intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

34
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học của các tác giả đi trước, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh lý luận và thực tiễn của vấn đề và cập nhật số liệu thực tiễn vẫn có tính cấp thiết, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và giảm việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế liên quan đến tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong tình hình hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Công trình được hoàn thành KHOA LUẬT tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội HỒ NGỌC HẢI Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc Phản biện 1: TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CÓ ĐỐI TƯỢNG LÀ TÀI SẢN CÓ ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU, SỬ DỤNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Phản biện 2: Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Có thể tìm hiểu luận văn HÀ NỘI - 2012 tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 CHươNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM 8 DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CỂ ĐĂNG KÍ QUYỀN SỞ HỮU 1.1. Các vấn đề chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài 8 sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình 8 sự của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.2. Khái niệm đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm 17 chiếm đoạt tài sản 1.1.3. Khái niệm và những đặc điểm của tội lạm dụng tín nhiệm 20 chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu 1.2. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 33 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và kinh nghiệm rút ra đối với pháp luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Bộ luật hình sự Việt Nam 34 1.2.2. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 35 1.2.3. Bộ luật hình sự Trung Quốc 36
  3. 1.2.4. Bộ luật hình sự Thụy Điển 38 1.2.5. Kinh nghiệm rút ra qua việc nghiên cứu pháp luật các nước 39 trên thế giới Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN 41 XÉT XỬ TỘI PHẠM LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 2.1. Tình hình tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 41 trong luật hình sự Việt Nam 2.2. Thực tiễn xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 45 tài sản 2.2.1. Các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản điển hình 46 2.2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm 60 đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu với giao dịch dân sự, kinh tế và một số tội phạm khác trong luật hình sự Việt Nam 2.2.3. Vấn đề "hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế" có liên 71 quan đến tài sản có đăng ký quyền sở hữu hiện nay ở nước ta 2.2.4. Những nhận xét, đánh giá và các nguyên nhân cơ bản 77 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG 80 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009) VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CÓ ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU
  4. 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 80 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu 3.1.1. Những cơ sở khoa học - thực tiễn của việc hoàn thiện 80 3.1.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung 81 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy 88 định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu 3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân 88 3.2.2. Nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ chấp 90 hành viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân 3.2.3. Tăng cường phát triển đội ngũ Luật sư, trợ giúp pháp lý 90 3.2.4. Tăng cường phòng, chống "hình sự hoá" các quan hệ dân 91 sự, kinh tế có liên quan đến tài sản có đăng ký quyền sở hữu KÕt luËn 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Số vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và số 41 bị cáo 2.2 Động thái số vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 42 trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010 (lấy số vụ án năm 2000 làm mốc so sánh) 2.3 Số vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tổng số 43 vụ án hình sự 2.4 Áp dụng hình phạt trong xét xử tội phạm lạm dụng tín 44 nhiệm chiếm đoạt tài sản 2.5 Số bị cáo bị chuyển hồ sơ vụ án, đình chỉ, trả hồ sơ lại 60 Viện kiểm sát, không có tội
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan không thể thiếu trong bất kỳ một thể chế chính trị nào. Pháp luật có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và đời sống chính trị của một quốc gia; cũng chính vì vậy mà pháp luật vô cùng phức tạp và có nhiều quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Tuy vậy, có một điều có thể khẳng định rằng: Pháp luật luôn luôn có sau các quan hệ xã hội và không thể điều chỉnh hết được tất cả các quan hệ xã hội. Điều đó dẫn đến: "Pháp luật, dù có hoàn thiện đến mấy cũng không thể phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống" [48]. Đây là một sự thật khách quan mà bất kỳ một thể chế chính trị, một quốc gia nào hoặc một nhà lập pháp xuất sắc nào đều phải thừa nhận. Quan hệ xã hội thì rất nhiều, được thể hiện ở muôn hình vạn trạng và luôn luôn nảy sinh quan hệ xã hội mới. Vì vậy, pháp luật không bao giờ có thể hoàn mỹ khi xã hội còn luôn vận động. Do đó, nhiệm vụ của cơ quan lập pháp, nhà làm luật, người dân, mọi thành phần trong xã hội là làm thế nào để pháp luật có thể phù hợp với xã hội, bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Cũng chính vì thế mà không ngừng hoàn thiện pháp luật là mục tiêu, định hướng chiến lược của mỗi quốc gia, thể chế chính trị. Các cơ quan lập pháp, người dân, cả xã hội đang từng ngày, từng giờ cố gắng "phản ánh" các quan hệ xã hội vào pháp luật bằng các quy định. Những nhà nghiên cứu cũng đang miệt mài tìm hiểu, phân tích đánh giá, so sánh pháp luật để có thể góp những ý kiến "phản ánh" đến các quan hệ pháp luật để pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. Đó cũng chính là mong muốn, hành động của chúng tôi - Những nhà nghiên cứu luật học đang nghiên cứu luận văn thạc sỹ về đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam.
  7. Nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong 10 năm (2000 - 2010) cho thấy: Tình hình tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu ngày càng gia tăng về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Đây là loại tội phạm mà người phạm tội có thể gây ra thiệt hại cho rất nhiều người, có những vụ mà chỉ có một bị cáo nhưng có đến gần 30 người bị hại, chưa kể những người liên quan khác. Đối với tội phạm này, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lớn và là những tài sản quan trọng của gia đình người bị hại, vì thế khi tài sản có đăng ký quyền sở hữu bị chiếm đoạt/không thể trả lại được thì làm cho người bị hại và gia đình họ không có đủ điều kiện sinh sống, bị kiệt quệ, nợ nần chồng chất. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chính người bị hại và cộng đồng, xã hội. Đây cũng là loại tội phạm có nhiều dấu hiệu có liên quan/ bị trùng với các dấu hiệu trong pháp luật dân sự; vì vậy mà tình hình "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, kinh tế trong loại tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu là khá nhiều. Có tình trạng như vậy là do các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền sở hữu tài sản có đăng ký quyền sở hữu chưa được rõ ràng, cụ thể và các cơ quan nhà nước chưa có sự hướng dẫn hợp lý đối với những tình tiết còn gây nhầm lẫn, chưa hiểu rõ. Về mặt kỹ thuật lập pháp như vậy là chưa đáp ứng đủ yêu cầu của một quy phạm pháp luật là không gây nhầm lẫn, có tính thống nhất theo ngành luật và được áp dụng chung cho tất cả chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, không để tình trạng mỗi địa phương áp dụng một kiểu, mỗi đối tượng có cách áp dụng khác nhau. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu sâu và làm rõ vấn đề lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu để góp phần xác định những thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp và đưa ra giải pháp bổ sung, hoàn thiện quy phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
  8. Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; Việt Nam là nước có nhiều quốc gia quan tâm, đầu tư vì thế cũng có nhiều biến động về đời sống kinh tế - xã hội trên thế giới ảnh hưởng trực tiếp/làm biến đổi đời sống kinh tế - xã hội trong nước. Các quan hệ hợp đồng dân sự cũng vì thế mà có sự biến động, hợp đồng dân sự trong đời sống ngày càng nhiều, do thiếu hiểu biết của một bên chủ thể mà dẫn đến bị một bên khác lợi dụng để dẫn đến thiệt hại về tài sản. Những quan hệ hợp đồng đó là những quan hệ kinh tế mới mà chưa có giải pháp pháp lý phù hợp, chưa có cơ quan nhà nước giải quyết tốt bằng một cơ chế pháp lý hoàn thiện. Điều này là nguyên nhân làm cho người dân, cơ quan áp dụng pháp luật thường "gò ép" các dấu hiệu của quan hệ pháp luật dân sự sang các dấu hiệu của quan hệ pháp luật hình sự để giải quyết. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình sự hóa ngày càng gia tăng. Với nội dung nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi đã nhận thấy tình trạng "không rõ ràng" trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu và nêu ra một số vấn đề cần phải sửa đổi cho phù hợp với quan hệ xã hội hiện nay trong việc giao kết hợp đồng. Với mong muốn luận văn này có thể gợi ý, đóng góp và giải quyết phần nào những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn; Chúng tôi nghiên cứu đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu bắt đầu đã được nghiên cứu, còn nghiên cứu riêng rẽ và độc lập về tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu mới chỉ được đề cập gián tiếp qua phân tích chung về cả nhóm
  9. tội xâm phạm sở hữu và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua các yếu tố cấu thành tội phạm (khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm) và hình phạt trên ba bình diện khoa học: * Ở cấp độ giáo trình đại học, sách tham khảo, chuyên khảo hay sách bình luận: 1) TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; 2) ThS. Nguyễn Sỹ Đại, Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; 4) Chuyên đề phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999; 5) Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, do Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000. * Ở cấp độ khác: Qua nghiên cứu cho thấy, trong khoa học luật hình sự Việt Nam trước đây và hiện nay chưa có khóa luận, luận văn hay luận án tiến sĩ luật học nào đề cập đến tội phạm này. Như vậy, qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy: Một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng và chung cả nhóm tội xâm phạm sở hữu, trong đó vấn đề về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả trong các giáo trình, sách bình luận nên chưa được phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu độc lập và đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta. Do đó, cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Vì
  10. vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, phân tích thực tiễn xét xử tội phạm này từ năm 2000-2010, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm này rõ ràng vẫn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội và thực tiễn - pháp lý quan trọng. Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam làm luận văn thạc sĩ luật học. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học của các tác giả đi trước, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh lý luận và thực tiễn của vấn đề và cập nhật số liệu thực tiễn vẫn có tính cấp thiết, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và giảm việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế liên quan đến tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong tình hình hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu trong đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này.
  11. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố, các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 5.1. Về lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội phạm nói chung, tội xâm phạm sở hữu của công dân trong khoa học luật hình sự Việt Nam nói riêng. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu của công dân trong luật hình sự Việt Nam, phân tích đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu, phân biệt tội này và một số tội khác hay có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2000 - 2010 và nghiên cứu thông qua các bản án hình sự của Tòa án để đánh giá, đồng thời qua đó chỉ ra một số mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn (đó là giải pháp về mặt tội phạm học). 5.2. Về thực tiễn Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến
  12. tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này ở nước ta hiện nay và sắp tới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Chương 2: Tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu.
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CÓ ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU 1.1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CÓ ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải xã hội. Sở hữu không chỉ bao gồm quan hệ con người chiếm hữu tư liệu sản xuất, của cải, mà điều cốt yếu là đề cập đến quan hệ giữa người với người trong quá trình diễn ra sự chiếm hữu đó. Người ta phân biệt hai loại sở hữu: sở hữu mang tính dân sự (sở hữu nhà ở, đồ dùng cá nhân) và sở hữu tư liệu sản xuất. Quan hệ sở hữu là một trong những quan hệ cơ bản và quan trọng nhất của một thể chế. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn xác định sở hữu, quyền sở hữu là vấn đề trọng tâm của pháp luật. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu, chính vì thế quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đóng vai trò quan trọng trong các văn bản pháp lý của Nhà nước, ở đó tài sản là đối tượng vừa là khách thể của quan hệ sở hữu. Yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với bảo vệ quyền sở hữu tài sản là tài sản đó phải giao dịch được và được phép đưa vào giao dịch, nó là đối tượng phổ biến
  14. được điều chỉnh bởi các quy định của cả hệ thống pháp luật. Do đó, quan hệ sở hữu trong xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến kết cấu giai cấp, bản chất chính trị của xã hội. Sở hữu là một vấn đề kinh tế - chính trị, phải có quan điểm chính trị khi bàn về vấn đề sở hữu chứ không chỉ thuần túy các quan điểm kinh tế khi xem xét vấn đề này. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ và trong thời kỳ quá độ ấy có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế. Trong đường lối kinh tế, Đảng ta đề ra: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là các quan hệ sở hữu và hệ thống lý luận về sở hữu ở nước ta còn nhiều điều cần bổ sung, hoàn thiện và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị. Cũng chính vì vậy mà các quan hệ sở hữu (sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân) còn chưa hoàn thiện về hình thức, còn nhiều tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu. Bởi vậy, một hệ thống pháp luật bảo vệ quyền sở hữu là hết sức cần thiết và quan trọng. Hiện nay, để bảo vệ quyền sở hữu
  15. tài sản của công dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều quan hệ pháp luật để điều chỉnh: - Hiến pháp - Quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; đồng thời ghi nhận các nguyên tắc, chính sách bảo vệ quyền sở hữu của công dân; - Bộ luật dân sự - Bảo vệ các quyền sở hữu tài sản trong quan hệ dân sự; - Luật đầu tư - Bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong đầu tư sản xuất kinh doanh; - Luật hành chính - Đưa ra các biện pháp xử lý hành chính đối với việc xâm phạm quyền sở hữu tài sản ở mức độ nhẹ; - Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước - Quy định nguyên tắc sử dụng tài sản công, chế tài xử phạt vi phạm; Và Bộ luật hình sự quy định việc xử lý những hành vi xâm phạm chế độ sở hữu tài sản được nhà nước bảo hộ. Đó là những hành vi nguy hiểm cho xã hội và cần phải giáo dục, phòng ngừa, răn đe, trừng phạt để bảo vệ quyền sở hữu của công dân. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có riêng một chương quy định về các tội xâm phạm sở hữu, bao gồm 13 điều quy định rõ
  16. các hành vi xâm phạm sở hữu được Nhà nước bảo vệ. Nhóm tội phạm xâm phạm về sở hữu mang những đặc điểm: Về khách thể: Đó là quan hệ sở hữu, có nghĩa là các tội xâm phạm sở hữu phải là những hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và gây thiệt hại này phải phản ánh đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Về khách quan: Đó là các hành vi như chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép, sử dụng trái phép, hủy hoại, làm hư hỏng tài sản,… Tuy hình thức thể hiện khác nhau nhưng những hành vi này đều xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu tài sản. Về chủ quan: Hầu hết các tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, chỉ có hai tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý. Về chủ thể: Đó là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu chỉ được giới hạn trong luận văn là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu, chúng tôi chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận xoay quanh tội phạm được quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
  17. 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản [25]. Từ những phân tích trên, xét một cách chung nhất, dưới góc độ khoa học luật hình sự thì khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi của một chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo pháp luật hình sự đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên thông qua hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để nhằm mục địch đích chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả lại tài sản. Dựa vào lý luận về cấu thành tội phạm và quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
  18. bổ sung năm 2009) cho phép chỉ ra các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội phạm này như sau: 1) Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố khách quan trong xã hội vì thế muốn điều chỉnh các quan hệ sở hữu phát triển theo hướng có lợi, giai cấp thống trị dùng pháp luật để ghi nhận, củng cố địa vị của mình trong việc chiếm hữu của cải vật chất trước các giai cấp khác. Qua việc nghiên cứu cấu thành tội phạm này cho thấy khách thể trực tiếp bị tội phạm này xâm hại đó là quan hệ sở hữu tài sản. "Sở hữu được hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động. Ngày nay có cả tư liệu sản xuất của loài người" [45, tr. 169]. Quan hệ sở hữu là sự phản ánh việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất, các vật phẩm giữa chủ thể này với các chủ thể khác. Do đó, quan hệ sở hữu luôn được luật hình sự bảo vệ (sở hữu là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật). a) Quyền chiếm hữu là quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản. Hành vi chiếm hữu được quy định cụ thể tại Điều 182 Bộ luật dân sự năm 2005 được hiểu theo nghĩa rộng, có thể là hành vi của chủ sở hữu trong việc kiểm soát thực tế, hoặc kiểm soát về mặt pháp lý đối với vật, hoặc chủ sở hữu đồng thời thực hiện cả hai hành vi này;
  19. b) Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu được phép sử dụng các tài sản của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt, sản xuất kinh doanh, song việc sử dụng đó không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng tới lợi ích của các chủ thể khác; c) Quyền định đoạt là quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu để quyết định số phận pháp lý của tài sản. Cả ba quyền năng cụ thể trên tạo thành một hệ thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có mối liên kết mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Về đối tượng tác động của tội phạm này chính là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, của tập thế, của công dân,… Tài sản được thể hiện dưới các hình thức: Vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [24]. 2) Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo đó, mặt khách quan của tội phạm này bao gồm những dấu hiệu sau: a) Hành vi khách quan. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 thì hành vi khách quan được thể hiện ở chỗ: sau khi có được tài sản người phạm tội đã có hành vi chiếm đoạt tài sản.
  20. Hành vi chiếm đoạt của tội này bao giờ cũng thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản của người khác hay nhận được tài sản của người khác hay nhận được tài sản của người khác nhưng sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả lại tài sản đó. Đây là hành vi sử dụng tài sản không đúng nghĩa vụ cam kết dẫn đến việc không thể trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Ví dụ như: mang tài sản đó đi bán, cầm cố, cho thuê lại... Tội phạm được thực hiện thông qua các dấu hiệu cụ thể sau: Trước tiên người phạm tội đã nhận tài sản từ chủ tài sản để thực hiện một công việc nhất định nào đó. Việc giao nhận này là hoàn toàn hợp pháp có sự thỏa thuận và cam kết giữa hai bên, có thể bằng miệng hoặc thông qua hợp đồng theo quy định của pháp luật... Ý định chiếm đoạt chỉ này sinh sau khi người phạm tội đã được giao tài sản. Điều này có nghĩa là người phạm tội đã vi phạm những cam kết, nghĩa vụ theo sự thoả thuận trước đây, đã bội tín nhằm chiếm đoạt tài sản. Sau khi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã biến tài sản đó thành tài sản của mình, tức là đã tạo ra cho mình khả năng chiếm giữ, sử dụng, định đoạt tài sản đó; nhưng hành vi chiếm đoạt này thực chất không làm mất đi quyền sở hữu đối với tài sản của chủ sở hữu hợp pháp. Ở đây, hành vi chiếm đoạt đã gây ra thiệt hại vật chất cho chủ tài sản dù bằng bất kỳ hình thức nào. Thiệt hại ở đây là biểu hiện thực tế như làm hao hụt giảm bớt không thể trả lại trạng thái ban đầu. Vì gây thiệt hại là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0