intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

17
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của việc quy định tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về quản lý rừng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DUNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DUNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VI 6 PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÍ RỪNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Sự cần thiết quy định tội vi phạm các quy định về quản lý 6 rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy 11 định về quản lý rừng 1.2.1. Khái niệm 11 1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý về tội vi phạm các quy định về quản 14 lý rừng 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm 14 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm 17 1.2.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm 22 1.2.2.4. Chủ thể của tội phạm 24 1.3. Quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong 29 pháp luật hình sự trong một số nước 1.3.1. Tội vi phạm các quy định về quản lí rừng trong Bộ luật Hình 30 sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1.3.2. Tội vi phạm các quy định về quản lí rừng trong Bộ luật Hình 33 sự Liên bang Nga 3
  4. 1.3.3. Tội vi phạm các quy định về quản lí rừng trong Bộ luật 35 Hình sự của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào Chương 2: PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM 37 CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÍ RỪNG QUA CÁC THỜI KỲ 2.1. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong pháp luật 37 hình sự Việt Nam trước năm 1945 2.1.1. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Quốc triều 37 Hình luật 2.1.2. Tội vi phạm các quy định về quản lí rừng theo quy định của 38 Bộ Hình luật Canh cải, Hình luật Việt Nam thời Pháp thuộc 2.2. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong pháp luật 40 hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 2.3. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật 46 Hình sự năm 1985 2.4. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật 50 Hình sự năm 1999 2.5. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý rừng với một 55 số tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 2.5.1. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lí rừng (Điều 176) 55 với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) 2.5.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lí rừng (Điều 176) 57 với Tội hủy hoại rừng (Điều 189) 2.5.3. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lí rừng (Điều 176) 58 với tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công 4
  5. vụ (Điều 281) Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 60 HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỪNG VÀ MỘT SỐ VƢỚNG MẮC 3.1. Tình hình tội vi phạm các quy định về quản lý rừng ở Việt 60 Nam hiện nay 3.1.1. Số vụ và số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về quản 61 lí rừng 3.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm 68 3.1.3. Tính chất tình hình tội phạm 68 3.2. Những vướng mắc trong quá trình xử lý tội phạm vi phạm 72 các quy định về quản lý rừng 3.2.1. Về các quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật 72 3.2.2. Về công tác điều tra, truy tố, xét xử 74 3.2.3. Tăng cường các biện pháp về tổ chức, quản lý 76 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 5
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Số liệu rừng bị tàn phá các năm 2005 - 2011 63 3.2 Số liệu lâm sản bị tịch thu các năm 2005 - 2011 64 3.3 Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội vi phạm các quy 64 định về quản lý rừng trong bảy năm, từ năm 2005 - 2011 3.4 Số vụ, số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về quản 65 lý rừng so sánh với tội phạm nói chung của từng năm, từ 2005 đến năm 2011 3.5 Số liệu đối tượng vi phạm lâm luật các năm 2005 - 2011 65 3.6 Mức độ gia tăng hằng năm của số vụ và số bị can phạm 68 tội vi phạm các quy định về quản lý rừng 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn được mệnh danh là "lá phổi" của trái đất, rừng có vị trí rất quan trọng trong việc duy trì sinh thái và sự đa dạng sinh học trong hành tinh của chúng ta. Bởi vậy, bảo vệ rừng và tài nguyên rừng luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất các quốc gia trên thế giới nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị hủy hoại ở mức độ báo động mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của con người gây ra. Thực tiễn cho thấy, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng ở Việt Nam cần phải được tiếp cận và được tiến hành gắn liền với các biện pháp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Bảo vệ tính đa dạng sinh học và tính ổn định, bền vững của quá trình phát triển tài nguyên rừng thì nhất thiết phải đặt sự nghiệp bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sống là bộ phận cấu thành hữu cơ không thể thiếu của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, cần chú trọng hơn nữa đến đổi mới cơ chế chính sách, quy định về quản lý rừng nhằm chuyển mạnh một cách hiệu quả ngành lâm nghiệp theo hướng lâm nghiệp hóa - lâm nghiệp cộng đồng, huy động mọi nguồn lực và lực lượng xã hội tham gia quản lý, bảo vệ rừng vì lợi ích trực tiếp của cộng đồng. Đây là một trong những hướng đi thiết thực nhằm ngăn chặn và đẩy lùi những thảm họa đáng tiếc gây thương tổn đến "lá phổi" của chúng ta. Công tác bảo vệ rừng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trong đó, trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật có vai trò rất quan trọng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường, tình hình tội phạm vi phạm các quy định về quản lý rừng đang diễn ra hết sức phức tạp với tính chất mức độ nguy hiểm. Nhận thức tầm quan trọng 7
  8. của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm các quy định về quản lý rừng, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã chủ động áp dụng nhiều biện pháp, xử lý nghiêm minh tội vi phạm các quy định về quản lý rừng và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, việc áp dụng của pháp luật đối với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng cũng còn nhiều hạn chế, bất cập: Các văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất; chưa có cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; biện pháp áp dụng của pháp luật chưa triệt để, nghiêm minh. Chính vì thế, đã ảnh hưởng đến kết quả thi hành pháp luật đối với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong giai đoạn hiện nay. Về mặt pháp luật, các quy định của pháp luật và việc áp dụng pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng tuy đã được ban hành khá đầy đủ và đã quan tâm nghiên cứu nhưng vẫn còn thiếu các công trình nghiên cứu chuyên sâu mang tính tổng kết về mặt lập pháp, thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm này. Theo đó, những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều điểm chưa có nhận thức khoa học thống nhất dẫn đến những vướng mắc trong tư pháp hình sự cho đến nay vẫn chưa được giải đáp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về công tác này là sự đòi hỏi cấp bách về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức như vậy, học viên đã chọn đề tài: "Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong lĩnh vực nghiên cứu, tội vi phạm các quy định về quản lý rừng được đề cập trong bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 được nhiều tập thể các tác giả nghiên cứu xuất bản như: Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 giáo trình luật hình sự Việt Nam, do Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, do TS. Trần Minh Hưởng chủ biên, Nxb Lao động, 2009; Bình luận khoa học Bộ luật 8
  9. Hình sự - phần các tội phạm tập VII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Bình luận chuyên sâu, của Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006...; Cao Anh Đức, Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về quản lý, khai thác và bảo vệ rừng, Tạp chí Kiểm sát, số 22, 2010; Đỗ Đức Hồng Hà, Một số điểm mới trong chương các Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Luật học, số 2, 2000;... Ngoài các nhóm đề tài liên quan đến tội vi phạm các quy định về quản lý rừng ở trong nước còn một số các đề tài liên quan đến rừng ở nước ngoài như một vài báo cáo, tạp chí nước ngoài: Báo cáo World Bank "Tăng cường pháp luật rừng và thực trạng quản lý" tháng 8 năm 2006; "Những vấn đề về rừng quy định của pháp luật và vấn đề thực thi" của Viện Tài nguyên Washington. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên, chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát và chưa đi sâu là rõ về cơ sở lý luận và thực tiễn về việc áp dụng của pháp luật đối với đối với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trên các địa bàn, đối tượng, tình huống cụ thể khác nhau. Đây là vấn đề cần quan tâm nhưng chưa được nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ và toàn diện. Cho nên, việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thiết thực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của việc quy định tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về quản lý rừng. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam như làm rõ khái niệm, dấu hiệu 9
  10. pháp lý về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng; phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác có liên quan; - Tổng hợp kết quả nghiên cứu, cũng như đánh giá những yếu tố làm cho tình hình về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng ngày càng diễn biến phức tạp hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng; - Đề xuất một số giải pháp góp phần bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống tội vi phạm các quy định về quản lý rừng. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách hình sự của Nhà nước ta trong lĩnh vực bảo vệ rừng nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phân tích, tổng hợp, thống kê so sánh, lịch sử cụ thể... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Đề tài là công trình chuyên khảo có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. - Kết quả của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập, đồng thời cung cấp cho cán bộ làm công tác thực tiễn những hướng dẫn, chỉ dẫn cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay. 10
  11. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quy định tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Chương 2: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng qua các thời kỳ. Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng và một số vướng mắc. 11
  12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÍ RỪNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1.1. SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỪNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, với diện tích 330.991,5 km2, khí hậu nhiệt đới gió mùa, cây cối quanh năm xanh tốt. Việt Nam có thế mạnh về phát triển nông nghiệp, có diện tích rừng và đất rừng chiếm khoảng (30%) diện tích lãnh thổ. Rừng là nguồn tài nguyên to lớn, là nguồn thu lợi lớn cho nền kinh tế quốc dân. Rừng không những có giá trị kinh tế mà rừng còn có vai trò quan trọng trong quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, rừng đã tạo ra sự ổn định và cân bằng về môi trường sinh thái, hạn chế các tác hại của lũ lụt, mưa gió, hạn hán, phục vụ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch của nhân dân. Rừng là nguồn tài nguyên quý giá, có giá trị kinh tế lớn nên rừng đã trở thành đối tượng, mục tiêu khai thác của nhiều cá nhân, tổ chức với mục đích vụ lợi. Rừng là hợp phần quan trọng tạo nên sinh quyển, chứa đựng tài nguyên động thực vật phong phú. Là nhà che chở cho loài động vật, là "lá phổi" của sự sống. Nói chung rừng là một hệ sinh thái lớn, quan trọng, có đa dạng sinh học cao có ý nghĩa phát triển kinh tế xã hội. Rừng giữ vai trò điều hòa khí hậu, bảo vệ sự sống. Rừng cây xanh bạt ngàn là lá phổi khổng lồ thanh lọc không khí, cung cấp nguồn dưỡng khí duy trì sự sống cho con người. Rừng giúp con người hạn chế thiên tai. Đặc biệt, rừng là khu bảo tồn thiên nhiên vô giá với hàng ngàn loài chim, loài thú quí giá, là nguồn đề tài nghiên cứu bất tận cho các nhà sinh vật học. Đối với dân tộc Việt Nam, rừng còn gắn chặt với từng chặng đường lịch sử. Trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, rừng trở thành căn cứ cách mạng: "Rừng che bộ đội, rừng 12
  13. vây quân thù". Trong thời bình, rừng là nơi nghỉ ngơi, an dưỡng, là điểm tham quan du lịch của mọi người. Ngày nay, với khoa học kĩ thuật tiên tiến, hiện đại, con người đã chế ra nhiều nguyên liệu tổng hợp từ các sản phẩm hóa học, nhưng vẫn không thể thay thế được vai trò của gỗ trong đời sống. Tre, nứa, trúc, mai, vầu… cùng với gỗ là nguyên liệu chính để sản xuất giấy và hàng ngàn vật dụng quan trọng khác. Rừng còn cung cấp cho ta những sản vật quí hiếm. Nhiều loại cây cỏ của rừng là những vị thuốc đem lại sức khỏe và sự sống cho con người. Rừng đem lại nhiều lợi ích như thế nên con người ra sức khai thác nguồn lợi quí giá từ rừng. Bọn lâm tặc săn lùng gỗ quí khắp nơi. Muốn lấy một cây gỗ quí, chúng chẳng ngại phá hại hàng trăm cây cối to nhỏ xung quanh.Việc đốt rừng làm rẫy đã thu hẹp rất nhiều diện tích rừng. Nguy hại nhất là việc làm đó đã phá hủy vành đai rừng phòng hộ, dẫn đến hiểm họa sạt núi, lở đất và những cơn lũ lớn không thể nào ngăn chặn được sẽ gây hậu quả ghê gớm. Khai thác rừng để phục vụ cuộc sống con người là việc làm cần thiết, nhưng muốn hưởng lợi ích lâu dài thì con người cần phải biết bảo vệ rừng. Cùng với việc chặt cây lấy gỗ, chúng ta phải biết trồng cây, gây rừng. Khai thác lâm sản cũng phải có kế hoạch, có mức độ, nếu không, chẳng mấy chốc mà tài nguyên rừng cạn kiệt. Khi đó, thử hỏi con người lấy gì để chống đỡ với gió, cát, nước lũ… và lấy đâu ra rừng vàng, biển bạc cho con cháu mai sau. Vậy nhận thấy rằng, rừng là nguồn tài nguyên quý giá, một mối liên kết và sự sống trên trái đất. Nếu không có rừng bảo vệ và che chở chúng ta khi thảm họa thiên nhiên ập đến thì con người có thể sẽ không còn tồn tại trên trái đất được lâu nữa... nhưng trong mỗi chúng ta có thể có, có thể không biết cách bảo vệ rừng như vậy mỗi việc làm của chúng ta dù chỉ nhỏ thôi cũng đã làm hại đến thiên nhiên đặc biệt là lá phổi xanh của nhân loại. Rừng cũng như những nguồn tài nguyên khác cũng cần được bảo vệ và làm sao cho lá phổi ấy giữ mãi một màu xanh là do ý thức của mỗi con người. 13
  14. Trước vai trò to lớn của rừng, chúng ta cần phải có những biện pháp cụ thể trong việc quản lý và bảo vệ rừng. Tuy nhiên, trên thực tế hành vi vi phạm các quy định quản lý về khai thác, bảo vệ rừng hiện nay xảy ra hết sức phức tạp với những thủ đoạn tinh vi, hậu quả của tội phạm gây ra hết sức nặng nề, không những ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, mà trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường và đời sống của nhân dân. Hành vi khai thác, chặt, phá rừng bừa bãi, nạn lâm tặc, khai thác tài nguyên, khoáng sản trái phép, săn bắn động vật hoang dã, quí hiếm diễn ra nhiều địa phương, tài nguyên đang cạn kiệt, nạn chặt phá rừng ở nước ta đang diễn ra bức xúc, cùng với đó là các hành vi của những người làm trong công tác quản lý rừng như cho phép khai thác, chặt, đốt rừng bừa bãi đã làm môi trường sống của chúng ta ở mức báo động. Do tính nguy hiểm ở hành vi này nên trong pháp luật hình sự từ xưa đến nay ở bất kỳ quốc gia, bất kỳ nhà nước nào cũng nghiêm trị hành vi xâm phạm đến rừng và áp dụng hình phạt. Do vậy việc quy định là tội phạm trong luật hình sự để đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi nguy hiểm này thực sự cần thiết. Không những vậy, chế tài đưa ra cũng cần nghiêm khắc mới đáp ứng đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Khi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là đáng kể, được quy định thành tội phạm và chịu hình phạt trong luật hình sự thì pháp luật hình sự trở thành công cụ hữu hiệu tác động đến hành vi sai lệch này. Đồng thời tác động đến ý thức của người dân nói chung tạo ra một giới hạn trong ý thức của họ về việc thực hiện các hành vi của mình và đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, người thực hiện hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng bị coi là tội phạm và phải chịu các chế tài nghiêm khắc của luật hình sự đó là hình phạt. Đây chính là thái độ của xã hội đối với hành vi đi ngược lại những chuẩn mực xã hội, đi ngược lại lợi ích của xã hội. Việc chịu hình phạt đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời đảm bảo công bằng xã 14
  15. hội. Trên cơ sở đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có điều kiện để cải tạo, giáo dục bản thân trở thành người có ích cho xã hội. Việc quy định phù hợp giữa tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm và chế tài bị áp dụng hình phạt, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó phát huy hiệu quả của công cụ đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Hành vi càng thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao bao nhiêu, thì hình phạt đối với hành vi ấy phải càng nghiêm khắc bấy nhiêu. Khi hai yếu tố này tương xứng nó góp phần là giảm thiểu mặt tiêu cực của hình phạt. Không chỉ cộng đồng xã hội nói chung mà ngay cả người phạm tội cũng nhận thấy hình phạt cho mình như vậy là thích đáng. Có như vậy, bản thân họ mới có thể cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Quy định tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong pháp luật hình sự là cơ sở để Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước sử dụng các công cụ pháp lý đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy rằng, mỗi loại tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, phương pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng khác nhau. Nhưng cho dù như thế nào thì chúng đều gây những thiệt hại nhất định cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Chúng là những hiện tượng xã hội tiêu cực cần chúng ta không ngừng đấu tranh, hạn chế và từng bước loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm vi phạm các quy định về quản lý rừng nói riêng và tội phạm nói chung đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách có hệ thống đồng bộ, đồng thời sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, không ngừng bổ trợ, tương hỗ cho nhau để phát huy mặt tích cực và hạn chế những điểm yếu của từng biện pháp. Trên cơ sở đó, phát huy tốt nhất hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đây không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Từ hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, cơ quan tư pháp, đến các tổ chức chính trị, chính trị xã hội và đặc biệt quan trọng đó là ý thức đấu 15
  16. tranh phòng ngừa và chống tội phạm của chính mỗi người dân. Đồng thời sử dụng nhiều biện pháp từ những biện pháp như giáo dục, thuyết phục đến các biện pháp cưỡng chế trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất. Trước đòi hỏi đó, Bộ luật Hình sự đầu tiên năm 1985 đã quy định tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (Điều 181 Bộ luật Hình sự). Tuy nhiên, cấu thành tội phạm được quy định gộp hai loại hành vi trong một cấu thành tội phạm chung. Bao gồm hành vi vi phạm về quản lý và bảo vệ rừng. Do nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các loại tội phạm về rừng nói riêng và việc thực hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hành vi, cũng như cá thể hóa hình phạt, đồng thời thể hiện quan điểm xử lý của Nhà nước đối với từng loại tội phạm. Do vậy hai hành vi này cần thiết phải xây dựng thành các cấu thành tội phạm của các tội danh khác nhau. Chúng cần phải được xây dựng độc lập. Xuất phát từ tính nguy hiểm cho xã hội của hai loại tội phạm này. Việc quy định riêng biệt cấu thành tội phạm của chúng là cơ sở để quy định dấu hiệu trong mỗi cấu thành tội phạm phù hợp ở mức cao nhất với đặc điểm và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hình phạt tương ứng. Đồng thời cho phép tiếp tục phân hóa các cấu thành tội phạm này trong phạm vi từng tội danh. Bên cạnh việc phân hóa hành vi nguy hiểm cho xã hội của các loại hành vi khác nhau thành các cấu thành tội phạm độc lập. Mỗi cấu thành tội phạm cũng cần phải phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Xem xét phân tách cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng rất quan trọng góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự của từng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Chia tách theo từng mức độ như vậy là cơ sở để chúng ta đưa ra mức chế tài phù hợp. Sự phân hóa trách nhiệm hình sự càng triệt để bao nhiêu thì sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi bấy nhiêu cho công tác cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử. 16
  17. Từ những đòi hỏi trên, việc quy định tội vi phạm các quy định về quản lý rừng là thực sự đúng đắn và cần thiết đáp ứng đòi hỏi lý luận và thực tiễn. 1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ RỪNG 1.2.1. Khái niệm Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng được xếp vào chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Trước khi tìm hiểu khái niệm tội vi phạm các quy định về quản lý rừng, ta cần phải hiểu rõ khái niệm trật tự quản lý kinh tế và các tội xâm phạm trật tự kinh tế. Trật tự kinh tế có thể hiểu là các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế đó là "nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [54, Điều 15]. Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm trật tự quản lý kinh tế ở điều luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định giới hạn các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế, đấu tranh phòng và chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Để hiểu rõ hơn khái niệm vi phạm các quy định về quản lý rừng chúng ta cần hiểu các tội xâm phạm trật tự quản lý xã hội. Theo Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần 2), Trường Đại học Luật Hà Nội: "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm quy định Nhà nước trong quản lý kinh tế" [63]. Như vậy, các tội xâm phạm trật tự kinh tế xâm phạm đến các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng là một trong những tội xâm phạm đến các quan hệ xã hội đó. 17
  18. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng được tách từ tội vi phạm các quy định và bảo vệ rừng tại Điều 181 Bộ luật Hình sự năm 1985 do nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý rừng tuy vẫn cấu tạo thành ba khung hình phạt nhưng các tình tiết là yếu tố định tội và yếu tố định khung hình phạt có nhiều thay đổi, quy định tình tiết làm ranh giới phân biệt giữa hành vi vi phạm với hành vi phạm tội, quy định cụ thể các hành vi vi phạm về quản lý rừng, hình phạt bổ sung được quy định ngay cùng một điều luật. Việc tách Điều 181 thành các tội độc lập là hết sức cần thiết. Nó đảm bảo cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách cụ thể, tránh tình trạng hiểu thế nào cũng được, xử lý kiểu nào cũng được. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng sau khi được tách từ Điều 181 vẫn được giữ nguyên trong chương về các tội xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nhưng nó không còn trực tiếp điều chỉnh nhiều quan hệ xã hội như trước nữa. Các quan hệ xã hội được gộp trong khách thể trực tiếp của một điều luật nay được tách ra và quy định trong nhiều điều luật thuộc các chương khác nhau. Ví dụ như: Điều 175, Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 1999. Chưa có một định nghĩa chính thức về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng trong các giáo trình chính thống. Tuy nhiên, có thể đưa ra khái niệm Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng dựa trên quan điểm GS.TSKH. Lê Cảm: Tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu bao gồm ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) Bình diện khách quan: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. b) Bình diện pháp lý: Tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. c) Bình diện chủ quan: Tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [6]. 18
  19. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm tội vi phạm các quy định về quản lý rừng như sau: Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự xâm hại đến các quy định của Nhà nước về giao rừng, thu hồi đất rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất rừng, khai thác vận chuyển gỗ. Từ khái niệm chung của tội vi phạm các quy định về quản lý rừng nêu trên chúng ta xác định phạm vi của tội phạm này. Để hiểu rõ tội vi phạm các quy định về quản lý rừng một cách rõ ràng và cụ thể hơn, đặc biệt nhằm áp dụng chính xác các quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự trong cuộc sống đòi hỏi nghiên cứu cấu thành tội phạm thể hiện qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm đó là: Khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể. Một nguyên tắc chung được xác định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999: "Chỉ người nào phạm một tội đã được quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [55]. Điều này hoàn toàn phù hợp với tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc: Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm. Tội phạm là hiện tượng xã hội có tính lịch sử, được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi và tính trái pháp luật hình sự. Theo luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào dù đặc biệt nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng, dù bị quy định bởi hình phạt tù chung thân, tử hình hay chỉ là cảnh cáo phạt tiền cũng đều là thể thống nhất giữa mặt khách quan hay mặt chủ quan - giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là những hoạt động của con người cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hay cho quan hệ xã hội nhất định. Tuy có đặc điểm chung như vậy nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm có những nội dung biểu hiện khác nhau quyết định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội 19
  20. phạm. Mỗi tội phạm đều khác các tội phạm khác về đặc điểm cấu trúc của bốn yếu tố của tội phạm. Những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho tội vi phạm các quy định về quản lý rừng quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự bao gồm bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. 1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý về tội vi phạm các quy định về quản lý rừng 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm Tội phạm là hiện tượng xã hội vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính lịch sử. Về mặt cấu trúc, tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố: Khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Bốn yếu tố này tồn tại không tách rời nhau với tư cách là một bộ phận cấu thành trong một thể thống nhất là tội phạm. Mặc dù vậy, bốn yếu tố cấu thành tội phạm có thể phân chia được trong tư duy và do vậy, có thể cho phép nghiên cứu từng yếu tố một cách độc lập với nhau. Khách thể của tội phạm nói chung có thể được hiểu khái niệm theo quan điểm GS. TS Lê Cảm: "Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [7]. Còn theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999. Một hành vi bị coi là tội phạm phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đã được xác định đó. Khách thể của tội phạm bao giờ cũng có ảnh hưởng nhất định ở các mức độ khác nhau đến bản chất xã hội, cũng như đến tính nguy hiểm cho xã hội của nó. Nhà làm luật thường liệt kê danh mục các khách thể được nhà 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2