intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tranh tụng giữa kiểm sát viên và người bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

20
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn tồn tại của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, những ưu điểm và tồn tại trong quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa, thông qua đó đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hướng tới xây dựng một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải cách tư pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tranh tụng giữa kiểm sát viên và người bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG NHƯ TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------------ NGUYỄN THỊ HẰNG NHƯ TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI – 2009
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ HẰNG NHƯ
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc 34 thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án từ 2002 – 2008. 2.2 Bảng tổng hợp tỷ lệ tỷ lệ bản án, quyết định bị 36 sửa của tòa án các cấp từ năm 2004 – 2007.
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI 6 PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Nhận thức chung về tranh tụng 6 1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa hình sự 6 1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tranh tụng trong phiên tòa 11 hình sự 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Kiểm sát viên và Người 21 bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự 1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong phiên 21 tòa hình sự 1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Người bào chữa trong 27 phiên tòa hình sự Chương 2: THỰC TIỄN TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT 34 VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG PHIÊN TÒA HÌNH SỰ 2.1. Tình hình tranh tụng của Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự 34 2.1.1. Những ưu điểm của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa 34 hình sự 2.1.2. Những tồn tại của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa 38 hình sự 2.2. Tình hình tranh tụng của Người bào chữa trong phiên tòa hình sự 46
  6. 2.2.1. Những ưu điểm của Người bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa 46 hình sự 2.2.2. Những tồn tại của Người bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa 52 hình sự Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI 59 BÀO CHỮA TRONG PHIÊN TÒA HÌNH SỰ 3.1. Hoàn thiện pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa hình sự 59 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 59 3.1.2. Hoàn thiện văn hóa pháp lý về tranh tụng trong tố tụng hình sự 66 3.2. Giải pháp đối với Viện kiểm sát 72 3.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ của Kiểm sát viên 72 3.2.2. Tăng cường giám sát hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa 80 hình sự 3.3. Giải pháp đối với Luật sư với tư cách Người bào chữa 85 3.3.1. Nâng cao năng lực, trình độ và kỹ năng tranh tụng của Luật sư - 85 Người bào chữa 3.3.2. Tăng cường giám sát hoạt động của Người bào chữa tại phiên tòa 92 hình sự KẾT LUẬN 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002 được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Tiếp theo đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị quyết này đề cập nhiều nội dung của công tác cải cách tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ cho thấy, nội dung của nghị quyết tập trung nhiều hơn vào việc tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Đây chính là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết, theo đó, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của công lý, công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là làm thế nào để đạt được những yêu cầu đó. Trong nỗ lực chung, thì việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là cần thiết. Trong tố tụng hình sự, Kiểm sát viên và Người bào chữa có một vai trò hết sức quan trọng. Kiểm sát viên và Người bào chữa luôn ở vị thế đối trọng nhau tại phiên toà bởi họ đứng trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của các bên được họ đại diện. Do đó quá trình tranh luận của họ tại phiên toà là phần quan trọng trong việc làm rõ tính chất của vụ án và là cơ sở để giải quyết vụ án hình sự. Mặc dù, trên thực tế “tranh tụng giữa kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự” đã có những bước tiến nhất định, nhưng nhìn chung chất lượng và hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Điều này đặt ra việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này 1
  8. trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay nhằm đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của kiểm sát viên và Người bào chữa trong công tác giải quyết vụ án, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Vấn đề tranh tụng hình sự" của tác giả Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam" – Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995; “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên” của tác giả Lê Hữu Thể – Đề tài khoa học cấp bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2005; Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, của TS. Dương Thanh Biểu - Nhà xuất bản tư pháp, 2007; bài về “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của tác giả Trần Văn Độ - Tạp chí khoa học pháp lý số 4/2004; bài "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2003; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc san nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác giả (Nxb Đại học quốc gia, 2004)...Theo đó, các công trình chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên quan tranh tụng chứ chưa có công trình nào nghiên cứu sâu riêng phần tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa. Mặt khác, qua tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã xuất hiện nhiều tồn tại, vướng mắc và xung đột giữa các bên tham gia tố tụng cần phải được 2
  9. tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các kiến giải lập pháp cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chúng. Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, tác giả chọn đề tài: "Tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra những bất cập còn tồn tại của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay, những ưu điểm và tồn tại trong quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa, thông qua đó đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hướng tới xây dựng một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải cách tư pháp. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là: 1- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Kiểm sát viên và Người bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự. 2- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam những năm gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự. 3- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh tụng tại phiên tòa luận văn nêu ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố 3
  10. tụng hình sự, xây dựng văn hóa pháp lý phiên tòa, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát hoạt động của Kiểm sát viên, Người bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa qua đó nâng cao chất lượng tranh tụng, hiệu quả xét xử vụ án hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Phạm vi nghiên cứu Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề tranh tụng giữa hai chủ thể chính là Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa (Người bào chữa) tại phiên tòa. Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, về quyền, nghĩa vụ, vai trò của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự ; đồng thời qua đó chỉ ra vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế định này, trên cơ sở khảo sát thực trạng về chất lượng phiên tòa hình sự từ sau ngày Nghị quyết 08/NQ-TW ra đời. Từ đó đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt Nghị quyết 08/NQ-TW, Nghị quyết 49/NQ-TW nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, luận văn còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng nội dung nghiên cứu của đề tài như: Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu, báo cáo; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử. 4
  11. 6. Những điểm mới của luận văn Là công trình đầu tiên đề cập và giải quyết vấn đề tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa, luận văn có những điểm mới sau: 1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tòa, góp phần nâng cao nhận thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. 2- Khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về tranh tụng của Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa và chỉ ra những hạn chế tồn tại trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tồn tại đó. 3- Đề xuất các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, về năng lực, trình độ của Kiểm sát viên, Người bào chữa, tiến tới xây dựng ý thức văn hóa pháp lý trong tranh tụng... nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Một số giải pháp luận văn đưa ra sẽ giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa nói riêng nâng cao hiệu quả chất lượng phiên tòa hình sự hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về tranh tụng giữ Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên toà hình sự. Chương 2: Thực tiễn tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa trong phiên toà hình sự. Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa trong phiên toà hình sự. 5
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Nhận thức chung về tranh tụng 1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tại phiên toà hình sự Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng nền văn minh nhân loại. Tranh tụng là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Hiện nay, trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng, hoạt động tranh tụng nói chung và hoạt động tranh tụng của Người bào chữa - Luật sư, Kiểm sát viên nói riêng. Theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện tụng [32]. Xét về ngữ, tranh tụng là một từ Hán Việt được ghép từ “tranh luận” và “tố tụng”. Còn tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội), mà giai đoạn đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa các bên tại phiên tòa, mà phải hiểu tranh trụng nó diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt, khi công khai, lúc ngấm ngầm để “cạnh tranh” nhau, để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng làm sao thuyết phục các quan tòa tin được rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội, ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên Công tố 6
  13. đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc. Luật sư của bị cáo có thể bất chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “ bãi chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng [48]. Xét về cách hiểu thông thường nhất, “tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia” [14]. Như vậy, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau song tranh tụng được xem là một loại hoạt động trong quá trình tố tụng cả trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự song đậm nét nhất vẫn là trong tố tụng hình sự. Tranh tụng không chỉ đòi hỏi Tòa án phát huy vai trò phán xét của mình để đưa ra sự thật khách quan của vụ án mà còn đòi hỏi mỗi người tham gia hoạt động tố tụng phải phát huy vai trò của mình. Cụ thể, Tòa án giữ vai trò trung gian, trọng tài cho cuộc tranh tụng giữa Luật sư và Kiểm sát viên. Trong đó Luật sư giữ vai trò là Người bào chữa và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, Kiểm sát viên và cơ quan điều tra với vai trò là bên buộc tội để tìm ra công lý. Hay nói cách khác, tranh tụng trong phiên tòa chính là một trong các hoạt động tố tụng được tiến hành bởi các bên tham gia tố tụng nhằm mục đích đưa ra các luận điểm, ý kiến của mình để bảo vệ quan điểm hoặc bác bỏ luận điểm và những lời buộc tội của phía bên kia dưới sự điều khiển công minh, chính trực của Tòa án. Xét về mặt chủ thể, có thể dễ dàng nhận thấy mối quan hệ pháp luật trong tranh tụng là mối quan hệ giữa cơ quan, cá nhân hoạt động nhân danh Nhà nước, nhánh quyền tư pháp với cá nhân hoạt động mang tính xã hội - nghề nghiệp. Tranh tụng vì thế có đặc thù bất bình đẳng về vị trí pháp lý của chủ thể nên đòi hỏi phải có sự bình đẳng trong cách thức, quy trình và thủ tục tranh tụng, cách đánh giá và phán xét để đảm bảo cho Luật sư được bình đẳng 7
  14. trong tranh tụng, đảm bảo quyền lực tố tụng được san sẻ và đạt ở mức bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng. Phân biệt giữa “ tranh tụng” và “ tranh luận” Tiến sỹ Nguyễn Thái Phúc khi cho rằng, ở góc độ chung nhất, “tranh tụng” là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa hai chức năng đối trọng với nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ các ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, khi xuất hiện chức năng buộc tội thì tất yếu xuất hiện chức năng bào chữa. Đó chính là thời điểm bắt đầu của quá trình tranh tụng… Còn “tranh luận” là một thủ tục, một phần độc lập của phiên tòa xét xử trong đó các bên buộc tội và bào chữa thông qua phần trình bày của mình tổng hợp và đánh giá kết quả của phần xét hỏi, phân tích, đánh giá các chứng cứ của vụ án và đưa ra những đánh giá chính trị - xã hội và đánh giá pháp lý đối với các hành vi của bị cáo, đề nghị hình phạt và những vấn đề liên quan mà Tòa án phải giải quyết khi nghị án. Tranh luận là cuộc "đấu khẩu" với sự tham gia của các "bên" buộc tội và bào chữa có quyền ngang nhau để bảo vệ các ý kiến, luận điểm của mình và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên đối trọng dưới vai trò điều khiển và quyết định của Tòa án. Tranh luận tạo cơ hội cho các bên trình bày những đánh giá có tính kết luận của mình về các vấn đề của vụ án với Hội đồng xét xử nhằm thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận những đề nghị của mình và bác bỏ đề nghị của phía bên kia. Thủ tục tranh luận tại phiên tòa thể hiện đậm nét nhất, tập trung nhất và là đỉnh cao của quá trình tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng, là một phần của tranh tụng [35]. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi sự phân định rõ ràng về các chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử, trong đó chức năng buộc tội thuộc về bên công tố, chức năng gỡ tội thuộc bên Luật sư biện hộ và chức năng xét xử thuộc về Tòa án. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nội dung của nguyên 8
  15. tắc tranh tụng xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự kể từ khi bắt đầu cuộc điều tra cho đến khi Tòa án ra phán quyết, chứ không nên hiểu đơn giản là tranh tụng chỉ được tiến hành tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng chính là điều kiện để bảo đảm việc xác định đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, hình thức tranh tụng giúp cho việc kiểm tra tại phiên tòa từng chứng cứ, từng chi tiết của vụ án ở cả hai góc độ buộc tội và gỡ tội. Nhờ đó, Tòa án có thể nghiên cứu, đánh giá tất cả những gì mà bên buộc tội khẳng định cũng như tất cả những gì mà bên gỡ tội phản bác. Trên cơ sở đó xác định đúng người phạm tội dể trừng trị, đồng thời không làm oan người vô tội, tạo tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Xét xử hình sự, là hoạt động giải quyết vụ án mà trong đó Tòa án xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ dựa trên các chứng cứ, tranh luận của bên buộc tội và bên gỡ tội đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan từ đó đưa ra phán quyết về vụ án. Tùy theo tính chất vụ án mà chức năng tố tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác nhau. Tranh tụng trong tố tụng hình sự diễn ra giữa các bên buộc tội và bên bào chữa, chủ yếu là giữa Kiểm sát viên với Người bào chữa và bị cáo. Để những người đó thực hiện việc tranh tụng, pháp luật tố tụng quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định. Bản chất của tranh tụng được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại Tòa, còn ở các giai đoạn khác của tố tụng hình sự, nguyên tắc này chỉ thể hiện trong một số yếu tố nhất định. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm là Tòa án giữ vai trò là chủ thể chính trong việc duy trì và hướng dẫn các thủ tục đối với các bên tham gia tranh tụng tại Tòa. Tuy nhiên, Tòa án không hạn chế tính chủ động và tích cực của các bên tham gia tranh tụng hoặc “làm thay chức năng của họ”. Mặt khác, Tòa án 9
  16. cũng không được để cho quá trình tranh tụng diễn ra theo ý chí chủ quan của các bên. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đã kết hợp được những điểm tích cực của tố tụng xét xử và tố tụng tranh tụng. Tranh tụng tại phiên tòa nhưng vẫn giữ được bản chất của “tố tụng xét hỏi” trên cơ sở kết quả điều tra và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Mặc dù không phải là “tố tụng tranh tụng” nhưng tính chất tranh tụng tại phiên tòa vẫn là sự tranh luận giữa người có quyền và lợi ích đối lập nhau như giữa Kiểm sát viên, người bị hại với bị cáo, Người bào chữa; trong một số trường hợp là giữa Kiểm sát viên với người bị hại; giữa người tham gia tố tụng với nhau. Trong tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và Luật sư vẫn là những người tham gia chính. Hội đồng xét xử không phải là người tham gia tranh tụng mà chỉ là người có tổ chức, điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa giữa những người có quyền và lợi ích đối lập nhau. Do đó, vai trò của Hội đồng xét xử mà trực tiếp là chủ tọa phiên tòa trong việc tranh tụng như thế nào để đạt được mục đích là vô cùng quan trọng. Tranh tụng được hiểu là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Như vậy, có thể hiểu, Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, trong đó Tòa án giữ vai trò trung gian, trọng tài thay mặt nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên Tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật. Tranh tụng trong tố tụng hình sự có một ý nghĩa đặc biệt, nó chính là biểu hiện của tố tụng hình sự nói chung, thể hiện rõ nét trong giai đoạn xét xử 10
  17. tại tòa và là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào tiến trình tố tụng hình sự thực hiện đầy đủ và đúng đắn các chức năng của mình. Một số học giả còn cho rằng, tranh tụng chính là công cụ quan trọng nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, nguyên tắc tranh tụng còn liên quan chặt chẽ đến các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự, đặc biệt là các nguyên tắc như giả định vô tội, quyền có Người bào chữa của bị cáo và xác định sự thật khách quan của vụ án…Các nguyên tắc này tác động qua lại với nhau và là điều kiện bảo đảm cho nhau cũng như toàn bộ tiến trình tố tụng hình sự [49]. 1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tranh trụng trong phiên toà hình sự Để thực hiện công cuộc cải cách tư pháp nói chung, ngày 02/01/2002 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày 24/5/2005 và 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết 48 và 49-NQ/TW “ về chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và “ chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, theo đó, mục tiêu của các Nghị quyết xác định: “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” theo đó, Đảng và nhà nước ta đã xác định cải cách tư pháp là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách. Ngay trong Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ “Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược 11
  18. cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Đối với tất cả các nền tư pháp trên thế giới, hoạt động tranh tụng bao giờ cũng gắn với hoạt động tài phán của Tòa án. Tòa án thực hiện chức năng như một trọng tài có địa vị độc lập với các bên và có nhiệm vụ phân xử giữa các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau. Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật một cách công khai và chính thức về vụ án. Do vậy với vai trò quan trọng đó của Tòa án tại phiên tòa, để thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đã xác định rằng: “Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan … việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của Người bào chữa, bị cáo để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà …”. Phiên tòa là giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng, chỉ có đến giai đoạn này thì mới có sự tập hợp đầy đủ các bên và đồng thời chỉ có thể thông qua quá trình tranh luận công khai, minh bạch tại phiên tòa thì mọi tình tiết của vụ án mới được làm sáng tỏ thông qua sự cọ xát về luận điểm của mỗi bên. Cũng qua đó mà những chứng cứ đã được các bên thu thập theo quy định của pháp luật được công khai phơi bày và kiểm chứng. Nếu tranh tụng tại phiên tòa được các bên tham gia nghiêm túc thực hiện thì hiệu quả giải quyết vụ án sẽ rất cao, khắc phục được việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, tình trạng yếu kém của hệ thống tư pháp. Như vậy tranh tụng tại phiên tòa có giá 12
  19. trị rất lớn trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, trong các văn bản hướng dẫn, tài liệu tập huấn Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tài liệu tập huấn cho các thẩm phán về kỹ năng xét xử của Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết phối hợp rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các cấp… Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân vẫn thường xuyên nhắc nhở các cán bộ phải tiếp tục quán triệt Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị và các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; việc phán quyết của tòa phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên xử. Thời gian qua, nhất là sau khi Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị và sau đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị được ban hành, đã có một số ý kiến cho rằng chúng ta cần phải chuyển sang hệ thống tố tụng tranh tụng để việc xét xử được dân chủ và khác quan hơn. Tuy nhiên quan điểm này không thu hút được nhiều ý kiến đồng tình của các học giả và hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn của hoạt động tố tụng nước ta. Bởi lẽ, với mục đích tăng cường tính công khai và dân chủ nhằm bảo đảm và làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án, vấn đề tranh tụng, nhìn từ mọi khía cạnh, từ lâu đã được quy định tro ng pháp luật của Nhà nước ta và ngày càng được hoàn thiện. Mặt khác, nếu chúng ta thực hiện việc chuyển đổi hoạt động tố tụng hình sự sang hệ tranh tụng thì đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về hệ tố tụng, về nguyên tắc và thủ tục tố tụng, về tổ chức các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử... Thực tế, Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị tuy nhấn mạnh rất nhiều vấn đề tăng cường chất 13
  20. lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, nhưng không hề đề cập tới việc chúng ta sẽ chuyển sang hệ tố tụng tranh tụng. Hơn thế nữa các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh và khẳng định việc tiếp tục duy trì hệ thống tố tụng thẩm vấn. Như vậy, hệ thống tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay thuộc về hệ thống tố tụng thẩm vấn, có đan xem những yếu tố của hệ thống tố tụng tranh tụng. Cùng với việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án thì các Nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị cũng đã đề cập đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan giám định, tổ chức Luật sư bởi chất lượng và hiệu quả của việc tranh tụng tại phiên tòa phụ thuộc rất nhiều ở kết quả giám định, thu thập chứng cứ, điều tra và kiểm sát hoạt động điều tra, hoạt động bào chữa gỡ tội... Sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có văn bản gửi kèm Công văn số 13-CV/BCĐCCTP ngày 04/11/2002, trong đó đưa ra một số gợi ý về việc tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW. Trong đó nêu rõ mục đích tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08- NQ/TW phải đảm bảo sự tôn nghiêm, dân chủ và văn minh của pháp luật, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, của Người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, người bị hại, người giám định, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Các 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1