà quyền yêu cầu thi hành án của đương sự 12
  17. được hiện thực hóa thông qua việc người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện việc thi hành án. Sự chủ động của người được thi hành án không thể hiện ở việc thực hiện hành vi mà là yêu cầu thực hiện hành vi. Người được thi hành án trong thời hạn do pháp luật quy định, có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người phải thi hành án bảo vệ quyền lợi của mình theo quyết định có hiệu lực của Tòa án và trách nhiệm của cơ quan thi hành án là phải đưa bản án, quyết định ra thi hành ngay cả khi yêu cầu thi hành án được đưa ra sau khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án cũng không thể từ chối tiếp nhận đơn yêu cầu với lý do thời hiệu đã hết mà phải xem xét khả năng khôi phục thời hiệu vì trở ngại khách quan. - Thi hành án dân sự còn là hoạt động mang tính thỏa thuận: Pháp luật công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của người thi hành án và người phải thi hành án về việc chấp hành quyết định của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Người phải thi hành án có yêu cầu về việc thi hành án khác với nội dung bản án, quyết định đã tuyên và được người được thi hành án chấp thuận thì việc thi hành án được thực hiện theo yêu cầu đó. - Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án, được sử dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Các chủ thể liên quan phải tôn trọng các bản án, quyết định của Tòa án nhân danh nhà nước, phối hợp nghiêm chỉnh thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình để bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Các cơ quan thi hành án được sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để thực hiện việc thi hành án. - Hoạt động thi hành án dân sự phải tuân thủ những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Đó là trình tự nhận đơn, xác minh, ra quyết định thi hành án, cưỡng chế thi hành án… Việc tuân thủ các trình tự này đảm 13
  18. bảo tính dân chủ, công khai, công bằng, đảm bảo cho kết quả của hoạt động thi hành án dân sự là thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án. Sự vi phạm trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự được pháp luật quy định đều dẫn đến những sai lầm, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân. - Trong quá trình thi hành án dân sự chấp hành viên, cán bộ thi hành án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đặc điểm này cũng là một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động thi hành án dân sự, đòi hỏi những cán bộ thi hành án phải am hiểu pháp luật, có tinh thần trách nhiệm và phải tự ý thức phòng, tránh những tác động tiêu cực trong hoạt động thi hành án dân sự. Việc tổ chức thi hành án phải được tiến hành một cách khách quan, thận trọng, không bị tác động tiêu cực nhằm làm sai lệch những nội dung phải thi hành trong các bản án, quyết định của Tòa án. 1.1.3. Ý nghĩa Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động tố tụng trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự, kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành." Có như vậy mới bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. 14
  19. Thông qua thi hành án, các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật phải chấm dứt các hành vi đó và thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quyết định của Tòa án. Qua thi hành án các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm được khôi phục vì thế bảo đảm thực hiện được mục đích của giải quyết vụ việc dân sự, bảo vệ được lợi ích nhà nước, bảo hộ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Thi hành án là thực hiện các quyết định của Tòa án nhưng trong mỗi trường hợp cụ thể cơ quan thi hành án vẫn phải áp dụng nhiều quy phạm liên quan mới tổ chức thi hành bản án, quyết định được. Vì vậy, thi hành án còn có ý nghĩa giúp cho việc phát hiện những khiếm khuyết của các quy định của pháp luật trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật. Thông qua thi hành án cũng có thể kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó, bản án có thấu tình, đạt lý mới có thể thi hành dễ dàng trên thực tế, trái lại, việc xét xử, ra bản án có sai sót, sẽ khó thi hành án. Thông qua thi hành án, bản án, quyết định của tòa án mới có hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Với ý nghĩa đó, thi hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, qua thi hành án, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của tòa án được bảo đảm. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của tòa án phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Thông qua hoạt động thi hành án, các thẩm phán có thể rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử. Thi hành án không chỉ là cưỡng chế, ép buộc người phải thi hành án thực hiện thi hành án, mà cơ quan thi hành án còn thực hiện các biện pháp giáo dục, thuyết phục đối tượng thi hành án, qua đó có tác dụng quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân. Đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của chấp hành viên, cơ 15
  20. quan thi hành án và sự chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan tổ chức có liên quan, sự đồng tình của nhân dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động thi hành án dân sự. Thông qua thi hành án, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng lên, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật và sức mạnh của nhà nước ngày càng được củng cố vững chắc. 1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 1.2.1. Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án Vấn đề về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, nên việc quy định về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự trong Luật thi hành án dân sự, nhất là phân định rõ cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự trong hệ thống tổ chức là cần thiết, tạo cơ sở cho Chính phủ quy định cụ thể mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự. Vấn đề tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự hiện nay được quy định một cách đầy đủ, toàn diện và cụ thể trong văn bản pháp lý có hiệu lực cao đó là Luật thi hành án dân sự (Điều 13). Ngoài ra còn được quy định một cách chi tiết trong các văn bản như: - Thông tư 17/2010/TT-BTP ngày 11/10/2010 của Bộ Tư pháp quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự; - Nghị định 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự; 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2