intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

20
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phản bội Tổ quốc, tác giả đề xuất những giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc và kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật về tội phạm này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THU HẰNG TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THU HẰNG TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Quang Tiệp Hµ néi - 2009
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC 6 TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tội phản bội Tổ quốc và ý nghĩa của việc ghi nhận 6 tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam 6 1.1.2. Ý nghĩa của việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật 10 hình sự Việt Nam 1.2. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển những quy định về 12 tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ 12 quốc trong thời kỳ phong kiến đến trước thời kỳ Pháp thuộc 1.2.2. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ 16 quốc trong thời kỳ Pháp thuộc 1.2.3. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ 18 quốc từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành 1.2.4. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội 25 Tổ quốc từ khi Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành cho đến nay 1.3. Những quy định về tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật hình 28 sự ở một số nước trên thế giới 1.3.1. Vương quốc Thụy Điển 29 1.3.2. Liên bang Nga 31 1.3.3. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 33 1
  4. 1.3.4. Nhật Bản 36 Chương 2: TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC TRONG LUẬT HÌNH SỰ 39 VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phản bội Tổ quốc 39 trong pháp luật hình sự Việt Nam 2.1.1. Khách thể của tội phản bội Tổ quốc 40 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm 42 2.1.3. Chủ thể của tội phản bội Tổ quốc 45 2.1.4. Mặt chủ quan của tội phản bội Tổ quốc 48 2.2. Hình phạt đối với tội phản bội Tổ quốc 49 2.3. Thực tiễn xét xử tội phản bội Tổ quốc ở Việt Nam từ năm 58 1975 đến nay Chương 3 : HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC 74 ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC 3.1. Những yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp 74 luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc trong thời kỳ hiện nay 3.2. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội phản 75 bội Tổ quốc 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của pháp 80 luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ quốc 3.3.1. Giải pháp phòng ngừa 80 3.3.2. Giải pháp chủ động và kịp thời phát hiện, đấu tranh chống tội 83 phản bội Tổ quốc 3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối 86 với tội phản bội Tổ quốc 3.3.4. Giải pháp tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an ninh 88 quốc gia, an ninh đất nước 2
  5. KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 3
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, trung thành với giai cấp, dân tộc, kiên định, vững vàng trước mọi thách thức, sáng suốt lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta tiến lên. Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta vẫn quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, cần có sự thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng đồng lòng, nhất trí thực hiện mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đề ra. Những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới, âm mưu của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực chính trị tư tưởng đã tác động không nhỏ đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề cập đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh sự cần thiết của việc "tăng cường an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập". Vì vậy, cần nắm vững đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước để xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Trong số các tội xâm phạm an ninh quốc gia, chúng ta không thể không đề cập tội phản bội Tổ quốc, vì đây là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm đã được pháp luật hình sự Việt Nam quy định từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám thành công. Từ năm 1945 đến nay, tình hình tội phản bội Tổ 4
  7. quốc diễn biến phức tạp, nhưng xu hướng chung là giảm dần. Thực tiễn xét xử tội phản bội Tổ quốc đã đặt ra không ít vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự cần phải nghiên cứu giải quyết như khái niệm Tổ quốc, khái niệm tội phản bội Tổ quốc, hình phạt được áp dụng đối với loại tội phạm này... Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, xung quanh những vấn đề trên còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam" là vấn đề mang tính cấp thiết, không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tội phản bội Tổ quốc là loại tội phạm có tính chất đặc biệt nguy hiểm và phức tạp trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia, được một số nhà luật học đề cập trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II, của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, 1998), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản 1997). Bên cạnh đó, PGS.TS Kiều Đình Thụ cũng đã có bài viết: "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, lịch sử, thực trạng và phương hướng hoàn thiện", trong đó có đề cập tội phản bội Tổ quốc (Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp), TSKH.PGS Lê Cảm chủ biên cuốn sách: "Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền", (Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007), trong đó có đề cập tội phản bội Tổ quốc. Sau khi Bộ luật Hình sự năm 1999 được ban hành, tội phản bội Tổ quốc tiếp tục được đề cập trong Giáo trình Luật hình sự, của Trường Đại học 5
  8. Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân dân năm 2000), Giáo trình Luật hình sự (phần các tội phạm), của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (phần các tội phạm), của Nguyễn Mai Bộ, Phùng Thế Vắc, Nguyễn Đức Mai, LS.ThS Phạm Thanh Bình, ThS. Nguyễn Sĩ Đại,... (Nxb Công an nhân dân, 2001). Tuy nhiên, trong các công trình trên, các nhà luật học chỉ đề cập một cách khái quát về tội phản bội Tổ quốc dưới góc độ luật hình sự hoặc tội phạm học, chưa có công trình nào nghiên cứu về tội phản bội Tổ quốc một cách toàn diện và có hệ thống. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phản bội Tổ quốc, tác giả đề xuất những giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc và kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật về tội phạm này. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đặt ra, tác giả đặt ra cho mình những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây: - Phân tích, làm rõ lịch sự hình thành và phát triển những quy định về tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam. - Làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật hình sự; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc; làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết. 6
  9. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội phản bội Tổ quốc. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội phản bội Tổ quốc dưới góc độ pháp lý hình sự, trong thời gian 33 năm từ năm 1975 đến năm 2008. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và về xây dựng pháp luật Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội phản bội Tổ quốc; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan bảo vệ pháp luật về tội phạm này. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, lịch sử, lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh pháp luật, điều tra xã hội... 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về tội phản bội Tổ quốc dưới góc độ pháp lý 7
  10. hình sự. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam. - Phân tích, đánh giá những quy định về tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc và thực tiễn áp dụng, nêu lên những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc. 7. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển khoa học luật hình sự nói chung, về tội phản bội Tổ quốc nói riêng. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 96 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục. 8
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC GHI NHẬN TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam Trước khi tìm hiểm khái niệm tội phản bội Tổ quốc, ta cần hiểu rõ khái niệm an ninh quốc gia và khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Luật An ninh quốc gia năm 2004, mặc dù trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta có đề cập thuật ngữ "an ninh quốc gia", nhưng dưới góc độ pháp lý, khái niệm an ninh quốc gia chưa bao giờ được chính thức ghi nhận. Năm 2004, lần đầu tiên trong Luật An ninh quốc gia năm 2004 (khoản 1 Điều 2) nhà làm luật Việt Nam đã chính thức đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm này. Từ việc phân tích định nghĩa pháp lý của khái niệm an ninh quốc gia trong Luật An ninh quốc gia năm 2004 đã nêu của nước ta và nghiên cứu thực tiễn áp dụng các qui phạm pháp luật hình sự về các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở Việt Nam, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm an ninh quốc gia dưới góc độ luật hình sự như sau: An ninh quốc gia là sự ổn định của chế độ Hiến pháp, sự tồn tại và bền vững của hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền từ trung ương đến các địa phương trong một nhà nước, cũng như sự bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhà nước đó trên cơ sở một trật tự pháp luật nhất định, đồng thời là nhóm khách thể loại được đặc biệt bảo vệ bằng pháp luật hình sự tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm. Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm an ninh quốc gia tại điều luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc quy 9
  12. định giới hạn các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia có hiệu quả. Tội phản bội Tổ quốc nằm trong nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia và được quy định từ rất sớm ngay trong Sắc lệnh số 03 ngày 15/3/1976. Tuy nhiên, để có thể hiểu rõ hơn khái niệm phản bội Tổ quốc, chúng ta cũng cần phải hiểu khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Tại Điều 3 Sắc lệnh số 03 ngày 15 /3/1976, các tội xâm phạm An ninh quốc gia được hiểu là các tội chống lại Tổ quốc, phá hoại độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Trên cơ sở khái niệm an ninh quốc gia ở trên, có thể đưa ra khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia như sau: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Như vậy, các tội xâm phạm an ninh quốc gia xâm phạm đến các quan hệ xã hội đặc biệt, tội phản bội Tổ quốc là một trong những tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến các quan hệ xã hội đó. Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, tội phản bội Tổ quốc là một trong những tội được quy định sớm. Trong Sắc lệnh số 133 ngày 20/01/1953 về trừng trị những tội xâm hại đến an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại, tội phản bội Tổ quốc được quy định tại Điều 3: "Kẻ nào cấu kết với địch (đế quốc xâm lược và bọn bù nhìn phản động) cầm đầu trong tổ chức quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, phản bội Tổ quốc sẽ bị xử tử hình hoặc tù chung thân". 10
  13. Trong Sắc luật số 03/76 ngày 15/03/1976 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, mặc dù không có qui phạm định nghĩa về tội phản bội Tổ quốc, nhưng tội phạm này được quy định tại Điều 3: "Phạm tội phản bội Tổ quốc hoặc âm mưu lật đổ chính quyền thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình". Tuy nhiên, trước khi đi tìm hiểu định nghĩa pháp lý của khái niệm "phản bội Tổ quốc", chúng ta cần làm sáng tỏ khái niệm Tổ quốc, từ đó mới hiểu và nhận thức chính xác về khái niệm phản bội Tổ quốc. Có rất nhiều sách báo đề cập đến thuật ngữ "Tổ quốc", nhưng để hiểu đúng và đầy đủ nghĩa của thuật ngữ đó với tính chất là một phạm trù xã hội - lịch sử rất rộng, chúng ta phải xem xét ngữ nghĩa của nó. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: "Tổ quốc" được hiểu là "đất nước, gắn liền với bao thế hệ, ông cha, tổ tiên của mình" [47]. Khái niệm "Tổ quốc" còn được đề cập trong Giáo trình Luật hình sự - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002, được hiểu là một phạm trù xã hội, lịch sử rất rộng (cả về không gian và thời gian) vì nó bao gồm giang sơn, đất nước trên một lãnh thổ nhất định đã được nhiều thế hệ xây dựng, bảo vệ và để lại từ bao đời trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, truyền thống của dân tộc bằng sự gắn bó tình cảm sâu nặng của nhân dân [4]. Chẳng hạn, một người mặc dù có thể là do sự đối lập trong quan điểm chính trị nên về mặt tư tưởng không yêu thích chế độ chính trị của một Nhà nước nào đó, nhưng người đó vẫn rất yêu quí giang sơn đất nước của mình, cũng như quê hương bà con làng xóm họ hàng và những người thân yêu ruột thịt của mình. Trong Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2006, Tổ quốc được hiểu là "Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa", được xác định dựa trên quan điểm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Khái niệm Tổ quốc này là một khái niệm mang tính giai cấp [41]. 11
  14. Theo quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam, thì Tổ quốc là đất nước nơi con người sinh ra, lớn lên. Nhưng trong nội hàm của khái niệm Tổ quốc, không chỉ giới hạn ở lãnh thổ với tính chất là vị trí địa lý, Tổ quốc còn là một phạm trù chính trị. Theo V.I. Lênin, "Tổ quốc trước hết là môi trường chính trị, văn hóa xã hội con người". Tổ quốc ở đó có những người mẹ sớm hôm tần tảo và ở đó là nơi sinh ra tâm hồn của mỗi con người, cho nên Tổ quốc là giá trị thiêng liêng không thể so sánh được. Vì lẽ đó, chỉ có những người vô lương tâm mới có thể thể phản bội Tổ quốc, phản bội lại giang sơn, đất nước, lãnh thổ. Người yêu Tổ quốc sẽ không do dự hiến thân cả đời mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, phản bội Tổ quốc tức là phản bội lại môi trường chính trị, văn hóa, xã hội của mình, phản bội lại nơi mình được sinh ra và lớn lên, phản bội lại những giá trị văn hóa, tinh thần mà mình được nuôi dưỡng trưởng thành. Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập hiện nay của đất nước, việc nhận thức rõ ràng khái niệm Tổ quốc một cách đúng đắn và chính xác là một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Tuy nhiên, theo quan điểm nhà làm luật Việt Nam, thì khái niệm "Tổ quốc" trong pháp luật hình sự thực định, được hiểu là Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do vậy, từ khái niệm "Tổ quốc", có thể làm rõ khái niệm "phản bội Tổ quốc". Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, quyển 3, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Việt Nam, 2003, phản bội Tổ quốc được hiểu: "Công dân một nước câu kết với nước ngoài, nhằm gây nguy hại cho độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mình" [42]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 1998, phản bội Tổ quốc được hiểu: "Phản lại, chống đối lại những người hoặc những cái đáng ra phải hết sức bảo vệ, tôn thờ" [48]. Như vậy, mặc dù Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm "phản bội Tổ quốc", nhưng khái niệm này 12
  15. có thể được hiểu là bất kỳ hành vi nào của công dân Việt Nam cấu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho các quan hệ xã hội: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng và chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tội phản bội Tổ quốc phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [3, tr. 105]. Trên cơ sở phân tích các khái niệm trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội phản bội Tổ quốc như sau: Tội phản bội Tổ quốc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự của công dân Việt Nam có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cấu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho các quan hệ xã hội: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng và chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1.2. Ý nghĩa của việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam Điều 1 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh đối nội, an ninh đối ngoại và sự vững mạnh của chính quyền nhân dân" [24]. Do đó, việc ổn định an ninh chính trị trong nước, xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống về mọi mặt cho toàn thể nhân dân là vô cùng quan trọng. Cho nên, ngay từ khi tuyên bố độc lập, tội phản bội Tổ quốc đã được xem xét và được quy định rất sớm trong các văn bản pháp luật ban hành thời kỳ đầu. Việc sớm quy định tội phản 13
  16. bội Tổ quốc trong các văn bản pháp luật (Sắc lệnh 133/SL ngày 20/01/1953 và Sắc luật số 03/SL ngày 15/03/1976) và áp dụng những hình phạt nặng nhất với những hành vi phản bội Tổ quốc cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của tội danh này. Nó không chỉ góp phần ổn định an ninh chính trị trong nước từ đó giành lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà nó còn mang lại sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao đời sống về mọi mặt cho toàn thể nhân dân. Hơn nữa, việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam còn thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng các biện pháp pháp lý hình sự, tạo điều kiện cho công cuộc xây dựng đất nước phát triển. Việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam (tại Điều 72 Bộ luật Hình sự năm 1985 và Diều 78 Bộ luật Hình sự năm 1999), đã cho thấy tầm quan trọng của khách thể mà tội phạm này xâm hại, và nó cũng đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự ở nước ta. Việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và tội phản bội Tổ quốc nói riêng. Việc nhà làm luật chính thức ghi nhận và việc áp dụng đúng đắn nhưng quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc trong thực tiễn đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực pháp lý hình sự, bảo đảm xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai. Ngoài ra, việc quy định tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam còn góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, việc hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng tội phản bội Tổ quốc của các cơ quan có thẩm quyền còn giúp 14
  17. các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó thực hiện đúng đắn những quy định về tội phạm này trong thực tiễn. 1.2. KHÁI LƢỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Từ khi hình thành đất nước, bất kỳ quốc gia nào, dân tộc nào cũng đều quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đất nước của mình. Do đó, việc đấu tranh và chống lại sự xâm lược, phá hoại đất nước là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Việt Nam cũng vậy, không nằm ngoài qui luật đó. Ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước cho đến nay, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và chống xâm phạm đất nước luôn là nhiệm vụ quan trọng và ưu tiên hàng đầu, nhất là từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nhiệm vụ này càng được khẳng định. Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự mỗi thời kỳ không thể không nghiên cứu các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa của từng thời kỳ ban hành các văn bản pháp luật đó. Pháp luật hình sự luôn luôn thể hiện hai mặt cơ bản: Một là, sự kết tinh những giá trị phổ biến, những kinh nghiệm về đấu tranh phòng chống các tội phạm qua các giai đoạn phát triển của thời kỳ. Hai là, pháp luật hình sự ban hành để bảo vệ lợi ích giai cấp và trật tự xã hội theo quan điểm của giai cấp thống trị. Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự phải nghiên cứu đồng thời cả hai mặt cơ bản đó để rút ra những giá trị hợp lý nhằm kế thừa và phát triển. Từ đó, mới thấy rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của pháp luật hình sự trong từng giai đoạn lịch sử. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung và tội phản bội Tổ quốc nói riêng có thể chia thành các giai đoạn sau đây. 1.2.1. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ quốc trong thời kỳ phong kiến đến trƣớc thời kỳ Pháp thuộc 15
  18. Trong thời kỳ phong kiến, nhìn chung về mặt kỹ thuật lập pháp, các Bộ luật ra đời trong thời kỳ này chưa quy định rõ ràng về tội phản bội Tổ quốc nhưng trong các Bộ luật đều có hành vi giống với hành vi phản bội Tổ quốc được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 cụ thể: Pháp luật thời kỳ Lê sơ [29, tr. 33]: Nghiên cứu pháp luật thời kỳ Lê sơ, điển hình là Bộ luật Hồng Đức, ta có thể thấy rõ sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp so với các triều đại trước. Bộ luật Hồng Đức được soạn thảo dưới triều vua Lê Thánh Tông và hoàn thành năm 1483, gồm 6 quyển với 13 chương với 722 điều quy định tất cả các mối quan hệ xã hội có thời bấy giờ. Trong Bộ luật Hồng Đức, đã đề cập tội phản bội Tổ quốc, nếu có âm mưu phản quốc cũng bị xử phạt với hình phạt nặng nhất. Điều 411 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Những kẻ mưu làm phản, mưu làm đại nghịch thì xử tội chém bêu đầu...". Điều 412 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Những kẻ mưu phản nước theo giặc thì xử chém, nếu đã hành động thì xử tội bêu đầu, kẻ biết việc ấy thì cũng đồng tội: vợ con, điền sản đều bị tịch thu làm của công". Ngay từ ngày đó, việc nhận thức về mưu đồ phản bội Tổ quốc đã là một trong những tội nguy hiểm nhất, thập ác (10 tội ác) và phải chịu hình phạt nặng nhất, không được ân giảm với bất cứ tầng lớp nào. Nếu phạm vào tội này sẽ bị chém bêu đầu. Đây cũng là tội được quy định về trách nhiệm hình sự tập thể, nói cách khác trong những trường hợp này, tất cả mọi người thân thuộc đều chịu trách nhiệm hình sự cùng với người phạm tội. Tuy nhiên, tội mưu phản gồm những hành vi phạm tội cụ thể nào thì chưa được liệt kê mà chỉ quy định chung chung "là mưu làm nguy hại đến xã tắc". Như vậy, Bộ luật Hồng Đức mặc dù chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phản bội Tổ quốc, nhưng cũng đã quy định về những hành 16
  19. vi nguy hại đến quyền lợi của giai cấp thống trị Nhà nước phong kiến tập quyền thì bị xử tội nghiêm khắc nhất. Pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn [40]: Sang đến thế kỷ 16, vào năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, đặt kinh đô ở Phú Xuân, và giao cho Tiền quân Bắc thành tổng trấn Nguyễn Văn Thành là Tổng tài soạn thảo Bộ luật có tên Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long). Bộ luật được soạn thảo trong một thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất, và năm 1812 được khắc in lần đầu ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc. Bộ luật gồm hai phần, 22 quyển với 398 điều. Trong đó, tội mưu phản hay mưu phản đại nghịch thuộc nhóm tội "Đạo tặc thượng: hay còn gọi là nhóm tội "Giặc trộm ở bậc cao" gần giống với nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia ở Bộ luật Hình sự năm 1999. Với quan niệm trên, tội mưu phản (mưu làm sụp đổ xã tắc) xã tắc là vua, mưu làm sụp đổ xã tắc lật đổ ngôi vua, lật đổ triều đình là một trong những tội phạm thập ác (10 tội ác). Giống như Bộ luật Hồng Đức, Hoàng Việt luật lệ cũng quy định trách nhiệm hình sự không chỉ đối với cá nhân người phạm tội mà còn quy định trách nhiệm hình sự tập thể đối với một số tội phạm xâm hại tới sự tồn tại của chế độ phong kiến trong đó có tội mưu phản (phản bội Tổ quốc). Điểm khác biệt so với pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê là chế tài hình sự trong những trường hợp này mang tính chất tàn ác hơn nhiều. Điều 223 - Mưu phản đại nghịch - Hoàng Việt luật lệ quy định: Phàm kẻ mưu phản không làm lợi cho đất nước, mưu hại xã tắc và đại nghịch không có lợi đối với Vua, mưu phá tôn miếu, sơn lăng và cung quyết. Chỉ nhúng tay vào âm mưu mà không chia cầm đầu hay tòng phạm đã, hay chưa làm đều bị xử tử hình bằng lăng trì. 17
  20. Ông nội, cha con, cháu, anh em và người cùng ở trong một nhà, như trong tộc, không để tang thân thuộc, bà ngoại cha vợ, rể không chia khác nhau theo họ, chánh phạm hay mới quen. Chú bác, con của anh em không hạn đã hay chưa ở riêng, quê quán khác nhau. Nam từ 16 tuổi trở lên, không kể là bịnh nặng, tàn phế, đều đem chém hết. Con trai từ 15 tuổi trở xuống và mẹ của chánh phạm, con gái, thê thiếp, chị em, bao nhiêu thê thiếp ấy đem phát cho làm nô lệ cho các bực đại công thần. Của cái của chính phạm, cho vào nhà quan [40]. Điều 224: Mưu phản - Hoàng Việt luật lệ còn quy định: "Phàm kẻ mưu phản gài mưu trong nước nghe lịch nước ngoài. Chỉ là cùng mưu thì cũng không chia cầm đầu hay tòng phạm mà đem chém hết ráo" [40]. Về hình phạt với đối với tội mưu phản đại nghịch và mưu phản, Bộ luật này đều quy định hình phạt cao nhất là chém đầu. Điều 1 Hoàng Việt luật lệ không còn quy định hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng lăng trì và trong phần giải thích thêm của Bộ luật này cũng đã khẳng định: "chết lăng trì là một hình phạt ghê khiếp nhất trong các hình phạt... ngày nay vĩnh viễn bỏ nhục hình, vĩnh viễn bỏ độc hình cũng đổi, chỉ còn giữ lại hình phạt ghê khiếp ngoài hết thảy mọi ghê khiếp này bằng cách chém kẻ bất trung, bất hiếu thôi" [40]. Tuy nhiên, tại một số điều luật về mưu phản lại có quy định thi hành hình phạt tử hình bằng lăng trì. Đây có thể nói là mâu thuẫn ngay trong một Bộ luật và bị coi là một trong những nhược điểm về kỹ thuật lập pháp hình sự thời kỳ nhà Nguyễn. Pháp luật nhà Nguyễn cũng có quy định những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt đối với một số tội trong đó có cả kẻ phản quốc. Điều 24 - Người phạm tội tự thú - Hoàng Việt luật lệ quy định: 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2