intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội phạm và dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

20
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cở sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu vấn đề tội phạm và dẫn độ tội phạm xâm phạm đến hoạt động hàng không dân dụng quốc tế trong các Điều ước quốc tế đa phương và những Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, Hiệp định về dẫn độ tội phạm, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định về dẫn độ tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội phạm và dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ QUYÊN TỘI PHẠM VÀ DẪN ĐỘ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ QUYÊN TỘI PHẠM VÀ DẪN ĐỘ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Bính HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §ç ThÞ Quyªn 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 8 1.1. Tội phạm hàng không quốc tế 8 1.1.1. Khái niệm tội phạm hàng không quốc tế 8 1.1.2. Khủng bố hàng không quốc tế 11 1.1.3. Đặc điểm của tội phạm hàng không quốc tế 16 1.1.4. Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ 17 1.1.5. Những quy định pháp luật về tội phạm xâm phạm an ninh 19 hàng không dân dụng quốc tế 1.2. Một số vấn đề lý luận chung về dẫn độ tội phạm 26 1.2.1. Khái niệm dẫn độ 26 1.2.2. Đặc điểm của dẫn độ 29 1.2.3. Mục đích, căn cứ của dẫn độ 32 1.2.4. Đối tượng bị dẫn độ 33 1.2.5. Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự và dẫn độ để chấp 35 hành hình phạt 1.3. Pháp luật Việt Nam về dẫn độ tội phạm 36 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM HÀNG 44 KHÔNG QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ DẪN ĐỘ LOẠI TỘI PHẠM NÀY 2.1. Những quy định về tội phạm trong lĩnh vực hàng không trong 44 một số điều ước quốc tế 2.1.1. Công ước Tokyo năm 1963 về tội phạm và một số hành vi 44 khác thực hiện trên tàu bay 4
  5. 2.1.2. Công ước Lahay năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất 45 hợp pháp tàu bay 2.1.3. Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất 46 hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng 2.1.4. Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi 49 bạo lực bất hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế 2.2. Thẩm quyền xét xử tội phạm hàng không quốc tế theo các 50 điều ước quốc tế 2.2.1. Nguyên tắc xác định thẩm quyền 50 2.2.2. Quy định về việc xác định thẩm quyền xét xử đối với tội phạm 52 hàng không quốc tế trong các điều ước quốc tế về an ninh hàng không dân dụng 2.2.3. Những quy định về chế tài 54 2.2.4. Chế tài, biện pháp xử lý tội phạm hàng không dân dụng theo 56 pháp luật Việt Nam 2.3. Quy định pháp luật về dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng 57 không quốc tế 2.3.1. Nguồn của chế định dẫn độ tội phạm 57 2.3.2. Các nguyên tắc pháp luật về dẫn độ tội phạm 59 2.3.3. Cơ sở pháp lý của dẫn độ 62 2.3.4. Thủ tục dẫn độ người phạm tội 63 2.3.5. Các quy định đặc biệt liên quan đến thủ tục dẫn độ 69 2.3.6. Quy định về dẫn độ trong pháp luật một số quốc gia 72 2.3.7. Dẫn độ tội phạm hàng không quốc tế theo những quy định tại 73 Điều ước quốc tế Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 75 NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM VÀ DẪN ĐỘ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ 3.1. Những quy định trong pháp luật Việt Nam về tội phạm hàng 75 không quốc tế 5
  6. 3.2. Dẫn độ tội phạm xâm phạm an ninh hàng không dân dụng 78 quốc tế. Thực tiễn tại Việt Nam 3.3. Sự cần thiết của việc gia nhập các điều ước quốc tế đa phương 81 về an ninh hàng không; điều ước quốc tế về chống khủng bố nói chung và chống khủng bố hàng không dân dụng nói riêng 3.4. Một số kiến nghị và giải pháp 84 3.4.1. Tiếp tục đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế 84 3.4.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật quốc gia về tội phạm, dẫn 84 độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế 3.4.3. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, phổ biến 86 các quy định về an ninh hàng không tại các càng hàng không 3.4.4. Hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực; trao đổi, học 86 hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới 3.4.5. Tăng cường quản lý chặt chẽ vũ khí, vật liệu nổ 87 3.4.6. Thành lập lực lượng Cảnh sát hàng không dân dụng có nhiệm 87 vụ đảm bảo an toàn cho tàu bay và các chuyến bay KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia đã phát sinh yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Song bên cạnh mặt tích cực còn có những mặt tiêu cực đó là việc nảy sinh một số loại tội phạm mới có tính chất ngày càng phức tạp, nguy hiểm, sử dụng những phương tiện phạm tội hiện đại với nhiều phương thức, thủ đoạn mới hết sức tinh vi. Đặc biệt là những hành vi phạm tội trong lĩnh vực hàng không quốc tế như: hành vi đe dọa đặt bom, mìn, vũ khí sinh học và hóa học trên tàu bay đang bay; các hành vi phá hoại tàu bay, cảng hàng không, sân bay...gây thiệt hại vô cùng to lớn về người, tài sản và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động hàng không dân dụng quốc tế. Trước tình hình đó, nhằm ngăn chặn, trừng trị những hành vi phạm tội cũng như ngăn chặn người phạm tội bỏ trốn ra nước ngoài nhằm trốn tránh trách nhiệm hình sự hoặc trốn tránh việc thi hành án của người phạm tội, các quốc gia trên thế giới đã nhanh chóng thiết lập một khung pháp luật quốc tế nhằm mục đích ngăn chặn và trừng trị một cách có hiệu quả loại tội phạm này. Các điều ước quốc tế đa phương và song phương tạo cơ sở pháp lý để các quốc gia cùng nhau hợp tác, hỗ trợ nhau trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế nói riêng. Bên cạnh đó, các quốc gia đã cùng nhau ký kết những Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự có những quy phạm quy định về vấn đề dẫn độ tội phạm và Hiệp định về dẫn độ tội phạm riêng biệt nhằm mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc đấu tranh, ngăn ngừa và trừng trị kẻ phạm tội. Đối với Việt Nam, cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quốc gia, Việt Nam đã ký kết một số điều ước quốc tế đa phương liên 7
  8. quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế. Một trong những quy định quan trọng trong những điều ước đó chính là việc quy định những hành vi phạm tội, trách nhiệm của các nước thành viên trong việc xử lý người phạm tội, xác định thẩm quyền xét xử đối với tội phạm hàng không quốc tế và vấn đề dẫn độ loại tội phạm này. Để thực thi có hiệu quả, tạo khung pháp lý thuận lợi hơn cho việc dẫn độ tội phạm hàng không quốc tế, Việt Nam đã ký kết với các quốc gia những Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, Hiệp định về dẫn độ tội phạm. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng làm cơ sở cho việc thực hiện hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế giai đoạn hiện nay. Trước yêu cầu cải cách tư pháp và hợp tác quốc tế, việc nhận thức thống nhất về vấn đề tội phạm xâm phạm an ninh hàng không quốc tế và vấn đề dẫn độ tội phạm là cần thiết khách quan không chỉ với người nghiên cứu lý luận về khoa học pháp lý mà còn đối với những người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Tội phạm và dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Hợp tác quốc tế về vấn đề dẫn độ tội phạm trong tố tụng hình sự là vấn đề quan trọng và nhạy cảm, đã được một số nhà luật học ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu như: Trên bình diện quốc tế, trên thế giới đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề dẫn độ của các tác giả có uy tín lớn trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Các công trình tiêu biểu đã được xuất bản thành sách, giáo trình, sách chuyên khảo hoặc những bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học pháp lý như: André (1880), "Nghiên cứu về các điều kiện dẫn độ", nhà xuất bản L.Larose; Maurice Violet (1898), "Thủ tục dẫn độ, đặc 8
  9. biệt tại lãnh thổ nước tị nạn", nhà xuất bản Giard & Brière; Charles Soldan (1882), "Dẫn độ tội phạm chính trị", Nhà xuất bản Thorin; Maulineau (1879), "Hậu quả pháp lý của dẫn độ", Nhà xuất bản F, Le Blanc - Hardel; Paul Bernard (1890), "Lý luận và thực tiễn dẫn độ", tái bản lần 2, Nhà xuất bản Duchemin; Ivan Anthony Shearer (1971), "Dẫn độ trong luật quốc tế", nhà xuất bản Manchester University Press Dobbs Ferry, N.Y; Oceana Publications Kalfat (1987), "Áp dụng các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia trong dẫn độ bị động", Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự, Đại học Paris 2; Ducel (André) (1988), "Nghiên cứu so sánh thực tiễn dẫn độ của Pháp với các nước Anh - Mỹ", luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học Monpellier I; Ép. Ringel (1988), "Tội phạm chính trị trong pháp luật về dẫn độ", luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học Aix-Marseille; Ingeade (1988), "Chế độ pháp lý của dẫn độ trong khuôn khổ của Hội đồng Châu Âu", luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học Monpellier I; Gilbert.G (1991), "Luật dẫn độ và vấn đề quyền con người", Nhà xuất bản Martimes Nijhoff; Claudin DIB (2008), "Dẫn độ và trừng phạt độc ác, vô nhân đạo và các giải pháp khả dĩ tại Canada", Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Quebec, Montreal, Canada. Ở Việt Nam, từ cuối thế kỷ XX đến nay đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu độc lập về tội phạm hàng không, về dẫn độ, về hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, về hợp tác tương trợ tư pháp quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự nói riêng đã được công bố trong các cuốn sách chuyên khảo, tham khảo hoặc đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành khoa học pháp lý tiêu biểu là công trình của các tác giả: Nguyễn Ngọc Anh (2000), "Hoạt động dẫn độ tội phạm theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 5; Dương Tuyết Miên (2006), "Vấn đề dẫn độ tội phạm", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10; Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Việt Hồng, Phạm Văn Công (2006), "Dẫn độ 9
  10. những vấn đề lý luận và thực tiễn", Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Đào Thị Hà (2006), "Vấn đề dẫn độ trong pháp luật Việt Nam", luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thủy (2007), "Một số vấn đề về dẫn độ tội phạm", Tạp chí Kiểm sát, số 16; Nguyễn Xuân Yêm (2000), "Dẫn độ tội phạm, tương trợ pháp lý về hình sự và chuyển giao phạm nhân quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Xuân Yêm (2000), "Dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1; Nguyễn Thị Mai Nga (2007), "Dẫn độ tội phạm và hoạt động tương trợ tư pháp của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án ma túy có yếu tố nước ngoài", Tạp chí Kiểm sát, số 16; Nguyễn Ngọc Anh, Bùi Anh Dũng (2007), "Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Chử Văn Dũng (2008), "Hoạt động INTERPOL trong thực hiện tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam", luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân; Đại học Cảnh sát nhân dân (2009), "Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng cảnh sát nhân dân - Lý luận và thực tiễn", đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, mã số: BX-2008-T48-23; Nguyễn Giang Nam (2011), "Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài", luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân; Nguyễn Long, "Pháp luật quốc tế về chống khủng bố, một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Hà Nội, 2003; Công Vũ Phương, "Khủng bố quốc tế cơ sở pháp lý quốc tế ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế", Hà Nội, 2003; Nguyễn Thị Yên, "Khủng bố hàng không quốc tế là một loại hình khủng của khủng bố quốc tế", tạp chí Khoa học pháp luật, số 8/2002; Trần Nam Trung (2010), "Khủng bố hàng không trong luật quốc tế hiện đại, thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Luật học, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Văn Bính, "Vai trò của Liên hợp quốc trong đấu tranh chống 10
  11. khủng bố", Tạp chí Khoa học Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, tập 25, số 4 và "Khái niệm khủng bố dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu", Tạp chí Khoa học Luật học, 2011, tập 27, số 1; Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), "Khủng bố quốc tế và vai trò của Luật quốc tế trong đấu tranh chống khủng bố", Đề tài đặc biệt Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số QG.09.44. Các đề tài trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về vấn đề tội phạm hàng không quốc tế, vấn đề lý luận cơ bản về dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật quốc gia cũng như thực tiễn ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế và pháp luật về dẫn độ của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, về nguyên tắc của dẫn độ; phân biệt dẫn độ với các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; đối tượng, phạm vi và thủ tục dẫn độ…Nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu và có hệ thống về tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế và vấn đề dẫn độ loại tội phạm này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Trên cở sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu vấn đề tội phạm và dẫn độ tội phạm xâm phạm đến hoạt động hàng không dân dụng quốc tế trong các Điều ước quốc tế đa phương và những Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, Hiệp định về dẫn độ tội phạm, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định về dẫn độ tội phạm. * Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm sáng tỏ khái niệm về tội phạm và dẫn độ tội phạm; trình tự, thủ tục thực hiện việc dẫn độ tội phạm. - Phân tích làm rõ sự hình thành và phát triển của quy định trong pháp luật quốc tế về vấn đề tội phạm và dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế. 11
  12. - Làm rõ quy định về tội phạm trong lĩnh vực hàng không và những quy định dẫn độ loại tội phạm này trong pháp luật Việt Nam; thực tiễn thực hiện việc dẫn độ ở nước ta. - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về vấn đề dẫn độ tội phạm. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn được xây dựng trên cơ sở quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, và hợp tác trong dẫn độ tội phạm nói riêng. - Cơ sở thực tiễn của luận văn là: Các công ước quốc tế về lĩnh vực hàng không quốc tế (Công ước Tokyo năm 1963 về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay; Công ước LaHay năm 1970 về trấn áp hành vi chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay; Công ước Montreal năm 1971 về trấn áp hành vi bất hợp pháp xâm phạm an toàn hàng không dân dụng quốc tế và Nghị định thư Montreal năm 1988 về trấn áp các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế (bổ sung cho Công ước Montreal năm 1971); Các báo cáo tổng kết, số liệu về hợp tác quốc tế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cách công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố... - Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn. Việc nghiên cứu đề tài cũng sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp… 5. Những đóng góp mới của luận văn - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế và những quy định dẫn độ loại tội phạm này. 12
  13. - Phân tích làm rõ trình tự, thủ tục thực hiện việc dẫn độ tội phạm xâm phạm hoạt động hàng không quốc tế trong một số điều ước quốc tế. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về vấn đề dẫn độ loại tội phạm này; - Kết quả nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung Chương 2: Các quy định pháp luật về tội phạm hàng không quốc tế và vấn đề dẫn độ loại tội phạm này. Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định pháp luật về tội phạm và dẫn độ tội phạm trong lĩnh vực hàng không quốc tế. 13
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. TỘI PHẠM HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ 1.1.1. Khái niệm tội phạm hàng không quốc tế Trên cơ sở thực tiễn và dựa vào các công ước quốc tế về an ninh hàng không, có thể phân chia các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh hàng không dân dụng quốc tế thành hai loại: * Loại thứ nhất: Gồm các hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay, gồm: Một là, hành vi đe dọa của kẻ phạm tội đối với phi hành đoàn hoặc hành khách bằng vũ khí, bắt thay đổi đường bay, hạ cánh xuống lãnh thổ của nước khác nhằm trốn chạy khỏi sự truy tìm của nhà nước đối với hành vi phạm tội hoặc trốn chạy khỏi đồng bọn của chúng. Hai là, hành vi chiếm đoạt tàu bay nhằm vào lợi ích vật chất hoặc lợi ích kinh tế. * Loại thứ hai: Gồm các hành vi khác đe dọa an ninh hàng không dân dụng như: Một là, thực hiện hành vi bạo lực đối với một người trên tàu bay trong khi tàu bay đang bay nếu như hành động này gây nguy hiểm đến an toàn của tàu bay đó. Hai là, đặt hoặc chỉ đạo đặt vào tàu bay đang bay, dù bằng bất cứ phương thức nào, một thiết bị hoặc chất sẽ phá hủy tàu bay hoặc gây thiệt hại cho tàu bay, dẫn đến làm mất khả năng bay, hoặc làm hỏng tàu bay dẫn đến mất an toàn của tàu bay đang bay. Ba là, phá hủy hoặc làm hỏng phương tiện dẫn đường hàng không hoặc cản trở hoạt động của các thiết bị đó, nếu bất kỳ một hành động nào như vậy sẽ gây mất an toàn của tàu bay đang bay. Bốn là, chuyển những thông tin mà biết là sai trái, từ đó gây nguy hại đến an toàn của tàu bay đang bay. 14
  15. Năm là, sử dụng bạo lực chống lại người đang làm nhiệm vụ dịch vụ hàng không mà gây ra thương tích nặng hoặc tử vong. Sáu là, phá hủy hoặc làm thiệt hại nghiêm trọng các trang thiết bị hàng không hoặc tàu bay đậu tại đó, nếu những hành vi này gây nguy hại hoặc có thể gây nguy hại tới an ninh của sân bay. Xem xét các quy định về tội phạm hàng không trong các điều ước quốc tế về an ninh hàng không, có thể thấy được sự phát triển ngày một hoàn thiện của những quy định về tội phạm hàng không quốc tế: Trong Công ước Tokyo 1963 về an ninh hàng không thì tội phạm hàng không được hiểu là hành vi cướp máy bay (không tặc). Đến Công ước LaHay 1970 và Công ước Montreal 1971, quy định về tội phạm hàng không đã được mở rộng, bao gồm cả những hành vi cưỡng đoạt tàu bay, làm hư hỏng tàu bay, những hành vi thực hiện đối với người, trang thiết bị tại các sân bay, ảnh hưởng đến an toàn bay. Ngay cả những hành vi đe dọa dùng vũ lực đối với một người trên tàu bay cũng bị coi là tội phạm hàng không quốc tế. Nguyên nhân chủ yếu của việc mở rộng khái niệm này là do thời kỳ cuối những năm 60 thế giới trong tình trạng căng thẳng về nạn dịch đe dọa hàng không quốc tế như bắt cóc, đánh bom, mìn, đưa chất cháy, nổ vào tàu bay…nhằm vào tổng thể hoạt động hàng không của ngành hàng không, trong khi đó Công ước Tokyo 1963 còn hạn chế, quy định chưa cụ thể, chưa rõ ràng, Công ước Tokyo 1963 có ghi nhận hành vi chiếm đoạt tàu bay là hành vi bất hợp pháp nhưng lại không coi hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay là hành vi tội phạm hay vi phạm hành chính. Đó cũng là kết quả của sự thỏa thuận giữa các quốc gia trong thời kỳ chiến tranh lạnh, là đặc trưng của luật quốc tế so với luật quốc gia, khi thỏa thuận xây dựng các quy định pháp luật quốc tế thường bị chi phối bởi tổng thể lợi ích giữa các quốc gia. Công ước LaHaye 1970 và Công ước Montreal 1971 đã khắc phục được hạn chế của Công ước Tokyo 1963. Tuy nhiên, việc quy định tội phạm hàng không quốc tế trong pháp luật của mỗi quốc gia còn khác nhau. Chẳng hạn, hành vi cợt nhả, trêu ghẹo, 15
  16. khiếm nhã của hành khách đối với nữ tiếp viên hàng không trên máy bay trong luật hình sự của một số nước không định danh cụ thể đây là hành vi phạm tội, song một số nước lại xác định đây là hành vi quấy rối tình dục. Hành vi trộm cắp hoặc đánh nhau giữa các hành khách trên máy bay có thể được quy định trong luật hình sự của một số quốc gia. Những hành vi này trái với các luật lệ, quy định về hàng không, vi phạm trật tự và kỷ luật hàng không: "Các hành vi phạm tội hay không phạm tội có thể gây nguy hiểm cho an toàn của tàu bay hoặc của người hay tài sản trên tàu bay hoặc nguy hiểm cho trật tự và kỷ luật trên tàu bay" (điểm b, khoản 1 Điều 1 Công ước Tokyo 1963 về an ninh hàng không). Do vậy, có sự khác nhau trong quy định về tội phạm hàng không trong pháp luật của các quốc gia. Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Điều 8 đã định nghĩa khái niệm tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [39]. Định nghĩa tội phạm trên đây là định nghĩa có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Định nghĩa này là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể, là cơ sở cho việc áp dụng đúng đắn những điều luật quy định về từng tội phạm cụ thể. Như vậy, tội phạm hàng không quốc tế theo tác giả có thể được định nghĩa như sau: Tội phạm hàng không quốc tế là những hành vi xâm phạm đến sự an 16
  17. toàn của tàu bay hoặc của người, tài sản trên tàu bay hoặc gây nguy hiểm cho trật tự, kỷ luật trên tàu bay. 1.1.2. Khủng bố hàng không quốc tế Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cần thiết vì có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này. Hiện nay, mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố. Trong 13 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu tranh chống khủng bố hiện nay chỉ có ba Công ước trực tiếp nhắc đến khái niệm "khủng bố" (Terrorism) ngay tại tiêu đề, đó là: Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom (Internationail conternation for the suppression of terrorist bombings); Công ước New York năm 1999 về trừng trị việc tài trợ khủng bố (International convention for the suppression of the financing of terrorism); Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân (International convention for the suppression of acts of nuclear terrorism). Các công ước còn lại quy định về những tội phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi như biểu hiện của khủng bố quốc tế. Trong ba công ước quốc tế nhắc đến khái niệm "khủng bố" ngay tại tiêu đề chỉ có Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố đưa ra được định nghĩa chung về khủng bố, các công ước còn lại chỉ đưa ra định nghĩa về từng loại hành vi khủng bố cụ thể. Công ước New York năm 1999 bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực cũng không đưa ra được định nghĩa khủng bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống khủng bố lại dẫn ra những hành vi được quy định tại 13 Công ước quốc tế đa phương của Liên hợp quốc. Ví dụ, Công ước của Châu Âu về chống khủng bố năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành vi thuộc phạm vi điều 17
  18. chỉnh của Công ước, yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội phạm hóa, đó là các hành vi được nêu trong Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay; Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng. Tháng 11 năm 2007 tại Cebu, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Công ước chung về chống khủng bố (ASEAN Convention on Counter Terrorism). Tại Điều 2 Công ước này quy định về "Những hành vi phạm tội khủng bố" đã ghi nhận các hành vi theo 13 Công ước đa phương về đấu tranh chống khủng bố trong khuôn khổ Liên hợp quốc; Đối với các mục đích của Công ước này, tội phạm có nghĩa là bất kỳ hành vi phạm tội trong phạm vi được liệt kê như sau: - Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay. - Công ước Montreal năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng. - Công ước New York năm 1973 về ngăn chặn và trừng trị các tội phạm chống lại những người được bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao. - Công ước New York năm 1977 về chống bắt cóc con tin. - Công ước Viên năm 1979 về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân. - Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế. - Công ước Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình cố định trên thềm lục địa. - Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom. - Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ cho khủng bố. - Công ước Viên năm 2005 (sửa đổi Công ước Viên năm 1980) về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân. - Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố bằng hạt nhân. 18
  19. - Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành vi phi pháp chống lại an toàn hàng hải. - Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình trên thềm lục địa ký tại London ngày 14 tháng 10 năm 2005. Như vậy, hiện nay cộng đồng quốc tế vẫn chưa đưa ra được định nghĩa chung hoàn chỉnh về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số hành vi nhất định là khủng bố và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống lại các hành vi này Trong những năm gần đây, hoạt động khủng bố có xu hướng gia tăng với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi và tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Khủng bố có tổ chức xuyên quốc gia đang trở thành thách thức lớn đối với hòa bình, an ninh quốc tế. Vì vậy, hợp tác đấu tranh phòng, chống khủng bố là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia và vùng lãnh thổ. Do tính chất nguy hiểm và phạm vi hoạt động xuyên quốc gia của tội phạm khủng bố nên một trong những biện pháp hữu hiệu mà cộng đồng quốc tế rất quan tâm là xác lập cơ sở pháp lý quốc tế cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố. Ngoài các điều ước quốc tế đa phương về chống khủng bố quốc tế còn có một số văn kiện pháp lý quốc tế của Liên hợp quốc như Tuyên bố bổ sung về các biện pháp thanh toán khủng bố quốc tế năm 1994; Đặc biệt, sau sự kiện 11/9/2001 xảy ra tại New York, Hoa Kỳ, Liên hợp quốc đã ra ba nghị quyết và ba tuyên bố về khủng bố quốc tế...và một số điều ước khu vực, như Công ước châu Âu về trừng trị khủng bố năm 1977, Công ước chống khủng bố của Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS) năm 2002, Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007. Khái niệm khủng bố theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: khủng bố là hoạt động phá hoại, đe dọa bằng lời nói, hoặc truyền đi các hình ảnh hoặc video giết người do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện làm thiệt mạng người, gây 19
  20. hoang mang khiếp sợ hoặc tổn thất cho xã hội và cộng đồng, nhằm mục đích chính trị hoặc tôn giáo. Khái niệm khủng bố trong Từ điển Công an nhân dân năm 2006: "Khủng bố là dùng biện pháp tàn bạo làm cho khiếp sợ để hòng khuất phục. Khủng bố tinh thần" [4, tr. 97]. Trong lịch sử hàng không quốc tế, đã xảy ra nhiều vụ khủng bố hàng không quốc tế lớn. Chẳng hạn như: Năm 1974 tại LaHay (Hà Lan) đã xảy ra sự kiện ba người Nhật Bản có vũ trang đã tấn công cơ quan đại diện ngoại giao của Pháp tại LaHay và bắt giữ một số người làm con tin tại cơ quan đại diện này. Chúng yêu cầu Chính phủ phải thả tù nhân và nộp tiền chuộc con tin. Nhà cầm quyền không những thỏa mãn yêu sách của những kẻ phạm tội (đòi thả tù nhân và nộp tiền chuộc) mà còn phải cung cấp cho chúng tàu bay và phi hành đoàn, sau đó chúng hạ lệnh bay sang Siri. Khủng bố bằng máy bay đã diễn ra từ rất lâu, nhưng đến những năm 80 của thế kỷ trước nó mới thực sự bùng nổ mạnh mẽ và gây thiệt hại rất nặng nề. Vụ khủng bố chuyến bay 182 của Air India (Hãng hàng không Ấn Độ) có thể coi là vụ thiệt hại lớn đầu tiên. Ngày 23/6/1985, chiếc máy bay Boeing 747-237B khởi hành từ sân bay quốc tế Montreal - Mirabel (Canada), quá cảnh ở London và đến sân bay quốc tế Indira Gandhi (Ấn Độ). Tuy nhiên, khi bay tới không phận Ireland, nó đã bị đánh bom và đâm xuống Đại Tây Dương. Toàn bộ 329 người trên chuyến bay 182 đều thiệt mạng, trong đó có 268 người Canada, 27 công dân Anh và 24 người Ấn Độ. Đau buồn hơn là chỉ một nửa số xác những người thiệt mạng được tìm thấy. Đặc biệt là vụ khủng bố kinh hoàng ngày 11/9/2001 của mạng lưới khủng bố do Osama bin Laden lãnh đạo nhằm vào nước Mỹ, mười chín tên không tặc chiếm quyền kiểm soát bốn máy bay thương mại đang trên đường từ Boston, Newark và Washington D.C tới San Francisco và Los Angeles đâm vào tòa tháp phía bắc và phía nam của Trung tâm thương mại thế giới 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2