intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa phương, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HOÀNG YẾN TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HOÀNG YẾN TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ) Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang HÀ NỘI - 2015 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Lª ThÞ Hoµng YÕn 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, 10 VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của tội làm, tàng trữ, 10 vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 10 1.1.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước 11 khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.1.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay 13 1.2. Những khái niệm có liên quan 16 1.2.1. Khái niệm séc, các giấy tờ có giá khác 16 1.2.2. Khái niệm séc giả, giấy tờ có giá giả khác 20 1.3. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ 22 có giá giả khác với một số tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 1.3.1. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy 22 tờ có giá giả khác (Điều 181) với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180) 1.3.2. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các 33 giấy tờ có giá giả khác (Điều 181) với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 164a) 4
  5. 1.4. Quy định của pháp luật hình sự về tội làm, tàng trữ, vận 37 chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác 1.4.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu 37 hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác 1.4.2. Chế tài hình sự đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành 40 séc giả, các giấy tờ có giá giả khác Chương 2: THỰC TIỄN ĐẤU TRANH VỚI TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, 48 VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC TẠI TỈNH PHÚ THỌ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 2.1. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ, vận 48 chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 2.1.1. Kết quả và những tồn tại trong điều tra, truy tố, xét xử đối với 48 tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 2.1.2. Một số nguyên nhân làm giảm hiệu quả của công tác điều tra, 65 truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 2.2. Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả đấu tranh đối với 72 tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác 2.2.1. Những quan điểm cơ bản trong cải cách tư pháp liên quan đến 72 đấu tranh phòng chống tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác 2.2.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự với tội làm, tàng trữ, vận 73 chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác 2.2.3. Các giải pháp khác đấu tranh với tội làm, tàng trữ, vận 78 chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 5
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 So sánh tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, 23 các giấy tờ có giá giả khác (Điều 181) và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180) 1.2 So sánh tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, 34 các giấy tờ có giá giả khác và tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước 2.1 Thống kê số vụ án, bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét 49 xử về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác giai đoạn 2009- 2014 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 2.2 Thống kê về thành phần, nhân thân người phạm tội làm, 51 tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2009- 2014 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức tôn trọng pháp luật. Kinh tế - xã hội phát triển, một mặt làm thay đổi bộ mặt của đất nước, đời sống của người dân ngày một nâng cao, tuy nhiên mặt trái của của sự phát triển bao giờ cũng là những hiện tượng tiêu cực xã hội, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật gia tăng. Tội phạm trong xã hội hiện đại là một hiện tượng xã hội - pháp lý phức tạp với những biểu hiện khác nhau, vì thế công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng gian khổ và khó khăn hơn. Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nói riêng đã và đang diễn biến hết sức phức tạp ở nước ta trong những năm gần đây. Báo cáo tổng kết hàng năm của Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đều nhận định số lượng các vụ án cũng như bị can, bị cáo về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế không tăng đột biến nhưng phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Tội phạm xảy ra nghiêm trọng, phổ biến trên tất cả các lĩnh vực, ngành nhất là những lĩnh vực và các ngành kinh tế trọng điểm. Thực tế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự quản lý kinh tế của đất nước, là rào cản tới sự ổn định, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, pháp luật hình sự đã liên tục được nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước trong 7
  8. từng thời kỳ. Chính sách hình sự là quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp pháp luật hình sự là cốt lõi nhằm đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tình hình tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nói riêng đang tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp do những sự thay đổi khách quan của kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho thấy trong quá trình phát triển kinh tế, lợi dụng chính sách khuyến khích sự năng động sáng tạo của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế đã xuất hiện một số hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính nguy hiểm rất lớn cho xã hội, có nơi, có lúc tội phạm diễn biến nghiêm trọng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, đặc biệt là kể từ sau sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra cho chúng ta những thời cơ, thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, thách thức, khó khăn và những hệ quả tiêu cực kéo theo là không nhỏ. Dự báo tình hình tội phạm nói chung, tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nói riêng trong thời gian tới còn phức tạp, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi và gây khó khăn hơn trong điều tra, xử lý tội phạm. Giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Chiến lược cải cách đến năm 2020 đã đề ra một trong những phương hướng quan trọng, đó là hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng pháp luật hình sự là phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, đảm bảo tính khả thi với việc quy định tội phạm và hình phạt để đủ sức trừng trị và răn đe đối với tội phạm. Bên cạnh đó, yêu cầu xây dựng hệ thống lý luận, pháp lý 8
  9. làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác cũng được đặt ra. Để góp phần xây dựng, cải tạo và phát triển kinh tế, xã hội, tạo ra môi trường ổn định, lành mạnh cho nền kinh tế quốc dân chống lại mọi hành vi nguy hiểm xâm hại đến trật tự kinh tế của đất nước, luật hình sự Việt Nam quy định chương "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế", trong đó "tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác" được quy định tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1999, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009. Trong thực tiễn, đã có không ít Thẩm phán còn gặp nhiều vướng mắc, lúng túng khi xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác và không ít trường hợp còn chưa thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tình hình của loại tội phạm này. Cùng một hành vi phạm tội nhưng Tòa án ở các cấp khác nhau, các địa phương khác nhau lại xét xử bị cáo với những tội danh khác nhau. Việc đó đã trực tiếp gây bất lợi cho quyền lợi của bị can, bị cáo. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài "Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chính sách hình sự, trong đó có các vấn đề về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong nước đề 9
  10. cập. Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nói riêng luôn mang tính thời sự xuất phát từ tính "động" của nền kinh tế. Vì vậy, những công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm kinh tế khá nhiều, có thể ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Tác giả sắp xếp từng công trình nghiên cứu liên quan đến luận văn như sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Sách chuyên khảo: "Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam", của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995; Sách chuyên khảo: "Tội phạm kinh tế thời mở cửa", do PGS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình làm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, năm 2003; Sách chuyên khảo sau đại học: "Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự", của PGS.TSKH. Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005; Sách chuyên khảo: "Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam", do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2007… Ngoài ra, các tài liệu liên quan đến luận văn còn là hệ thống giáo trình, bình luận khoa học Bộ luật hình sự, các số chuyên đề như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế, năm 2003; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Sách "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999", của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008, do tập thể tác giả biên soạn; Sách "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự", do PGS.TS. Trần Minh Hưởng, Học viện Cảnh sát nhân dân 10
  11. biên soạn, Nxb Hồng Đức, năm 2014; Sách "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự" của ThS. Đinh Văn Quế, Tòa án nhân dân tối cao, phần các tội phạm, tập VI, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế bình luận chuyên sâu… Tất cả các công trình trên đều có những chương, phần nghiên cứu lý luận về chính sách hình sự, nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm cũng như các dấu hiệu pháp lý, các yếu tố cấu thành cụ thể của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nói riêng. Thứ hai, là các công trình nghiên cứu thể hiện qua các luận án tiến sĩ. Một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài như: Luận án tiến sĩ của Bùi Minh Thanh: "Vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay" (năm 2003); Luận án tiến sĩ của Mai Thế Bày: "Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" (năm 2006); Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Nam: "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Luật hình sự Việt Nam" (năm 2007)… Những công trình này nghiên cứu các chính sách hình sự nói chung hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế dưới góc độ tội phạm học. Thứ ba, các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết, trên các tạp chí chuyên ngành, hội nghị, hội thảo, các số chuyên đề. Đây là nguồn tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật có uy tín như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Dân chủ pháp luật… Nhìn chung, đây là những công trình nghiên cứu tội phạm cụ thể hoặc nghiên cứu về trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với tội phạm nói chung trong đó có tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác. 11
  12. Như vậy, hiện nay các công trình khoa học nghiên cứu về chính sách hình sự nói chung, về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác khá nhiều. Tuy nhiên, quá trình thu thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa phương, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản sau: - Lý luận cơ bản về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác; - Thực tiễn xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ diễn ra như thế nào? Còn có gì vướng mắc khi áp dụng luật, khi xét xử? - Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác như thế nào? - Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả công tác xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác? 4. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ 12
  13. thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong mối tương quan so sánh với một số chế định tội danh khác; - Nghiên cứu, đánh giá, làm sáng tỏ bức tranh về tình hình xét xử tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, từ đó khái quát trên phạm vi cả nước; nêu được những tồn tại, hạn chế của thực tiễn xét xử cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án hình sự về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác được khách quan, đúng pháp luật. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn được triển khai nghiên cứu trên đối tượng là hành vi phạm tội và người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác. 13
  14. - Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong luật hình sự Việt Nam mà cụ thể là trong Bộ luật hình sự năm 1999, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân địa phương và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này. - Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm xét xử một số nước trong khi nghiên cứu chế định tội phạm này. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong năm năm (từ năm 2009 đến năm 2014). 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn: Là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác cũng như những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học pháp lý chuyên ngành. Các phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Lịch sử so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp và diễn dịch… 14
  15. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn đấu tranh với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác tại tỉnh Phú Thọ và những kiến nghị, đề xuất. 15
  16. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH SÉC GIẢ, CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ GIẢ KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (ngày 02 tháng 09 năm 1945) nước ta lúc bấy giờ chưa có Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Nhà nước cũng quan tâm đến việc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, nhằm ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân. Do hoàn cảnh lịch sử, nên nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ là tập trung vào việc củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ vừa mới được thành lập, nên việc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm tuy được Nhà nước quan tâm, nhưng chủ yếu ở các loại tội phạm xâm hại về an ninh chính trị và các loại tội đặc biệt nghiêm trọng khác như: giết người, cướp của, hiếp dâm… Văn bản quy định nhiều nhóm tội nhất trong đó có tội về kinh tế là Sắc luật số 03 năm 1976 trong đó có các nhóm tội: các tội phản cách mạng; các tội xâm phạm tài sản công cộng; các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản riêng của công dân; các tội kinh tế; các tội chức vụ, hối lộ; các tội xâm phạm trật tự an toàn công cộng. Các văn bản pháp luật quy định trong lĩnh vực tội phạm kinh tế tiêu biểu phải kể đến là Pháp lệnh số 07/LCT/HĐNN7 của Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 10/7/1982 trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Ngay ở lời nói đầu, Pháp lệnh đã nêu rõ: "Để ngăn chặn các hành động vi phạm chính sách 16
  17. quản lý thị trường, góp phần đẩy mạnh sản xuất, ổn định vật giá và bảo đảm đời sống nhân dân; Pháp lệnh này quy định việc trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép" [22]. Điều 1 quy định: Mọi hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép đều phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh. Nghiêm cấm việc bao che người phạm tội. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân, khi thấy có hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép đều có quyền và nghĩa vụ phát hiện với các cơ quan hoặc nhân viên Nhà nước có thẩm quyền để được ngăn chặn và xử lý kịp thời [22]. Tuy có các quy định về tội kinh tế nhưng ở giai đoạn này không có một quy định pháp luật nào quy định về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác. Điều này xuất phát từ thực trạng nền kinh tế của nước ta lúc đó là nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế dẫn đến tình trạng kinh tế khủng hoảng và xảy ra siêu lạm phát kéo dài từ năm 1985 đến hết năm 1988. Cả nước dốc sức cho công cuộc khắc phục hậu quả của nền kinh tế khủng hoảng nên các quy phạm pháp luật về kinh tế lúc này về cơ bản không có những thay đổi so với giai đoạn trước. 1.1.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, Bộ luật này không có quy định riêng về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác mà quy định chung tội này với tội làm tiền giả tại Điều 98: "1. Người nào làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả, séc giả, phiếu công trái giả hoặc phá hủy tiền tệ thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm; 2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình" [32]. Tội 17
  18. làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả, séc giả, phiếu công trái giả hoặc phá hủy tiền tệ gây nên những hậu quả nghiêm trọng vì vậy được xếp vào Chương I, mục B, các tội xâm phạm an ninh quốc gia và khung hình phạt cao nhất của tội này là tử hình "2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình" [32]. Trong hơn mười năm có hiệu lực, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28/12/1989, ngày 12/08/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/05/1997. Trong mỗi lần sửa đổi, bổ sung thì Bộ luật hình sự đều có những thay đổi liên quan trực tiếp đến tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ được quy định ở Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985. Trong lần sửa đổi thứ nhất vào ngày 28/12/1989, do đất nước mới chuyển hướng nền kinh tế theo con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên hướng sửa đổi chủ yếu tập trung vào các tội có tính chất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng có ảnh hưởng lớn đến vận mệnh quốc gia như tội đầu cơ, tội trốn thuế, tội buôn lậu, tội phạm về chức vụ… Trong ba lần sửa đổi, bổ sung tiếp theo vào năm 1991, năm 1992 và năm 1997, Bộ luật hình sự tiếp tục được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về phần chung và phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985. Đối với quy định về tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ thì cả bốn lần sửa đổi, bổ sung đều không có sự thay đổi về điều luật mà chỉ có sự thay đổi về hình phạt bổ sung đối với loại tội này. Cụ thể lần sửa đổi, bổ sung năm 1991 quy định: "Người nào phạm một trong các tội quy định ở các điều 88, 95, 96 và 99, thì có thể bị phạt tiền từ ba trăm nghìn đồng (300.000 đồng) đến ba triệu đồng (3.000.000 đồng)" [34]; lần sửa đổi, bổ sung năm 1992 quy định: "Người nào phạm một trong các tội quy định ở các điều 88, 95, 96, 98 và 99, thì có thể bị phạt tiền từ ba trăm nghìn đồng (300.000 đồng) đến ba triệu đồng (3.000.000 đồng)" [36]; lần sửa đổi, bổ sung năm 1997 quy định: 18
  19. 2. Công dân Việt Nam phạm một trong các tội thuộc Mục A hoặc một trong các tội quy định tại Điều 87, Điều 88, các Điều từ Điều 94 đến Điều 99, thì bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. 3- Người nào phạm một trong các tội quy định tại Điều 88, 95, 96, 98 và 99, thì có thể bị phạt tiền từ ba trăm nghìn đồng đến ba triệu đồng; phạm tội quy định tại Điều 97, thì bị phạt tiền đến mười lần trị giá hàng phạm pháp. 4- Người nào phạm một trong các tội thuộc Mục A, thì bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; phạm một trong các tội quy định tại Điều 88, các điều từ Điều 94 đến Điều 98, thì có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [37]. Như vậy, qua các lần sửa đổi, bổ sung thì người có hành vi phạm tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ ngoài việc phải chấp hành các hình phạt chính được quy định tại Điều 98 thì họ còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ ba trăm nghìn đồng đến ba triệu đồng hoặc có thể tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Những quy định mới này làm cho Bộ luật hình sự ngày càng hoàn thiện hơn và thể hiện rõ được mục đích của việc áp dụng chế tài pháp luật về kinh tế là nhằm thu hồi lại tiền hoặc tài sản mà người phạm tội đã gây ra cho Nhà nước. 1.1.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay Sau hơn mười năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, mặc dù đã tiến hành sửa đổi, bổ sung bốn lần, nhưng trong tình hình mới, Bộ luật hình sự cũ không còn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm khi mà nước ta đã chuyển qua nền kinh tế nhiều thành phần. Chính vì vậy, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua Bộ luật hình sự mới: Bộ luật hình sự năm 1999. Có thể nói Bộ luật hình sự năm 1999 đã thể hiện toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực từ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế…đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo 19
  20. cơ sở pháp lý cho đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác nói riêng. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 có rất nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế liên quan đến an ninh quốc gia trước đây đã được quy định tại Chương I (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) thì nay quy định tại Chương XVI (các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế). Việc thay đổi tên chương không đơn thuần chỉ là sự thay đổi về tên gọi, mà nó có ý nghĩa quan trọng về nội dung và bản chất của các tội phạm trong chương này. Tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ, trước đây được quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985, thì nay được tách thành hai tội khác nhau, quy định tại Điều 180 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả) và Điều 181 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác). Trong quy định của khoản 2, Điều 98, Bộ luật hình sự năm 1985 thì vì tội làm séc giả được quy định chung với tội làm tiền giả nên hình phạt cao nhất của tội chung này là tử hình. Nhưng sau khi được tách thành hai loại tội và được quy định chuyên biệt ở Điều 180 và Điều 181, Bộ luật hình sự năm 1999 thì bị cáo phạm tội làm séc giả không còn phải chịu khung hình phạt cao nhất là tử hình nữa. Quy định này của Bộ luật hình sự năm 1999 là hoàn toàn đúng đắn vì "xét về tính chất trong mối tương quan với các tội phạm khác trong Bộ luật hình sự thì đây là những tội phạm mà tính nguy hiểm cho xã hội của chúng không thể so sánh được với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội giết người hoặc một số tội phạm khác. Hơn nữa, suy cho cùng thì người phạm tội khi thực hiện những tội phạm này thường vì động cơ tư lợi vì mục đích xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, chế độ sở hữu…(những quan hệ xã hội bị gây thiệt hại có hậu quả có thể khắc phục được) do đó không cần quy định hình phạt tử hình với tội này [8, tr. 76-23]. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2