intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

51
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội nhận hối lộ dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội nhận hối lộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HỮU ANH TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HỮU ANH TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2016 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §Æng H÷u Anh 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO LUẬT HÌNH 5 SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về tội nhận hối lộ 5 1.2. Đặc điểm pháp lý của tội nhận hối lộ 7 1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội nhận hối lộ 8 1.4. Lịch sử hình thành các quy định về tội nhận hối lộ trong pháp 9 luật hình sự Việt Nam 1.4.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ 9 trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 1.4.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ 14 sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985 1.4.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ 16 trong Bộ luật hình sự năm 1985 1.4.4. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ 18 trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO LUẬT 20 HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội nhận hối lộ 21 2.1.1 Dấu hiệu về mặt chủ thể của tội nhận hối lộ 21 2.1.2. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội nhận hối lộ 25 2.1.3. Dấu hiệu về mặt khách thể của tội nhận hối lộ 31 2.1.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội nhận hối lộ 34 4
  5. 2.2. Các trường hợp phạm tội cụ thể 37 2.2.1. Phạm tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 37 Điều 279 Bộ luật hình sự 2.2.2. Phạm tội nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 41 Điều 279 Bộ luật hình sự 2.2.3. Phạm tội nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 50 Điều 279 Bộ luật hình sự 2.2.4. Phạm tội nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 52 Điều 279 Bộ luật hình sự 2.2.5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội nhận hối lộ 56 2.3. So sánh tội nhận hối lộ với một số tội phạm về tham nhũng 57 khác trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 2.3.1. So sánh tội nhận hối lộ với tội tham ô tài sản 58 2.3.2. So sánh tội nhận hối lộ với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn 59 chiếm đoạt tài sản 2.3.3. So sánh tội nhận hối lộ với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn 59 gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi Chương 3: THỰC TRẠNG, THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ CÁC GIẢI 61 PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI NHẬN HỐI LỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Tổng quan về tội nhận hối lộ trên thế giới 61 3.2. Thực trạng về tội nhận hối lộ ở Việt Nam hiện nay 63 3.3. Thực tiễn xét xử và những bất cập trong quá trình xử lý tội 69 nhận hối lộ 3.3.1. Những bất cập trong công tác phát hiện và xử lý tội nhận hối lộ 75 3.3.2. Những bất cập trong thực hiện cơ chế kinh tế 77 3.3.3. Những bất cập trong công tác tổ chức cán bộ 78 3.3.4. Những bất cập trong công tác thanh tra, giám sát 79 3.3.5. Những bất cập trong quy định của pháp luật hình sự về tội 81 nhận hối lộ 5
  6. 3.4. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và đấu 81 tranh phòng chống tội nhận hội ở Việt Nam hiện nay 3.4.1. Giải pháp trong công tác phát hiện và xử lý tội nhận hối lộ 82 3.4.2. Giải pháp trong việc thực hiện cơ chế quản lý kinh tế 83 3.4.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ 84 3.4.4. Giải pháp về mặt thanh tra, giám sát 86 3.4.5. Giải pháp về pháp luật hình sự 88 KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 6
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Kết quả CPI hàng năm của Việt Nam 64 3.2 Tổng số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội nhận hối 70 lộ (2007 - 2013) 3.3 Thống kê xét xử phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án 73 nhân dân tối cao tại Hà Nội về tội nhận hối lộ theo Điều 279 BLHS (2007 - 2011) 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay đất nước ta đang trong bối cảnh đổi mới, Đảng và Nhà nước đang từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đặc biệt Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, đây là cơ hội tốt cho nước ta tăng cường phát triển, hợp tác giao lưu với các nước trên thế giới. Bên cạnh những thành quả đã đạt được, tình hình kinh tế - xã hội cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế, tiêu cực, đặc biệt là vấn nạn tham nhũng đã trở thành nguy cơ lớn đe dọa và thách thức đến sự tồn vong của quốc gia. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ rất lâu, đang có xu hướng diễn ra ngày càng phức tạp và phổ biến. Tình trạng tham nhũng đang trở thành hiện tượng đe dọa sự ổn định của nền chính trị và sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia trên thế giới không chỉ ở Việt Nam. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân, làm thoái hóa bản chất của một số cán bộ công chức. Nhận thức được tác hại và nguy cơ của nạn tham nhũng, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng và Nhà nước đã xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá: Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa đến sự sống còn của chế độ ta [6, tr. 76]. Đồng thời Đảng và Nhà nước đã có những động thái thể hiện rõ quyết tâm chống tham những như: ngày 10 tháng 12 năm 2003 ký công ước chống 8
  9. tham nhũng của Liên hợp quốc, ngày 29 tháng 11 năm 2005 ban hành Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012)… Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Quyết định số 30/2006/QĐ-TTg ngày 06/02/2006 về "Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng". Mục tiêu của chương trình nhằm khắc phục và đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các cán bộ, công chức và mỗi công dân về công tác phòng, chống tham nhũng. Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta cũng đã thể hiện quyết tâm cao trong cuộc đấu tranh với các hành vi tham nhũng, nhằm đẩy lùi và hạn chế đến mức thấp nhất các hậu quả xấu của tệ nạn tham nhũng. Trong số các tội về tham nhũng đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức thì tội phạm về hối lộ hết sức được chú ý. Trong những năm gần đây, loại tội phạm này đang có những diễn biến rất phức tạp. Một loạt những vụ án về hối lộ nghiêm trọng đã xảy ra trong thời gian qua liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: thương mại, đầu tư xây dựng cơ bản, bảo vệ pháp luật, thể thao, y tế… Mặt khác tội phạm này đã tạo điều kiện hoặc cơ hội phát sinh nhiều loại tội phạm khác như buôn lậu, đánh bạc, mua bán ma túy… Trong khi đó hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đấu tranh với loại tội phạm này vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc và chưa đạt được nhiều kết quả. Một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động xử lý tội phạm về hối lộ là do sự thiếu rõ ràng và chưa hợp lý trong quy định của luật hình sự hiện hành về các tội phạm này. Vì những lý do trên, đấu tranh phòng chống tham nhũng, hối lộ đang là mục tiêu cấp thiết và cực kỳ quan trọng đối với Đảng và Nhà nước ta. Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về 9
  10. tội nhận hối lộ để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn tham nhũng nói chung và hối lộ nói riêng là lý do cho sự cần thiết để tôi lựa chọn đề tài "Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội nhận hối lộ dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội nhận hối lộ. Xuất phát từ mục tiêu tổng quát nêu trên, nhiệm vụ cụ thể đặt ra là: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội nhận hối lộ - Nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự về tội nhận hối lộ - Nêu lên thực trạng tội nhận hối lộ ở nước ta, thực tiễn xét xử và các giải pháp nhằm đấu tranh phòng chống tội nhận hối lộ ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học và quy định pháp luật hình sự hiện hành về tội nhận hối lộ, trên cơ sở đánh giá tình trạng tội phạm và thực tiễn xét xử về tội này, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm này. Đề tài nghiên cứu về "Tội nhận hối lộ" dựa trên cơ sở của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành tại Điều 279 và những tài liệu trong phạm vi pháp luật Việt Nam có liên quan đến tội hối lộ. Ngoài ra, luận văn cũng so sánh tội nhận hối lộ với một số các tội phạm về tham nhũng khác. 4. Phương pháp nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đề tài sẽ sử dụng những phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, nghiên 10
  11. cứu luật pháp trong mối quan hệ với triết học - chính trị - xã hội học, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê - so sánh, phương pháp quy nạp - diễn dịch… Trong các phương pháp trên thì phương pháp phân tích luật giữ vai trò quan trọng nhất trong tất cả các phương pháp. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định về tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực trạng, thực tiễn xét xử và các giải pháp đấu tranh phòng chống tội nhận hối lộ ở Việt Nam hiện nay. 11
  12. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ Tham nhũng, hối lộ là căn bệnh mang tính phổ biến nhất của quyền lực. Nó xảy ra ở tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, có mặt trong mọi lĩnh vực liên quan đến hoạt động quản lý xã hội. Việt Nam coi tham nhũng hối lộ là quốc nạn, cần phải chủ động phòng ngừa và kiên quyết trừng trị bằng các biện pháp cứng rắn và mạnh mẽ. Vì vậy đấu tranh chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng và Nhà nước ta quy định từ rất sớm. Ở nước ta khái niệm tham nhũng, hối lộ cũng xuất hiện từ rất lâu thông qua thuật ngữ "quan tham, lại nhũng" tức là quan lại có các quyền hành vơ vét của cải của nhân dân để làm của riêng. Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì: "tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của cải" [36, tr. 56]. Còn theo quy định tại Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có quy định: "tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi" [21]. Như vậy có thể coi tham nhũng là việc những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham ô, hối lộ vì động cơ vụ lợi. Trong số những tội phạm về tham nhũng thì tội nhận hối lộ là một trong những loại tội phạm rất nguy hiểm, không chỉ gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước. Việt Nam coi hối lộ là "quốc nạn" cần phải chủ động phòng ngừa và trừng trị bằng các biện pháp mạnh mẽ. Việc đấu tranh chống nạn tham nhũng là cuộc đấu tranh toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó việc xử lý tội nhận hối lộ là một việc rất quan trọng. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và quyết liệt đặc biệt trong tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. 12
  13. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì "hối lộ" được hiểu là: "Lén lút đưa tiền của để nhờ kẻ có quyền làm điều trái với pháp luật nhưng có lợi cho mình" [49, tr. 736]. Còn trong tiếng Anh, hối lộ có nghĩa là "một dạng tham nhũng, là hành vi đưa tiền hoặc quà nhằm thay đổi thái độ của người nhận". Dưới góc độ chính trị, "hối lộ là một trong những loại bổng lộc của quyền lực và là một hình thức trao đổi chung giữa quyền lực và sự giàu có". Hiện tượng hối lộ đang có xu hướng xảy ra nhiều nơi, đặc biệt là những nơi thiếu sự minh bạch, đồng thời hối lộ cũng hủy hoại đạo đức và trách nhiệm của những người thực thi công vụ, làm mất lòng tin của công chúng vào hoạt động công vụ... Như vậy, chúng ta có thể thấy một điểm đặc trưng là "hối lộ" luôn thể hiện bản chất của một hiện tượng tiêu cực và gây hậu quả nặng nề đến đời sống kinh tế - xã hội. Tuy có các quan điểm tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản đều thống nhất chung về hối lộ với nội dung cơ bản như sau: Hối lộ là việc sử dụng một lợi ích nào đó tác động vào hành vi của người có chức vụ, quyền hạn để hành vi của người có chức vụ, quyền hạn diễn ra theo cách người đưa hối lộ mong muốn. Dưới góc độ khoa học luật hình sự ở nước ta, khái niệm "hối lộ" được hiểu bao gồm ba loại hành vi phạm tội tương ứng với ba tội hối lộ cụ thể: tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ. Trong đó tội phạm nhận hối lộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999: nhận hối lộ là hành vi "lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào… để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ" [20, tr. 217]. Giống như tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ cũng được Nhà nước ta quy định từ rất sớm. Tại Điều 1 Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 quy định: Công chức nhận hối lộ bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công, người phạm tội còn 13
  14. có thể bị tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Tuy nhiên trong thời kỳ này tội nhận hối lộ diễn ra ở mức độ ít nghiêm trọng hơn so với giai đoạn hiện nay. Ngay từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành và tiếp sau đó là Bộ luật hình sự năm 1999 thì các quy định về tội nhận hối lộ đã được sửa đổi bổ sung rất nhiều lần. Tuy vậy những quy định của pháp luật hình sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Vẫn còn rất nhiều trường hợp nhận hối lộ đặc biệt nghiêm trọng nhưng do các yếu tố chủ quan và khách quan nên đã không truy cứu trách nhiệm hình sự được, dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm. 1.2. ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ Về chủ thể: chủ thể của tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, cơ quan Đảng và trong các tổ chức kinh tế Nhà nước. Chủ thể của tội nhận hối lộ được thực hiện do người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng địa vị của mình để làm trái với nguyên tắc, trái với nội dung công việc được giao để nhận tiền, tài sản, hoặc lợi ích vật chất khác từ người đưa hoặc môi giới đưa hối lộ, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của công dân và thiệt hại đến lợi ích chung của toàn xã hội. Về khách thể: tội nhận hối lộ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, làm cho cơ quan nhà nước bị suy yếu, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Về chủ quan: tội nhận hối lộ được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người nhận hối lộ thấy trước được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn mong muốn và để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Về khách quan: người nhận hối lộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để làm một việc có lợi cho người đưa hối lộ và điều kiện để làm việc đó là sẽ nhận một khoản tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ người đưa hối lộ. 14
  15. Như vậy, nhận hối lộ là hành vi thu lợi bất chính cho bản thân, việc thu lợi này có thể trực tiếp hoặc thông qua trung gian để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Giữa người nhận hối lộ với người đưa hối lộ hoặc người môi giới đưa hối lộ có sự thỏa thuận trước. Thời điểm hoàn thành tội nhận hối lộ tính từ thời điểm người có chức vụ, quyền hạn đã thỏa thuận và đồng ý sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. 1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TỘI NHẬN HỐI LỘ Trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, trật tự an ninh xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn. Tình hình tham nhũng nói chung và tệ nạn nhận hối lộ nói riêng diễn ra rất phức tạp ở nhiều lĩnh vực, các vụ án được phát hiện và đưa ra xử lý ngày càng tăng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện ở số lượng tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, thất thoát, số lượng đối tượng vi phạm pháp luật ngày càng nhiều. Trong đó có nhiều cán bộ lãnh đạo đã lợi dụng chức quyền của mình để nhận tiền, tài sản… nhằm bao che cho kẻ phạm tội, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, của tổ chức xã hội, của cá nhân, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, gây mất uy tín của Đảng và Nhà nước đối với quần chúng nhân dân. Nếu như trước đây các vụ án tham nhũng, hối lộ thường xảy ra với quy mô nhỏ thì hiện nay tội phạm này đã xảy ra ở những địa bàn rộng lớn, mang tính tổ chức và có sự liên kết chặt chẽ. Thủ đoạn phạm tội ngày càng đa dạng và tinh vi. Bọn tội phạm đều lợi dụng những sơ hở trong chính sách pháp luật để phạm tội, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân, ảnh hưởng đến cơ chế hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước. Nhận thức được sự nguy hiểm của tội nhận hối lộ Đảng, Nhà nước cùng toàn thể nhân dân đã có nhiều cố gắng trong việc phát hiện, đấu tranh phòng ngừa tội nhận hối lộ. Nhưng tình hình thực tế cho thấy việc xử lý 15
  16. các trường hợp phạm tội nhận hối lộ chưa được nhiều, vẫn mang tính nhỏ lẽ, chưa thật sự là cuộc đấu tranh tương xứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm này. Do vậy, việc nghiên cứu tội nhận hối lộ có ý nghĩa to lớn nhằm đưa ra những giải pháp phòng ngừa một cách toàn diện để từ đó đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này, góp phần đẩy lùi và hạn chế đến mức thấp nhất các tội phạm về tham nhũng, hối lộ. 1.4. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.4.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Tham nhũng hối lộ là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm kể từ khi có sự phân chia giai cấp và hình thành Nhà nước. Vì vậy trong lịch sử việc đấu tranh phòng ngừa chống tham nhũng hối lộ cũng đã được giai cấp thống trị của Nhà nước Việt Nam quan tâm. Từ thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ X sau công nguyên đất nước ta chịu sự đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, do vậy ở thời kỳ này pháp luật Trung Hoa đã được áp dụng ở Việt Nam, chủ yếu là bộ luật nhà Hán và nhà Đường. Trong khoảng thời gian này các quan lại phong kiến phương Bắc đã có hành vi tham nhũng gây nên sự phẫn nộ trong dân chúng, làm dấy lên các cuộc khởi nghĩa đấu tranh của nhân dân. Để giải quyết hậu quả do tham nhũng gây nên, chính quyền đặt lệ phong hầu, cắt đất thưởng cho những người có công trấn áp phản nghịch. Nhằm hạn chế tệ nạn tham nhũng của các quan lại và sự nổi dậy của người dân thuộc địa, xoa dịu đi sự căm phẫn của nhân dân ta, Nhà Hán đã ban hành sáu điều luật quy định cấm các quan lại không được làm một số việc, ví dụ như: dùng thế lực để chiếm đoạt ruộng đất của người dân, vơ vét của cải của dân, giết hại dân… Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ nhà họ Khúc, họ Đinh và thời kì tiền Lê: khi đó Nhà nước Đại Cồ Việt được hình thành mang tính chất của 16
  17. một Nhà nước phong kiến. Do Nhà nước ta trong thời kì này còn yếu và đang bị chiến tranh nên pháp luật hình sự trong thời kỳ này chưa được ban hành. Đến khi thời nhà Lý lên nắm quyền trị nước thì Bộ luật Hình Thư mới được ban hành. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, trong bộ luật này có ghi nhận những hành vi tham nhũng của quan lại chức sắc phong kiến. Pháp luật nhà Trần từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV: trong những năm đầu nhà Trần sử dụng Bộ luật Hình Thư của nhà Lý để trị vì đất nước. Sau khi lên ngôi được 5 năm, đến năm 1230 vua Trần Thái Tông đã ban hành bộ luật mới với tên gọi Quốc triều Hình luật, đồng thời pháp luật nước ta thời kỳ này đã từng bước được hình thành và phát triển. Mặc dù trong thời gian dài chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc nhưng pháp luật Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng. Pháp luật hình sự Việt Nam thời nhà Hồ từ cuối thế kỷ XIV: Hồ Quý Ly phế truất vua Trần lập nên nhà Hồ. Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Hồ nghiêm khắc thời kỳ nhà Trần rất nhiều, nhưng do triều đại nhà Hồ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn chỉ được 7 năm (từ năm 1400 - 1407) nên chưa ban hành được bộ luật hoàn chỉnh trong thời gian này. Vào thế kỷ thứ XV, sau khi các cuộc khởi nghĩa do nhà Trần lãnh đạo bị thất bại, Lê Lợi dưới sự trợ giúp của Nguyễn Trãi đã lãnh đạo nhân dân giành chiến thắng. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ hạ lệnh "từ xưa đến nay, việc trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn". Vì thế nhà Lê rất coi trọng việc xây dựng pháp luật. Đến thời vua Lê Thái Tông đã xây dựng pháp luật với việc bổ sung một số quy tắc nhằm xét xử các vụ kiện cáo và một số quy định nghiêm cấm tệ nạn nhận hối lộ. Hoạt động lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng của nhà Lê được tiến hành thành công nhất là dưới thời vua Lê Thánh Tông. Ở triều đại Lê Thánh Tông đã xây dựng được "Quốc triều Hình luật" (còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) nổi tiếng vào năm 1483 và Hồng Đức Thiện Chính Thư là văn bản có chứa quy phạm pháp luật hình sự. 17
  18. Quốc triều Hình luật đã quy định rất chặt chẽ về hành vi tham nhũng hối lộ đồng thời đưa ra các biện pháp chế tài rất nghiêm khắc. Tại Điều 137 Bộ luật Hồng Đức quy định các tội về chức vụ như sau: "Những kẻ đến cầu cạnh với quan chủ ty việc trái pháp luật và kẻ vì người khác mà đến cầu cạnh thay, đều bị xử tội biếm hay phạt; quan chủ ty nghe theo thì phải ghép vào tội làm trái pháp luật, việc chưa thi hành thì xử tội biếm hay phạt" [46, tr. 63]. Tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 138 với khung hình phạt hết sức nghiêm khắc: Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu; từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng những người có tài được dự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 quan trở lên đến 9 quan thì xử phạt tiền 50 quan, từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 quan đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho [46, tr. 64]. Tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 140 Bộ luật Hồng Đức: Những người đưa hối lộ mà xét ra việc của họ có trái lẽ, thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật oan khổ vì muốn cho khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người không phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ hai bậc [46, tr. 65]. Pháp luật hình sự nhà Lê là khá hoàn chỉnh, đã phản ánh được những đặc điểm của xã hội lúc bấy giờ. Trong công cuộc lập pháp thì Quốc triều Hình luật được xem là bộ luật quan trọng nhất và có giá trị lịch sử trong khoảng thời gian từ năm 1429 - 1789 và được coi là đỉnh cao của những thành tựu lập pháp trong các triều đại trước đó. Ở thế kỷ XVI, XVII, XVIII diễn ra các cuộc chiến tranh giữa nhà Trịnh - Mạc, rồi đến cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn. Sau đó quân Tây Sơn đã 18
  19. tiêu diệt ba tập đoàn Lê, Trịnh, Nguyễn trong nước và đánh thắng quân xâm lược Xiêm - Thanh để thống nhất đất nước. Trong khoảng thời gian triều đại Tây Sơn trị vì đất nước, Quốc triều Hình luật được sử dụng như một bộ luật chính thống nhưng được sửa đổi trong một số lĩnh vực kinh tế, tài chính. Những hành vi tham nhũng, hối lộ được coi là tội phạm vẫn bị xử lý theo điều luật được quy định trong Quốc triều Hình Luật. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn lên ngôi vua. Trong khoảng thời gian này Nguyễn Ánh rất quan tâm đến việc xây dựng pháp luật. Vua giao cho tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành biên soạn "Hoàng Việt Luật lệ" (gọi là Bộ luật Gia Long) đến năm 1811 thì hoàn thành và có hiệu lực từ năm 1813. Bộ luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều. Chương "Hình luật" chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như "Hộ luật" chỉ có 66 điều còn "Công luật" chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội tuyên truyền "yêu ngôn, yêu thư". Tuy nhiên, Bộ luật cũng đề cao việc chống tham nhũng và đặt ra nhiều điều luật nghiêm khắc để trừng trị tham quan. Tất nhiên, đến các đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa và cải tiến nhiều, nhất là dưới thời vua Minh Mạng. Để bảo đảm hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước phong kiến, pháp luật hình sự thời nhà Nguyễn đã giành tới 9 Điều quy định về tội nhận của đút lót như Điều 312 quan lại nhận của tiền, Điều 314 nhận của tiền sau khi xong việc. Đáng chú ý, pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn đã cấm quan lại không được mua sắm ruộng, nhà tại địa phương nơi mình làm việc. Từ phân tích trên cho thấy pháp luật hình sự thời nhà Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật hình sự phong kiến Trung Quốc rất nặng nề, nhưng cũng đã tiếp thu được giá trị lập pháp hình sự của thời kỳ nhà Lê và bên cạnh đó có những 19
  20. sáng tạo nhất định thể hiện kỹ thuật lập pháp hình sự ở trình độ cao so với các nước trong khu vực. Như vậy, từ thời phong kiến trên phương diện pháp luật thì vấn đề đấu tranh chống những hành vi tham nhũng, hối lộ đã được đặt ra. Tuy nhiên, việc đấu tranh chống tham nhũng ở nhà nước phong kiến vẫn còn những hạn chế nhất định. Đây cũng là một đặc điểm của Nhà nước phong kiến mà ở đó vẫn tồn tại chế độ bóc lột. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược năm 1858: Pháp thực hiện chính sách "chia để trị", chia đất nước Việt Nam thành ba sứ với ba chế độ chính trị khác nhau. Bắc Kỳ là đất nước nửa bảo hộ đặt dưới quyền cai trị của viên thống sứ người Pháp. Ở Trung Kỳ triều đình bù nhìn vẫn được duy trì với danh hiệu "chính phủ Nam Triều" nhưng quyền hành thực tế nằm trong tay viên khâm sứ người Pháp là chủ tịch Hội đồng bảo hộ Trung Kỳ. Ở Nam Kỳ là đất nước thuộc địa, không còn phụ thuộc vào triều đình Huế. Tại Nam Kỳ theo Điều 11 sắc luật ngày 25/7/1884 Bộ luật Gia Long được áp dụng đối với người phạm tội là người bản xứ, trong sắc lệnh ngày 16/3/1890 thực dân Pháp quy định từ thời điểm này các tòa án ở Nam kỳ phải áp dụng luật hình sự của Pháp thay cho Bộ luật Gia Long, ngoại trừ trường hợp luật hình sự của Pháp chưa dự liệu được. Ở Bắc Kỳ, nghị định ngày 02/12/1921 của toàn quân Đông Dương đã cho áp dụng luật hình An Nam. Ở Trung Kỳ, sắc lệnh số 43 ngày 31/7/1893 của Bảo Đại đã ban hành Hoàng Việt Luật. Trong Luật hình An Nam gồm 40 chương với 233 điều đã dành Chương XI quy định về những người chức dịch phạm tội, trong đó quy định tội nhận hối lộ tại Điều 71: Những người chức dịch nhận những của lót hay nhận lời hứa của người ta, hay là lễ trình để làm những việc thuộc về chức phận mình phải làm, mà việc ấy chiếu lệ không được lấy tiền. Hay là đã nhận tiền, nhận lời mà bỏ không làm phận sự mình nên làm, xét ra quả có chứng cớ, phải phạt giam từ 1 đến 5 năm và phạt bạc từ 80 đồng đến 120 đồng, lại phải cấm quyền công dân. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2