intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định ranh giới ngoài thềm lục địa trong luật quốc tế hiện đại

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:147

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thềm lục địa; các quy định của pháp luật quốc tế mà chủ yếu là Công ước 1982 về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa; vấn đề phân định thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện. Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích thực tiễn phân định và xác định ranh giới ngoài thềm lục địa giữa Việt Nam và các nước liên quan; cũng như phân tích các thủ tục, giai đoạn để trình báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục địa cho Liên Hợp Quốc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định ranh giới ngoài thềm lục địa trong luật quốc tế hiện đại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HÙNG CƯỜNG XÁC ĐỊNH RANH GIỚI NGOÀI THỀM LỤC ĐỊA TRONG LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HÙNG CƯỜNG XÁC ĐỊNH RANH GIỚI NGOÀI THỀM LỤC ĐỊA TRONG LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Năng Hà nội - 2011
  3. MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN 1 MỤC LỤC 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 5 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ 6 LỜI MỞ ĐẦU 7 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ THỀM LỤC ĐỊA 11 1.1. Khái niệm khoa học địa lý - địa chất và cấu tạo của thềm lục 11 địa 1.2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của thềm lục địa 15 1.2.1. Tài nguyên sinh vật 17 1.2.2. Tài nguyên phi sinh vật và các loại tài nguyên khác 18 1.2.3. Tầm quan trọng về chiến lược quân sự của thềm lục địa 23 1.2.4. Ý nghĩa về mặt chính trị 23 1.3. Khái niệm pháp lý về thềm lục địa 24 1.3.1. Khái niệm về thềm lục địa trong Công ước Geneva 1958 24 1.3.2. Khái niệm thềm lục địa trong Công ước Luật biển 1982 34 1.3.3. Khái niệm thềm lục địa trong các phán quyết của Tòa án Công lý 45 quốc tế 1.3.4. Khái niệm thềm lục địa trong pháp luật Việt Nam 46 1.4. Quy chế pháp lý của thềm lục địa theo Công ước 1982 48 Chương II. XÁC ĐỊNH RANH GIỚI NGOÀI CỦA THỀM 52 LỤC ĐỊA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ 2.1. Xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa theo Công ước 1982 52 2.1.1. Nguyên tắc chung 52 1
  4. 2.1.2. Xác định đường cơ sở của quốc gia ven biển 57 2.1.3. Xác định khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở 57 2.1.4. Xác định bờ ngoài của rìa lục địa 57 2.2. Ủy ban ranh giới ngoài của thềm lục địa (CLCS) 66 2.2.1. Chức năng của CLCS 66 2.2.2. Thẩm quyền của CLCS 68 2.3. Quy trình thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa vượt quá 74 200 hải lý tính từ đường cơ sở 2.3.1. Quy định chung về thủ tục trình báo cáo của quốc gia ven biển 74 2.3.2. Giai đoạn 1: Kiểm tra tính khả thi của ranh giới thềm lục địa ngoài 76 200 hải lý 2.3.3. Giai đoạn 2: Lập và gửi bản đệ trình của quốc gia ven biển 78 2.3.4. Giai đoạn 3: Gửi bản đệ trình mới hoặc bản đệ trình sửa đổi của 80 quốc gia ven biển 2.4. Phân định ranh giới ngoài thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ 82 biển tiếp liền hay đối diện 2.4.1. Các nguyên tắc phân định ranh giới ngoài thềm lục địa giữa các 83 quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện 2.4.2. Các điều ước quốc tế song phương về phân định ranh giới ngoài 88 thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện 2.4.3. Các phán quyết của ICJ về phân định ranh giới ngoài thềm lục địa 89 giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện Chương III. XÁC ĐỊNH RANH GIỚI NGOÀI VÀ PHÂN 95 ĐỊNH THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM 3.1. Tổng quan về các tranh chấp ở Biển Đông 95 3.2. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về thềm lục địa giữa 96 các quốc gia trong khu vực Biển Đông 3.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế hiện đại 96 2
  5. 3.2.2. Công ước Luật biển 1982 99 3.2.3. Tuyên bố quy tắc ứng xử Biển Đông (DOC) 100 3.2.4. Điều ước quốc tế song phương 101 3.2.5. Các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế 102 3.3. Xác định ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam 102 3.3.1. Thực tiễn xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa Việt Nam và 102 một số quốc gia trong khu vực 3.3.2. Thực tiễn phân định thềm lục địa Việt Nam với các quốc gia láng 114 giềng 3.4. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị đối với việc xác định 119 ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam 3.4.1. Phương hướng, giải pháp, kiến nghị chung 119 3.4.2. Giải pháp, kiến nghị tiếp tục xác định ranh giới ngoài thềm lục địa 121 của Việt Nam tại các khu vực chưa có đường hoạch định ranh giới thềm lục địa KẾT LUẬN 127 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 129 PHỤ LỤC 3
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CLCS :Ủy ban Ranh giới ngoài về thềm lục địa Công ước 1958 :Công ước Geneva về thềm lục địa năm 1958 Công ước 1982 :Công ước về Luật biển năm 1982 ICJ :Tòa án Công lý quốc tế RoP :Bộ Quy tắc về Thủ tục UNCLOS I :Hội nghị lần thứ I của Liên Hợp Quốc về Luật biển UNCLOS III :Hội nghị lần thứ III của Liên Hợp Quốc về Luật biển 4
  7. UN :Liên Hợp Quốc DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ Hình 1.1. : Cấu tạo thềm lục địa Hình 1.2. : Khí Hydrat Hình 2.1. : Các ranh giới ngoài của thềm lục địa 5
  8. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 7 tháng 5 năm 2009, Chính phủ Việt Nam đã trình CLCS hồ sơ xác định ranh giới thềm lục địa nằm ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam ở khu vực phía bắc (VNM-N). Trước đó, ngày 6 tháng 5 năm 2009, Việt Nam và Malaysia cũng đã phối hợp trình CLCS hồ sơ chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước. Việc trình các báo cáo này là để thực hiện các nghĩa vụ của một quốc gia ven biển theo các quy định của Công ước 1982. Điều 76 Công ước 1982 xác định thềm lục địa của một quốc gia ven biển là đáy biển và lòng đất của phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ quốc gia ven biển đến mép ngoài của rìa lục địa. Nếu rìa lục địa nhỏ hơn 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của quốc gia ven biển, thì thềm lục địa của quốc gia ven biển là 200 hải lý. Nếu rìa lục địa của quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý, thì quốc gia đó có quyền mở rộng thềm lục địa của mình ra quá 200 hải lý, nhưng tối đa không quá 350 hải lý Theo Khoản 8 Điều này, để xác định thềm lục địa vượt quá 200 hải lý, quốc gia ven biển phải nộp báo cáo lên CLCS với đầy đủ các thông tin đo đạc khảo sát, khoa học, kỹ thuật theo bản hướng dẫn của Ủy ban để chứng minh. Các quốc gia ven biển có thể tự nộp hồ sơ toàn phần hoặc hồ sơ từng phần và cũng có thể phối 6
  9. hợp với nhau trình báo cáo chung cho Ủy ban. Đối với các quốc gia ven biển đã trở thành thành viên Công ước trước ngày 13 tháng 5 năm 1999 - ngày CLCS ban hành Bản hướng dẫn khoa học kỹ thuật về ranh giới thềm lục địa, trong đó có Việt Nam, thì thời hạn cuối cùng để nộp hồ sơ là ngày 13 tháng 5 năm 2009. Quốc gia ven biển cũng có thể chọn một cách thức khác là gửi những thông tin sơ bộ đệ trình cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc những thông tin ban đầu biểu thị ranh giới ngoài thềm lục địa vượt quá 200 hải lý và sự mô tả tình trạng chuẩn bị cũng như ngày dự kiến gửi bản đệ trình. Đến thời điểm hiện tại đã có 55 quốc gia đáp ứng được thời hạn chót của Liên Hợp Quốc để trình hồ sơ xác định các đường ranh giới thềm lục địa mở rộng. Tuy nhiên, việc Việt Nam nộp Hồ sơ về ranh giới ngoài của thềm lục địa không có nghĩa rằng mọi việc đã chấm dứt. Trong quá trình lập hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, chúng ta đã có thể gặp thiếu sót. Hơn nữa, khi Việt Nam gửi hồ sơ đã gặp sự phản đối dữ dội của Trung Quốc (ngay sau khi Việt Nam gửi Hồ sơ riêng và Hồ sơ chung với Malaysia, Trung Quốc đã gửi Công hàm cho Liên Hợp Quốc đề nghị CLCS "không xem xét hồ sơ chung mà Malaysia và Việt Nam đã nộp về thềm lục địa mở rộng". Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Triều Húc tuyên bố hồ sơ của Việt Nam là "xâm phạm trắng trợn chủ quyền Trung Quốc". Ông Mã nói hồ sơ Việt Nam là "bất hợp pháp và không có giá trị", trong bình luận đăng tải ở website Bộ Ngoại giao Trung Quốc). Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các Bản Hồ sơ này trong tương lai có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa trên biển Đông cũng như giải quyết các tranh chấp với các nước liên quan. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa là một vấn đề khoa học pháp lý tương đối mới mẻ tại Việt Nam. Hiện tại chưa có một công trình, bài báo hay tài liệu nào nghiên cứu trực tiếp, toàn diện, đầy đủ, chuyên sâu về vấn đề này mà chủ yếu là phân tích về thềm lục địa và các quy chế pháp lý của nó, qua đó có đề cập 7
  10. một phần rất nhỏ về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của Luật Biển ở Việt Nam, Bộ Ngoại Giao, Ban Biên giới, NXB Chính trị Quốc gia, 2004; Luật Biển, Nguyễn Ngọc Minh, NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1977; Luật Biển - Những vấn đề cơ bản theo Công ước 1982, Phạm Giảng, NXB Pháp Lý, 1983; Giáo trình Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an Nhân Dân, 2009; Các nước xung quanh Biển Đông và vấn đề trình hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa, PGS.TS. Nguyễn Hồng Thao, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12(173), 2010; Chính sách, pháp luật biển của Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững, PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Trung tâm Luật Biển và Hàng hải quốc tế, NXB Tư pháp, 2006; Công ước Biển 1982 và Chiến lược biển của Việt Nam, TS.Nguyễn Hồng Thao (Chủ biên), PGS.TS. Đỗ Minh Thái, TS. Nguyễn Thị Như Mai, ThS. Nguyễn Thị Hường, NXB Chính trị quốc gia, 2008… 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thềm lục địa; các quy định của pháp luật quốc tế mà chủ yếu là Công ước 1982 về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa; vấn đề phân định thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện. Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích thực tiễn phân định và xác định ranh giới ngoài thềm lục địa giữa Việt Nam và các nước liên quan; cũng như phân tích các thủ tục, giai đoạn để trình báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục địa cho Liên Hợp Quốc. Đề tài cũng sẽ đề ra những phương hướng, giải pháp cho việc tiếp tục xác định ranh giới ngoài của Việt Nam trong tương lai. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài sẽ tập trung chủ yếu nghiên cứu các quy định trong Công ước Luật biển năm 1982, Công ước Geveva 1958 về thềm lục địa, Bộ Quy tắc về Thủ tục và Bản Hướng dấn Khoa học và Kỹ thuật của CLCS, một số phán quyết nổi bật của ICJ về thềm lục địa; các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và các nước hữu quan về 8
  11. phân định thềm lục địa, hồ sơ chung với Malaysia và hồ sơ riêng của Việt Nam trình Liên Hợp Quốc về việc xác định ranh giới ngoài thềm lục địa. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp truyền thống như duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, khảo sát thực tiễn, so sánh, đối chiếu cũng được sử dụng để đạt được mục đích của đề tài. 6. Bố cục của Đề tài: Ngoài phần Lời mở đầu, Kết Luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, đề tài được kết cấu thành ba chương như sau: Chương 1. Tổng quan về thềm lục địa Chương 2. Xác định ranh giới ngoài thềm lục địa theo quy định của pháp luật quốc tế Chương III. Xác định ranh giới ngoài và phân định thềm lục địa Việt Nam 9
  12. Chương I TỔNG QUAN VỀ THỀM LỤC ĐỊA 1.1. Khái niệm khoa học địa lý - địa chất và cấu tạo của thềm lục địa Khái niệm thềm lục địa ngày nay đã được sử dụng khá phổ biến trong khoa học, trong nghiên cứu cũng như trong các hoạt động pháp lý của cả các quốc gia có biển và không có biển trên thế giới. Về mặt địa chất, thềm lục địa hình thành ngay từ quá trình hình thành cấu tạo vỏ trái đất và các đại dương, tuy nhiên thuật ngữ này chỉ ra đời từ cuối thế kỷ XIX khi chính quyền Nga hoàng thông báo với thế giới về “một số đảo mới phát hiện ở Bắc Sibêri là “phần kéo dài về phía Bắc thềm lục địa Sibêri”. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “thềm lục địa” và khái niệm “phần kéo dài của thềm lục địa” được sử dụng [28]. Ngày nay, khoa học xác định được rằng bên ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển có một dải đất bằng phẳng, với kích thước khác nhau dưới đáy biển, có độ dốc rất thoải (chỉ khoảng 10 phút), dần dần đi xuống thấp cho đến một vùng rất sâu, gọi là “bình nguyên sâu thẳm”. Phần đáy biển trung gian giữa đất liền và bình nguyên sâu thẳm, đó chính là thềm lục địa. Như vậy, thềm lục địa, về mặt địa chất, địa lý là phần lục địa bị ngập dưới biển, tiếp liền với bờ biển, có độ dốc rất thoải, chỉ khoảng mười phút, độ sâu vài 10
  13. chục mét tới 350m, trung bình là 200m. Bề rộng của thềm lục địa có thể từ 0 m đến 1.500 km. Tổng diện tích của thềm lục địa trên thế giới ước rộng tới 32 triệu km2, chiếm 9% bề mặt đại dương [31]. Tuy nhiên, phần địa hình này phân bổ rất không đồng đều giữa các nước ven biển do cấu trúc địa chất của các nước không giống nhau. Chiều rộng của thềm lục địa dao động một cách đáng kể. Có rất nhiều khu vực không có thềm lục địa, đặc biệt là ở các khu vực mà các gờ của vỏ đại dương nằm gần vỏ lục địa trong các khu vực sút giảm ven bờ, chẳng hạn như các vùng bờ biển của Chile hay bờ biển phía tây của đảo Sumatra. Thềm lục địa lớn nhất - thềm lục địa ở Bắc Băng Dương - kéo dài tới 1.500km. Theo độ sâu, Biển Đông hình thành hai khu vực: khu vực biển sâu (hay thung lũng biển) nằm ở phần đông bắc, diện tích 1.745 triệu km2, chiếm 49,8% toàn vùng biển; khu vực biển nông là thềm lục địa rộng lớn, chiếm một diện tích 1.755 triệu km2 hay 50,2% diện tích toàn vùng biển. Khư vực biển sâu có độ sâu tối đa đến 5.016m, tách biệt với Palawan và một bình nguyên sâu thẳm có trung tâm tại độ sâu khoảng 4.300m. Thềm lục địa của Biển Đông bao gồm rìa lục địa kéo dài từ eo biển Đài Loan qua vịnh Bắc Bộ, thềm Sunda rộng lớn (nối liền các đảo Borneo, Sumatra và Java với châu Á đại lục) nằm ở phía tây nam Biển Đông, trong đó có vịnh Thái Lan, vùng biển Nam Bộ và vùng thềm hẹp ở phía tây các đảo, lần lượt cách bờ Đài Loan 11 km, Philippin 18 km, Palawan 55km và Borneo 93 km [38]. Thoạt đầu thềm không rộng lắm, men theo bờ Nam Trung Quốc, khi đến gần đảo Hải Nam thì mở rộng, chiếm toàn bộ vịnh Bắc Bộ và vùng ngoài khơi cửa vịnh phía nam. Trước bờ biển miền Trung, thềm tiến sát vào bờ, chỉ còn cách Hội An chừng 80 km. Càng đi xuống, thềm càng thắt lại, mép ngoài của nó đã lấn trước mũi Nạy 20 km. Sau đó, thềm lục địa lại mở rộng, ôm lấy toàn bộ vịnh Thái Lan, biển Nam Bộ và biển Sunda. Phần kề với thềm lục địa phía tây được cấu tạo bởi các bậc thềm của dốc lục địa và đặc trưng bởi sự có mặt của các ám tiêu san hô và các thung lũng. Những ám tiêu san hô nổi tiếng nằm ở trong các bậc thềm Pratas, Helen và Hoàng Sa. Phần phía đông Biển Đông có thềm lục địa hẹp rồi đến dốc lục địa và các hố sâu. Vùng đáy biển phía tây bắc đảo Borneo như một cao nguyên gồ ghề, nhiều đảo 11
  14. san hô nhọn hoặc bị bạt đầu, nằm ở độ sâu 1.500 - 2000m, rất nguy hiểm cho tàu thuyền qua lại. Vùng trung tâm Biển Đông là các bình nguyên sâu thẳm, bề mặt đáy tương đối bằng phẳng, trừ ở giữa bình nguyên xuất hiện một số đảo ngầm, có thể xưa kia là đỉnh núi lửa. Những bình nguyên này dốc thoai thoải, nằm ở độ sâu từ 3.400 - 4.200m, kéo dài theo hướng đông bắc - tây nam. Những vùng sâu của Biển Đông được bao phủ bởi các trầm tích hạt mịn, thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau. Điều đáng chú ý là người ta đã phát hiện được ở đây nhiều chất đáy chỉ đặc trưng cho các đại dương như các loại bùn xám [19]. Trên thế giới, có nước hầu như không có thềm lục địa như Colombia, hoặc có thềm lục địa hẹp như các nước Ảrập, Châu Phi. Có nước có thềm lục địa rộng lớn như Mỹ, Nga, Canada, Ireland, Argentina, Australia, Srilanka... Điều này có ảnh hưởng quan trọng đến địa hình đáy biển, cũng như các yếu tố kinh tế, xã hội khác khi các quốc gia này nhận thức được vai trò quan trọng của thềm lục địa đối với sự phát triển của quốc gia mình. Sau nhiều nghiên cứu khoa học, cuối cùng, đến đầu thế kỷ XX, các nhà địa lý học đã đi đến kết luận cuối cùng và có sự mô tả khá chi tiết về thềm lục địa như sau: Thềm lục địa là một phần của đáy biển chạy từ bờ ra phía ngoài khơi theo một độ dốc thoai thoải, và đến một khoảng cách nhất định kể từ bờ thì thụt hẳn xuống tới đáy đại dương. Phần đáy biển này được coi là phần kéo dài tự nhiên của lục địa. Dựa vào cơ cấu địa chất và địa mạo đáy biển và lòng đất đáy biển, các nhà khoa học tự nhiên đã chia vùng này ra thành 3 phần: thềm, dốc và bờ. Thềm Theo khoa học địa chất, thềm là phần đáy biển ven bờ bao quanh lục địa, tiếp giáp với bờ biển, được bắt đầu từ bờ biển và kết thúc ở đường địa mạo. Đường địa mạo nằm ở những vùng nước có độ sâu rất khác nhau từ 130 - 200m, cá biệt có nơi ở độ sâu từ 50 - 1.200m. Thềm là vùng đáy biển bằng phẳng, thoai thoải dốc ra phía ngoài khơi. Độ dốc của thềm từ 1,5 đến 20 trung bình là 0,070. Chiều rộng của thềm 12
  15. không bằng nhau, có chỗ rộng và chỗ hẹp, thay đổi từ 5 - 10 km đến 1.200 -1.300 km. Thềm chiếm khoảng 8% diện tích đáy biển. Dốc Dốc lục địa bắt đầu từ đường địa mạo, là một vùng rất lồi lõm, có độ dài tương đối hẹp, khoảng từ 10 - 100 km. Cũng như thềm lục địa, dốc lục địa thường nằm ở ngoài khơi của hầu hết các lục địa, đặc biệt và rõ rệt nhất là ở ngoài khơi các vùng núi sát bờ biển. Dốc lục địa chấm dứt khi độ dốc bắt đầu thoai thoải trở lại: đó là nơi bắt đầu của bờ. Bờ Bờ là phần địa hình cuối cùng của thềm lục địa, bắt đầu từ chân dốc lục địa và kết thúc ở ranh giới bắt đầu của đáy biển sâu. Bờ có hình dạng địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc trung bình khoảng 1/300 và có chiều dài lớn gấp nhiều lần dốc lục địa (khoảng từ 100 - 1000 km. Ngoài bờ là nền đại dương, nơi có mực nước sâu từ 2000 đến 5000 km. Trong lịch sử phát triển, đã có rất nhiều các tranh luận, quan điểm khác nhau về khái niệm thềm lục địa và giải thích sự hình thành thềm lục địa. Tuy nhiên tất cả các quan điểm này đều ghi nhận và đi đến cách nhìn nhận chung về thềm lục địa là: đây là một phần của đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa. Ranh giới phía trong là bờ biển và ranh giới phía ngoài là bờ ngoài của rìa lục địa. Học thuyết về sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong thực tiến và các quy chế pháp lý về thềm lục địa trên thế giới. Điều này tác động không nhỏ đến luật pháp quốc tế về biển, lợi ích của các quốc gia có biển và không có biển cũng như mối quan hệ của các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc liền kề trên thế giới do các giá trị về mặt kinh tế mà thềm lục địa mang lại. 13
  16. Hình 1.1. Cấu tạo địa chất thềm lục địa 1.2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của thềm lục địa Chiếm diện tích hơn 71% bề mặt hành tinh, đại dương được coi là “ranh giới cuối cùng” cùa loài người; tài nguyên biển và đại dương được coi như “nơi nương tựa cuối cùng” để phục vụ nhu cầu thức ăn, nước uống, nguyên liệu và năng lượng cho nhân loại. Đại dương đã và đang trở thành “lục địa thứ sáu” và cùng với sự thách thức từ vũ trụ, sự thách thức khám phá và chinh phục đại dương trở thành sự thách thức của thế kỉ XXI - thế kỉ được thế giới xem là “thế kỷ của đại dương”. Với những đợt sóng của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng lan rộng, với sự phát triển kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, các hoạt động khai thác trên biển, đáy biển và đáy đại dương đã được triển khai một cách mạnh mẽ, toàn diện, rộng rãi, và với quy mô rộng lớn. Những lợi ích khổng lồ từ các hoạt động đầy ý nghĩa này đã thật sự soi sáng cho cơ hội thịnh vượng và phát triển cho các quốc gia có biển. Tiến ra biển, làm chủ biển đã trở thành xu thế, là hành động tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay nhằm đối phó với những thách thức mang tính toàn cầu: cạn kiệt tài nguyên trên đất liền, khủng hoảng môi trường nghiêm trọng và gánh nặng lương thực đang trĩu nặng trên bờ vai của nhân loại trước sự gia tăng dân 14
  17. số chóng mặt…Trong quá khứ, biển đã giúp xây dựng và phát triển những nền văn minh huy hoàng. Nhờ sớm tiến ra biển, những nền văn minh Hy Lạp, La Mã, hay Châu Âu đã có thể mở rộng ảnh hưởng của mình, tác động mạnh mẽ tới tinh thần, vật chất và văn hóa của một phần rộng lớn trên trái đất. Ngày nay, tất cả các quốc gia là cưởng quốc trên thế giới đều là quốc gia ven biển. Xu hướng tiến ra biển ngày càng trở nên rõ nét trong lịch sử phát triển của các quốc gia; không một quốc gia ven biển nào không có khát vọng tiến ra biển. Mỗi quốc gia ven biển đều tự xây dựng chiến lược biển riêng cho mình. Chiến lược biển của Trung Quốc năm 1990 nhận định: “Dân tộc nào sống xa lạ với biển là tự khép kín mình, tất nhiên sẽ bị lạc hậu. Nước Trung Quốc cũ xa lạ với biển, thực hiện chính sách “bế quan, tỏa cảng” và khóa chặt đất nước nên lạc hậu… Trên thế giới ngày nay, dân tộc nào chỉ quan điểm đất liền, không có nhận thức về biển là dân tộc bảo thủ, không thể thịnh vượng phát triển” [9]. Biển, với những nguồn tài nguyên khổng lồ của mình, đang khẳng định vị thế cứu tinh cho nhân loại. Tổng giá trị các tài nguyên biển ước tính khoảng bảy nghìn tỷ USD một năm, chưa tính các giá trị khác của biển cả như công nghiệp giải trí, giao thông vận tải, thông tin, điều hòa khí hậu, hấp thụ và tiêu thụ chất thải. Khoảng 90% lượng hàng hóa buôn bán quốc tế được vận chuyển bằng đường biển [19]. Tiến ra biển, làm chủ biển và đại dương chắc chắn sẽ là xu thế không thể đảo ngược của nhân loại nhằm tìm kiếm, phát triển các tiềm năng về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn cho tương lai. Biển nước ta có vị trí địa kinh tế và địa chính trị chiến lược rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, quốc phòng và an ninh. Năm 2005, kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp khoảng 48% GDP cả nước, trong đó, riêng kinh tế trên biển chiếm khoảng 22% [15]. Với nhận thức về tầm quan trọng của biển đối với sự nghiệp phát triển đất nước, từ những năm 1990, Đảng và Nhà nước đã có một số nghị quyết, chính sách về các lĩnh vực liên quan đến biển. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trong Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020” đã xác định: “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giảu từ biển, bảo đảm vững chắc, chủ 15
  18. quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh… Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước”. Như vậy, trải qua một thời gian dài, đến thời điểm hiện tại chiến lược biển của Việt Nam đã dần được định hình với những mục tiêu, định hướng, giải pháp khá cụ thể, đang làm cơ sở vững chắc cho các bước tiến ra biển của Việt Nam nhằm trở thành một quốc gia biển. Trong một tương lai đang được định hình rõ nét, với những phương thức phát triển mới đang hiện lên ở cuối chân trời, kinh tế biển và đại dương sẽ là tiền đề cho tương lai của nền kinh tế nhân loại nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng mà tại đó vị trí quán quân của kinh tế đại dương sẽ thuộc về thềm lục địa, một vùng biển được đặc trưng bởi sự giàu có về tài nguyên sinh vật và không sinh vật. 1.2.1 Tài nguyên sinh vật Vùng thềm lục địa có các lớp trầm tích luôn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều và sự bức xạ mặt trời tạo thành một tầng sinh dưỡng vô cùng màu mỡ. Nhờ có nguồn thức ăn phong phú ở đáy và rìa lục địa và nhờ sự xuyên thấu của ánh sáng mặt trời, thềm lục địa trở thành môi trường rất thuận lợi cho vô số các loài động vật và thực vật biển sinh sống và phát triển nhanh chóng. Các vùng thềm ở độ nước sâu 200-300 mét cho chúng ta một sản lượng lớn tài nguyên sinh vật biển phong phú về giống loài, cả thực vật và động vật biển. Trong đó đặc biệt phát triển và có giá trị kinh tế cao là các loài cá biển. Thống kê nhiều năm về phân bố địa lý các vùng đánh cá cho thấy, khoảng 15% sản lượng đánh bắt thuộc về vùng biển nông, 85% thuộc về các vùng biển khác nhau như Đại Tây Dương (45%), Thái Bình Dương (50%) và Ấn Độ Dương (5%). Riêng vùng thềm lục địa đã chiếm gần 90% sản lượng cá đánh bắt được trên toàn thế giới [13]. Chính vì nguồn lợi sinh vật biển giàu có này, ngày nay các quốc gia trên thế giới đã và đang mạnh mẽ khẳng định chủ quyền “không thể bác bỏ” và mở rộng khai thác tối đa trên các vùng thềm lục địa. Trong số đó, các quốc gia có nền kinh tế 16
  19. phát triển đồng thời cũng tỏ ra là những “tay thuyền trưởng” thành thạo nhất khi số lượng cá biển đánh bắt của những “đại gia” này là lớn nhất trên thế giới. Theo thông báo của Tổ chứng Nông Lương của Liên Hợp Quốc (FAO), hiện nay sản lượng đánh bắt cá chỉ tập trung ở sáu nước: Nhật, Nga, Trung Quốc, Nauy, Peru và Hoa Kỳ [13]. Sự thật có phần phũ phàng này đã đặt ra cho các quốc gia đang phát triển và kém phát triển một thực tế phải quyết định một cách nhanh chóng. Nếu khoanh tay đứng nhìn và không nhanh nhạy tham gia vào một cuộc cạnh tranh hải sản thì lương thực, thực phẩm và những cơ hội phát triển kinh tế sẽ rơi vào tay các quốc gia thức thời khác. Đến thời điểm hiện nay, cuộc chạy đua này đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, các hoạt động đánh bắt và khai thác hải sản trên biển, đặc biệt là ở vùng thềm lục địa đang được hầu hết các quốc gia đẩy mạnh do các vùng ven bờ đã bị khai phá gần như như cạn kiệt. 1.2.2. Tài nguyên phi sinh vật và các loại tài nguyên khác - Dầu mỏ và khí đốt Thềm lục địa, chứa 90% trữ lượng dầu khí ngoài khơi. Các nhà khoa học đánh giá, đáy đại dương và thềm lục địa có tiềm năng dầu khí gấp hai lần so với trên đất liền [19]. Hiện nay, dầu mỏ và khí đốt là nguồn năng lượng chủ yếu, cung cấp đến trên 65% nhu cầu sử dụng năng lượng của loài người trên trái đất [13]. Đây là loại tài nguyên vô cùng quý giá đối với sự phát triển của nhân loại nói chung, và là tiềm năng vô giá của các quốc gia có biển. Dầu mỏ và khí đốt có ở cả trên lục địa và đại dương nhưng phần lớn phân bố ở các đại dương trong đó tập trung chủ yếu ở thềm lục địa và đáy biển sâu. Tính toán trữ lượng hydrocacbon trong đại dương thế giới trên cơ sở xác định khối lượng của các tầng trầm tích chỉ ra răng đại dương tiềm chứa khoảng trên 65% toàn bộ tầng chứa dầu tiềm năng của Trái đất, trong đó ở rìa ngầm của các lục địa (thềm và bờ lục địa) chứa gần 38%. Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy: Tổng diện tích các bồn trầm tích lớn có triển vọng dầu mỏ ở các vùng biển vào khoảng 500 tỉ km2, trong đó 150 tỉ km2 thuộc thềm lục địa và khoảng 350 tỉ km2 còn lại thuộc vùng biển sâu dưới 200m nước. Do việc khai thác ở vùng đáy 17
  20. biển sâu đòi hỏi trình độ kỹ thuật và sự đầu tư lớn, việc khai thác không thuận lợi nên hiện nay khai thác dầu mỏ tập trung chủ yếu ở các vùng biển nông, đến độ sâu không quá 100m. Các giếng khoan thăm dò dầu trên biển tập trung chủ yếu ở thềm lục địa (khoảng 90%) trong phạm vi 200m nước, chỉ có khoảng 600 giếng khoan ở độ sâu trên 200m nước [13]. Những con số này đã cho thấy trữ lượng, tiềm năng dầu khí ở vùng thềm lục địa là vô cùng to lớn. Hiện nay, lượng dầu trên thềm lục địa vẫn là đề tài nóng bỏng trên các diễn đàn kinh tế, chính trị, tác động lớn đến nền kinh tế các quốc gia, quan hệ kinh tế thế giới, đồng thời vẫn là mục tiêu hướng tới của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc về tài nguyên như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Canada,… Khi nhu cầu dầu mỏ ngày một tăng cao trong khi nguồn dự trữ của chúng trên đất liền đang dần bị tận diệt thì ý nghĩa kinh tế của thềm lục địa càng trở nên quan trọng và bức thiết. Thềm lục địa của Việt Nam rất phong phú về tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là dầu khí. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn; trữ lượng khí dự báo khoảng 1000 tỷ m3 [6]. Trên thềm lục địa Việt Nam, tính đến năm 2007 đã có 57 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với nhiều hình thức hợp tác (hiện còn 35 hợp đồng đang còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 7 tỷ USD). Tổng Công ty Dầu khí đã khai thác khoảng 240 triệu tấn (207 tấn dầu và khoảng 33 tỷ m3 khí) [14]. - Băng cháy Biển và đại dương chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, phong phú và đa dạng. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã phát hiện thêm một loại tài nguyên mới, đó là: khí hydrat (băng cháy). Khí hydrat (băng cháy) tiếng Anh là: Clathrate Hydrates, Gas Clathrates, Gas Hydrates, Methane Hydrates, Clathrates, Hydrates… là “một hỗn hợp giống băng của khí hydro carbon (chủ yếu là methane) và nước”, có thể trong suốt hay mờ đục, dạng tinh thể màu trắng, xám hoặc vàng [25]. Không phải tất cả khí hydrat đều có màu trắng; băng cháy ở đáy 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0