intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:135

24
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới trong mối liên hệ so sánh với pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI THU THỦY XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ CỦA TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI THU THỦY XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ CỦA TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60.38.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NÔNG QUỐC BÌNH Hà nội – 2012
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ........................................... 3 3. Phạm vi nghiên cứu................................................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5 5. Điểm mới và ý nghĩa của việc nghiên cứu ............................................... 5 6. Bố cục của luận văn ................................................................................ 6 CHƢƠNG I.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ CỦA TÒA ÁN ..... 7 1.1. Các khái niệm ...................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm ―quan hệ dân sự quốc tế‖ ............................................. 7 1.1.2. Khái niệm ―thẩm quyền‖ và ―thẩm quyền xét xử của Tòa án‖ .... 12 1.1.3. Khái niệm ―xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án‖ 15 1.2. Xung đột thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế và các nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án........................................... 18 1.2.1. Xung đột thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế ............................... 18 1.2.2. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án .................................................................................................. 20 1.3. Một số vấn đề cơ bản trong việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án .................................................................................... 27 1.3.1. Thẩm quyền xét xử riêng biệt ..................................................... 27 1.3.2. Lựa chọn Tòa án thích hợp nhất (Forum shopping)..................... 28 1.3.3. Thẩm quyền không thích hợp (Forum Non Conveniens) và Vụ kiện đang chờ xét xử (Lis Pendens) ...................................................... 30
  4. 1.4. Nguồn luật điều chỉnh việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án ................................................................................................ 34 1.4.1. Pháp luật quốc gia ....................................................................... 34 1.4.2. Điều ước quốc tế ......................................................................... 36 1.4.3. Tập quán quốc tế......................................................................... 43 CHƢƠNG II.PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ CỦA TÒA ÁN .............. 46 2.1. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Hoa Kỳ ..................................................................................................... 46 2.1.1. Các Tòa án có thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế tại Hoa Kỳ...... 46 2.1.2. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Hoa Kỳ .......................................................................................... 49 2.2. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Nhật Bản .................................................................................................. 61 2.2.1. Các Tòa án có thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế tại Nhật Bản ... 61 2.2.2. Xác định thẩm quyền xét xử quốc tế của Tòa án theo pháp luật Nhật Bản .............................................................................................. 62 2.3. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Trung Quốc .............................................................................................. 74 2.3.1. Các Tòa án có thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế tại Trung Quốc74 2.3.2. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Trung Quốc ................................................................................... 78 2.4. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Liên bang Nga .......................................................................................... 82 2.4.1. Các Tòa án có thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế tại Liên bang Nga ....................................................................................................... 82
  5. 2.4.2. Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật Liên bang Nga ............................................................................... 83 CHƢƠNG III.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ CỦA TÒA ÁN TẠI VIỆT NAM .......................................................... 91 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án ............................................................................... 91 3.1.1. Quan điểm, chủ trương, chính sách chung của Đảng, Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách tư pháp .................... 91 3.1.2. Yêu cầu giải quyết kịp thời, hiệu quả các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ................................. 92 3.2. Thực trạng việc xác định thẩm quyền xét xử vụ việc dân sự quốc tế của Tòa án tại Việt Nam ................................................................................. 93 3.2.1. Khái quát về các Tòa án và nguồn luật điều chỉnh việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Toà án tại Việt Nam.................. 93 3.2.2. Thực trạng việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên .............. 98 3.2.3. Thực trạng việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo Pháp luật Việt Nam ......................................................... 101 3.3. Một số định hướng và yêu cầu cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án ..... 113 3.4. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án .......................... 114 3.4.1. Giải pháp trong ngắn hạn .......................................................... 114 3.4.2. Giải pháp trong dài hạn ............................................................. 119 KẾT LUẬN ............................................................................................... 123 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 125
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế, việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền cùng với việc lựa chọn luật áp dụng và công nhận, thi hành phán quyết của Tòa án hoặc trọng tài nước ngoài được coi là những vấn đề cơ bản. Mặt khác, tại Việt Nam hiện nay các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn rất được quan tâm trong khoa học pháp lý vì những lý do sau: Thứ nhất: Cơ chế pháp lý của việc giải quyết các vụ việc dân sự quốc tế nói chung và việc xác định thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự quốc tế nói riêng là lĩnh vực phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Bởi vì nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà luôn liên quan đến quan hệ với nước ngoài và có tính chất quốc tế. Thứ hai: Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu và rộng vào đời sống dân sự quốc tế, vì vậy, các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nảy sinh ngày càng nhiều, đòi hỏi các Tòa án phải xác định đúng thẩm quyền giải quyết của mình, đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra nhanh chóng và đúng pháp luật. Mặt khác, các cá nhân, tổ chức Việt Nam khi tham gia quan hệ dân sự quốc tế cũng cần phải có những kiến thức cơ bản về thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án các quốc gia nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất. Thứ ba: Bộ luật Tố dụng dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2004 ra đời là một bước đột phá trong việc đưa ba Pháp lệnh Tố tụng về dân sự, kinh tế và lao động vào chung một Bộ luật đồng thời có nhiều điểm mới về thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật này vẫn còn nhiều bất cập và thực tế là chính các cơ quan pháp luật cũng còn có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau liên quan đến thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án được quy định tại Bộ luật này. Bên cạnh đó, các Điều ước quốc tế về vấn đề này cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. 1
  7. Thứ tư, trong tiến trình thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, một trong những yêu cầu quan trọng và có ý nghĩa quyết định là tạo lập nền tảng pháp lý làm cơ sở cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam. Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ kinh tế - xã hội khác, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong đó có chế định thẩm quyền xét xử các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một đòi hỏi cấp thiết và có ý nghĩa lớn. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay đã trở thành một đòi hỏi có tính tất yếu khách quan của mọi quốc gia trong tiến trình phát triển. Quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Điều đó cũng có nghĩa là, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và việc hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng, là một yêu cầu tất yếu khách quan và mang tính cấp thiết hiện nay. Trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế theo xu thế hội nhập của Việt Nam hiện nay, Nghị quyế t số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về việc ban hành Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã ra chỉ đạo ―Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai…‖[1] Tuy nhiên, do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, khoa học Tư pháp quốc tế Việt Nam phát triển muộn hơn nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới, các quy định điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung cũng như các quy định về việc xác định thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng còn chưa thực sự phát triển và phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội. 2
  8. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, đã có nhiều công trình và bài viết nghiên cứu vấn đề ―Thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế‖ theo những khía cạnh và cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên, hầu hết và chủ yếu đều tập trung vào phương thức và thủ tục giải quyết một hoặc một số lĩnh vực tranh chấp nhất định. Cho đến nay, chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới từ đó làm cơ sở để kiến nghị hoàn thiện chế định này trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Những nội dung trình bày trên đây là cơ sở khoa học và thực tiễn để tác giả chọn nghiên cứu đề tài ―Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới‖. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới trong mối liên hệ so sánh với pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án. Với mục đích nêu trên, luận văn này tự đặt ra những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế; - Phân tích pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án; - Chỉ ra những bất cập, vướng mắc và hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án và kiến nghị phương án sửa đổi cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án. 3
  9. 3. Phạm vi nghiên cứu Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một phạm trù rộng, gồm nhiều chế định, quy phạm pháp luật phức tạp, vì vậy, việc xác định thẩm quyền xét xử đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cũng là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong lý luận Tư pháp quốc tế và có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Với những mục đích, nhiệm vụ chính được nêu trên đây, trong điều kiện rất hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, tài liệu tham khảo và trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả đã tự định ra cho mình phạm vi nghiên cứu phù hợp với một góc độ tiếp cận như sau: Thứ nhất: Luận văn chủ yếu nghiên cứu việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án dưới góc độ Tư pháp quốc tế, đặt trọng tâm vào khía cạnh xung đột pháp luật về thẩm quyền để xác định thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án. Thứ hai: Về mặt lý luận, việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án được dựa trên các nguồn luật chủ yếu và phổ biến là Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, trong đó, các Điều ước quốc tế bao gồm các Điều ước quốc tế song phương và các Điều ước quốc tế đa phương nhưng luận văn mới chỉ có điều kiện nghiên cứu việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo một số Điều ước quốc tế song phương tiêu biểu và theo pháp luật của 4 quốc gia là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Liên Bang Nga. Thứ ba: Do tiếp cận vấn đề dưới góc độ nghiên cứu các nguyên tắc, tiêu chí xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới nên luận văn không trình bày tất cả những nội dung về lý luận và thực trạng pháp luật về thẩm quyền của mỗi quốc gia mà chỉ chủ yếu khai thác những quy định chung nổi bật nhất về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật của các quốc gia đó. Thứ tư: Những đề xuất, kiến nghị về vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam nêu ra trong luận văn này cũng chủ yếu trên cơ sở và xuất phát từ những nhận xét, đánh giá 4
  10. rút ra trong quá trình nghiên cứu các Điều ước quốc tế đa phương và pháp luật của các quốc gia nêu tại Chương II của Luận văn này. Tác giả xác định đây là kết quả nghiên cứu bước đầu và cần được tiếp tục bổ sung hoàn thiện hơn nữa trong quá trình nghiên cứu sau này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng như: phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh... 5. Điểm mới và ý nghĩa của việc nghiên cứu Như đã trình bày ở trên, cho đến nay, chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới từ đó làm cơ sở để kiến nghị hoàn thiện chế định này trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay, vì vậy, có thể nói đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo góc độ này. Luận văn có những điểm mới như sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án; - Trình bày và phân tích các nội dung về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, cụ thể là theo pháp luật Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Liên bang Nga; - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành. 5
  11. Tác giả cho rằng, đề tài nghiên cứu này có một số ý nghĩa như sau: - Thứ nhất, góp phần làm phong phú hơn hệ thống lý luận về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án; - Thứ hai, góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; - Thứ ba, luận văn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn của các cơ quan xây dựng và bảo vệ pháp luật, của các chuyên gia nghiên cứu, của các cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và những người quan tâm tới vấn đề này. 6. Bố cục của luận văn Nội dung và kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn theo kết cấu chung gồm: Mở đầu, 3 Chương, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Chương I – Những vấn đề lý luận chung về việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án; Chương II – Pháp luật của một số quốc gia về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án; Chương III – Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án tại Việt Nam. 6
  12. CHƢƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ CỦA TÒA ÁN 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Khái niệm “quan hệ dân sự quốc tế” Khái niệm ―quan hệ dân sự quốc tế‖ hay ―quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài‖ hiện vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi, không chỉ trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Điều đó được lý giải bởi thực tế cho thấy có sự khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, giữa những tư tưởng, quan điểm của các nhà khoa học, luật gia thuộc các quốc gia với các hệ thống pháp luật khác nhau. Sự khác nhau này xoay quanh các vấn đề về phạm vi (nội hàm) của khái niệm quan hệ dân sự, về cách thức xác định yếu tố nước ngoài trong loại quan hệ này, về vị trí của nó là thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nào (luật dân sự hay luật Tư pháp quốc tế)...Một trong các nguyên nhân dẫn đến những quan điểm khác nhau thể hiện ở chỗ, tùy thuộc vào mục đích điều chỉnh của mỗi ngành luật, tùy thuộc vào ý đồ của nhà làm luật hay nói rộng ra là của giai cấp thống trị. 1.1.1.1. Khái niệm “quan hệ dân sự” Để có thể hiểu khái niệm quan hệ dân sự quốc tế, trước hết xin đề cập sơ lược về khái niệm ―quan hệ dân sự‖. Thế nào là quan hệ dân sự? Quan hệ dân sự là những quan hệ nào? Đây cũng là vấn đề gây tranh cãi đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đương nhiên, ai c ̣ũng cho r ằng, quan hệ dân sự là đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Nhưng quan hệ dân sự gồm những loại quan hệ nào, thì hiện còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Theo ý kiến của các chuyên gia Nhật Bản tại các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học về việc sửa đổi Bộ luật dân sự Việt Nam 1995, thì quan hệ dân sự là tất cả các quan hệ giữa con người (chủ yếu là cá nhân, pháp nhân) với nhau; còn các quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước thì thuộc đối tượng điều chỉnh của luật công. Song cũng có ý kiến cho rằng, quan hệ dân sự phải hiểu theo nghĩa rộng, tức là bao gồm cả các quan hệ hôn nhân và gia đình, lao động, thương mại... 7
  13. Nói đến vấn đề này, không thể không nhắc đến sự phân loại pháp luật thành ―luật công‖ (công pháp - droit public) và ―luật tư‖ (tư pháp - droit privé) ở nhiều nước hiện nay. Đối với đại đa số các nước chia pháp luật thành luật công và luật tư (điển hình là Pháp, Italia, Cộng hòa Liên bang Đức và các nước theo hệ thống Civil Law), thì dân luật (luật dân sự) - cùng với luật thương mại, luật lao động... - được xếp vào luật tư [12]. Do đó, ở đây quan hệ dân sự được hiểu là đối tượng điều chỉnh của luật tư. Nhưng ở các nước không có sự phân chia pháp luật thành luật công và luật tư (điển hình là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, cũng như Việt Nam hiện nay), thì phạm vi quan hệ dân sự thường bao gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Theo quan điểm của nhiều luật gia Việt Nam, thì phạm vi quan hệ dân sự (đối tượng điều chỉnh của luật dân sự) bao gồm ―những nhóm quan hệ xã hội giữa người với người, phát sinh trong cuộc sống hàng ngày. Đó là: nhóm quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, trao đổi, tiêu dùng... nhằm thỏa mãn những nhu cầu về mọi mặt của các chủ thể trong sản xuất, kinh doanh hoặc trong sinh hoạt, tiêu dùng của đời sống xã hội‖ [17]. Như vậy, khái niệm quan hệ dân sự ở đây được hiểu theo nghĩa khá rộng, song không trái với quy định tại Điều 1 của Bộ luật dân sự 2005 (chủ yếu bao gồm các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân). Phạm vi quan hệ tài sản - đối tượng điều chỉnh của luật dân sự - cũng rất phong phú, là ―quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản nhất định như tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng hoặc các quyền về tài sản‖ [17]. Còn phạm vi quan hệ nhân thân - đối tượng điều chỉnh của luật dân sự - ―là những quan hệ mà theo khoa học luật dân sự được hình thành từ một giá trị tinh thần của một cá nhân hoặc một tổ chức và luôn gắn liền với cá nhân hoặc tổ chức đó‖ [17]. Từ những phân tích trên đây, có thể đi đến nhận định rằng, khái niệm ―quan hệ dân sự‖, theo quan điểm của đông đảo các luật gia, nhà nghiên cứu khoa học pháp lý của Việt Nam, được hiểu tương đối thống nhất là các quan hệ giữa con người với nhau trong cuộc sống hàng ngày, các quan hệ về đời sống, sinh hoạt, tiêu dùng hoặc 8
  14. sản xuất, kinh doanh trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, tự do ý chí [17]. Theo quan điểm này, thì việc coi các quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ dân sự cũng hoàn toàn có cơ sở. Vì vậy, nhiều nước đưa các quan hệ hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự (Pháp, Nhật Bản, Canada...), song cũng có nước đưa vào một đạo luật riêng (Việt Nam, Trung Quốc, Nga...). Tuy nhiên, dù để ở đâu, thì các quan hệ hôn nhân và gia đình cũng là quan hệ dân sự (có tính chất dân sự) và thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tư. Ở Việt Nam không có sự phân chia pháp luật thành luật công và luật tư. Sự phân chia các ngành luật vẫn có rất nhiều ý kiến và ngay cả phạm vi của ngành luật dân sự Việt Nam cũng vẫn có những quan điểm không thống nhất. Các quan hệ hôn nhân và gia đình, tuy được điều chỉnh bằng một đạo luật riêng (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000), song trên các mức độ nhất định, vẫn được Bộ luật dân sự điều chỉnh (tại các Điều 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45, …) [2], tuy chỉ là sự điều chỉnh có tính nguyên tắc. Rõ ràng là, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các quan hệ dân sự ngày càng có vai trò quan trọng trong thực tiễn đời sống xã hội. Do đó, ―việc điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất đặc trưng là cần thiết và phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các nhóm quan hệ xã hội đó. Đây là một vấn đề không thể thiếu trong một nền kinh tế hàng hóa‖ [17]. Việc điều chỉnh các quan hệ dân sự còn đồng thời là cơ sở để thực hiện mục đích duy trì, phát triển quan hệ xã hội trong các lĩnh vực tài sản, nhân thân và quan trọng hơn là duy trì một trật tự pháp lý trong trao đổi hàng hóa, bảo đảm cho hoạt động của các chủ thể được tiến hành bình thường, với sự bảo hộ cần thiết của Nhà nước trong những trường hợp nhất định. 1.1.1.2. Khái niệm “quan hệ dân sự quốc tế” Ngày nay, các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người, ngoài những mối quan hệ phát sinh trong nội bộ dân cư của một quốc gia, thì còn tồn tại và phát sinh nhiều mối quan hệ khác vượt ra khỏi phạm vi nội bộ dân cư của một quốc gia, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh. Đó là các quan hệ giữa những người thuộc các quốc tịch khác nhau, hoặc các 9
  15. quan hệ của công dân nước này phát sinh trên lãnh thổ nước kia liên quan đến việc mua bán tài sản, giao kết hợp đồng, hôn nhân và gia đình, thừa kế, lao động v.v... Đây là các quan hệ quốc tế hay quan hệ có yếu tố nước ngoài. Chúng ta biết rằng, thuật ngữ ―yếu tố nước ngoài‖ (foreign elements) được ghép với thuật ngữ ―quan hệ dân sự‖ (civil relations) thành thuật ngữ ―quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài‖ (the civil relations containing foreign elements). Vấn đề quan trọng trong lý luận và thực tiễn Tư pháp quốc tế là xác định yếu tố nước ngoài trong các quan hệ dân sự, từ đó dẫn đến phân biệt những quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế với những quan hệ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Trước hết, cần phân biệt hai thuật ngữ ―yếu tố nước ngoài‖ và ―nhân tố nước ngoài‖ mà trong các công trình nghiên cứu hoặc trong một số văn bản pháp luật của Việt Nam đã từng sử dụng (như Thông tư số 11/TATC ngày 12 tháng 7 năm 1974 của Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn một số vấn đề về nguyên tắc và về thủ tục trong việc giải quyết những việc ly hôn có nhân tố nước ngoài). Nếu sử dụng thuật ngữ nhân tố nước ngoài, chữ nhân theo nghĩa Hán -Việt được hiểu là người (), thì có thể dẫn đến việc hiểu ý nghĩa của thuật ngữ này chỉ theo nghĩa hẹp, tức là khi quan hệ dân sự có người nước ngoài tham gia. Còn sử dụng thuật ngữ yếu tố nước ngoài, thì dẫn đến cách hiểu với đầy đủ ý nghĩa hơn. Ở các nước, quan điểm về yếu tố nước ngoài rất khác nhau, tuy nhiên quan điểm tương đối thống nhất của các luật gia trong và ngoài nước đều cho rằng, khi quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được coi là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: thứ nhất, khi trong quan hệ đó có người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài tham gia; thứ hai, khi căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài; thứ ba, khi tài sản liên quan đến quan hệ đó tồn tại ở nước ngoài. Như vậy, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có thể là quan hệ dân sự thuộc một, hai hoặc cả ba trường hợp đó. Đây cũng là quan điểm về yếu tố nước ngoài của pháp luật Việt Nam, cụ thể, theo Điều 758 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 thì: ―Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có 10
  16. ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài‖[2]. Việc xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự ở trường hợp thứ nhất là dựa vào yếu tố quốc tịch của chủ thể (là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài). Khái niệm pháp nhân ở đây có thể hiểu theo nghĩa rộng, tức là bao gồm cả Nhà nước. Xét về mặt lý thuyết, thì Nhà nước cũng có thể tham gia vào một số quan hệ dân sự trong trường hợp đặc biệt (chẳng hạn Nhà nước là người hưởng thừa kế đối với tài sản của công dân mình ở nước ngoài trong trường hợp người đó chết không để lại di chúc, không c ̣ó ai thừa kế theo pháp luật). Trong trường hợp thứ hai, yếu tố nước ngoài được xác định dựa vào nơi xảy ra căn cứ pháp lý (sự kiện pháp lý) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự ở nước ngoài, thực chất là dựa vào nơi xảy ra hành vi pháp lý. Chẳng hạn, khi hai công dân Việt Nam giao kết với nhau hợp đồng dân sự trên lãnh thổ Pháp, làm phát sinh quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong trường hợp thứ ba, yếu tố nước ngoài được xác định dựa vào nơi tồn tại tài sản (nơi có vật) ở nước ngoài liên quan đến quan hệ dân sự. Chẳng hạn, hai công dân Việt Nam ly hôn với nhau tại Tòa án Việt Nam, nhưng vào thời điểm ly hôn họ có tài sản chung ở nước ngoài. Xét về mặt bản chất, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cũng là quan hệ dân sự, song nó khác cơ bản so với quan hệ dân sự thông thường (không có yếu tố nước ngoài) là ở chỗ, khi phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thì luôn dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật; còn khi phát sinh quan hệ dân sự thông thường, thì không có xung đột pháp luật. Đối với các quan hệ dân sự không thuộc trường hợp nào trong ba trường hợp nêu trên, về nguyên tắc chỉ cần một hệ thống pháp luật điều chỉnh là đủ. 11
  17. 1.1.2. Khái niệm “thẩm quyền” và “thẩm quyền xét xử của Tòa án” 1.1.2.1. Khái niệm “thẩm quyền” ―Thẩm quyền‖ là một khái niệm quan trọng, trung tâm của khoa học pháp lý. Có thể nói, không có thuật ngữ nào được sử dụng phổ biến trong pháp luật như thuật ngữ ―thẩm quyền‖. Trong pháp luật nước ngoài, chúng ta còn thường gặp thuật ngữ thẩm quyền ngay trong tên các văn bản pháp luật. Tuy vậy, ngay trong văn bản pháp luật nước ngoài, thường cũng không có định nghĩa khái niệm thẩm quyền, mặc dù thực chất vấn đề là quy định về thẩm quyền, ở nước ta cũng có tình trạng đó. Có lẽ một phần do sự phức tạp của khái niệm này nên khó đưa ra một định nghĩa đầy đủ về nó, tuy các quy định về thẩm quyền chiếm tỉ trọng lớn trong hệ thống văn bản pháp luật và có vị trí đặc biệt quan trọng [22]. Thuật ngữ ―thẩm quyền‖ bắt nguồn từ tiếng la tinh ―competentia‖ có hai nghĩa là: i) Phạm vi các quyền hạn của cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó; ii) Phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có [22]. Trong tiếng Anh, thuật ngữ thẩm quyền là ―jurisdiction‖ hoặc ―competence‖, được dùng để chỉ quyền phán quyết về một vụ việc nào đó trong phạm vi pháp luật cho phép. ―Thẩm quyền‖ với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng không đơn nhất. Do tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi quan hệ chặt chẽ với nó, nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền: Một là, khái niệm thẩm quyền bao hàm các nhiệm vụ và các quyền hạn (các quyền và nghĩa vụ). Quan điểm này lại khá phổ biến trong luật hành chính Cộng hoà Dân chủ Đức, Bungari, và khoa học pháp lý Xô Viết. Hai là, thẩm quyền bao hàm: một là, các chức năng, hai là, các quyền và nghĩa vụ hoặc là quyền hạn. Biến thể của quan điểm này là ý kiến coi chức năng và thẩm quyền là hai bộ phận tồn tại song song và độc lập với nhau. Ba là, có quan điểm coi thẩm quyền là tổng thể tất cả quyền, nghĩa vụ (quyền hạn) và trách nhiệm. Có lẽ là do tầm quan trọng của vấn đề trách nhiệm. Quan điểm này rất phổ biến ở Việt Nam [22]. 12
  18. Trong cuốn sách ―Khái quát chung về luật xung đột‖ (Conflicts in nutshell), David D.Giegel viết: ―Thẩm quyền là quyền lực giải quyết tranh chấp của Nhà nước được thực hiện thông qua hệ thống Tòa án hoặc một số cơ quan có tính chất xét xử (quasi-Judicial body) như Hội đồng trọng tài hoặc Hội đồng tài phán hành chính‖. Trong lĩnh vực luật quốc tế, theo Micheal Akehurst, có 3 bộ phận trong thẩm quyền của một Nhà nước: Quyền của Nhà nước thực hiện các hoạt động trong lãnh thổ của một Nhà nước khác (executive jurisdiction); quyền của Tòa án trong Nhà nước đó xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài (judicial jurisdiction); quyền của Nhà nước áp dụng pháp luật nước mình trong khi giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài (legislative jurisdiction); và vấn đề khi nào thì các Nhà nước theo nghĩa vụ pháp lý phải công nhận sự thực thi thẩm quyền của các Nhà nước khác [32]. Theo Từ điể n tiế ng Viê ̣t do Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992 thì ―thẩm quyền‖ được hiểu là ―quyền xem xét đ ể kết luận và định đoạt một vấn đề nhất đị nh‖ [21]. Khái niệm ―thẩm quyền‖ thường được hiể u gắ n liề n với hoa ̣t đô ̣ng của cơ quan , tổ chức , hoă ̣c nhân viên Nhà nước . Sự phân đinh ̣ thẩ m quyề n này sẽ là điề u kiê ̣n cầ n thiế t để đảm bảo sự hoa ̣t đô ̣ng đồ ng bô ̣, nhịp nhàn g, không trùng lă ̣p của các cơ quan , tổ chức trong xã hội với nhau [22]. 1.1.2.2. Khái niệm “Thẩm quyền xét xử của Tòa án” Theo Từ điển Tiếng Việt thì ―xét xử‖, hiểu theo một cách chung nhất và khái quát nhất là việc xem xét và xử các vụ án [21]. Theo từ điển Luật học được Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa ấn hành năm 1999 thì xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án [19]. Cũng theo cuốn từ điển trên, ―Tòa án là cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước, đảm nhiệm chức năng xét xử‖ Như vậy, nói đến xét xử là nói đến hoạt động đặc trưng của Tòa án. Đây cũng là là một điều dễ hiểu bởi trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, Tòa án là cơ quan duy nhất được trao thẩm quyền tư pháp – thẩm quyền xem xét, xét xử các vụ án theo quy định của pháp luật. 13
  19. Tại Hoa Kỳ, quyền lực Nhà nước được phân chia thành 3 loại quyền là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Hiến pháp của Hoa Kỳ năm 1776 quy định: ―Quyền lực tư pháp của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Tòa án Tối cao và những Tòa án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp. Các quan tòa của Tòa án Tối cao và các Tòa án cấp dưới sẽ giữ chức vụ của mình đến suốt đời nếu luôn luôn có hành vi chính đáng, và trong thời gian đã nêu trên, họ được nhận khoản tiền lương cho công việc của mình và khoản tiền này sẽ không bị giảm đi trong suốt thời gian đó…Quyền lực tư pháp căn cứ vào Hiến pháp này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các vụ việc trên phương diện luật pháp và công lý, các điều luật của Hoa Kỳ, các hiệp ước đã hoặc sẽ ký dưới thẩm quyền của Chính phủ; đối với các trường hợp liên quan tới các đại sứ, các công sứ và các lãnh sự, đối với các trường hợp liên quan tới luật pháp hàng hải và hải quân; đối với các tranh chấp mà Hoa Kỳ là một bên, đối với các cuộc tranh chấp giữa hai bang trở lên, giữa một bang với các công dân của bang khác, giữa các công dân của các bang khác nhau, giữa các công dân trong một bang tranh chấp đất đai do các bang khác nhau cấp, giữa một bang hoặc các công dân của bang đó với các bang khác (hoặc các công dân và đối tượng của bang khác)‖ [20]. Như vậy, Tòa án Tối cao và các Tòa án cấp dưới là các cơ quan có thẩm quyền xét xử tại Hoa Kỳ. Hiến pháp Liên Bang Nga năm 1993 tại khoản 1, Điều 118 cũng quy định ―Hoạt động xét xử chỉ được thực hiện bởi Tòa án‖ [39]. Cũng giống như Hoa Kỳ và Liên Bang Nga ở trên hầu hết các quốc gia trên thế giới, tại Việt Nam, Toà án là cơ quan Nhà nư ớc được phân công thực hành quyề n xét xử bảo vệ pháp luật , bảo đảm lẽ phải và công bằng xã hội . Theo quy đinh ̣ tại Điề u 127 của Hiến pháp 1992 đươ ̣c sửa đổ i , bổ sung năm 2000 và Điều 1 Luâ ̣t Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2002 thì Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử mà không có bất kỳ mô ̣t cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền này, đó là thẩ m quyề n riêng biê ̣t của Tòa án. 14
  20. Kết hợp định nghĩa về ―thẩm quyền‖ với các định nghĩa về ―xét xử‖ và định nghĩa về ―Tòa án‖, cho phép chúng ta có thể định nghĩa về thẩm quyền xét xử của Tòa án như sau: Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền được xem xét giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật , nó bao gồm tổng hợp các quyền mà pháp luật cho phép Tòa án quyế t đi ̣nh đố i với các vấ n đề liên quan đế n nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho viê ̣c xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhấ t đi ̣nh [7]. 1.1.3. Khái niệm “xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của Tòa án” Trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế, các thủ tục giải một việc dân sự hay một tranh chấp dân sự có thể bao gồm: thương lượng, trung gian hòa giải, trọng tài và Tòa án. Thương lượng và hòa giải được biết đến như là những phương thức tự giải quyết (self – resolutio) còn trọng tài và Tòa án được coi là những phương thức tài phán (justice) trong đó Tòa án hay trọng tài là chủ thể được trao những thẩm quyền nhất định, hay nói cách khác, đây là những phương thức giải quyết mang tính thẩm quyền thông qua quyết định của trọng tài hay Tòa án. Tuy nhiên, thẩm quyền của trọng tài có điểm gì giống và khác biệt so với thẩm quyền của Tòa án? Theo định nghĩa của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam – VIAC thì: ―Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được tiến hành theo trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi Hội đồng trọng tài thuộc một Trung tâm trọng tài nhất định hoặc bởi Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, tùy thuộc vào quyền lựa chọn của các bên‖ Trọng tài có thẩm quyền giải quyết như thế nào đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài? Ở các nước, các quy định về vấn đề này có những điểm thống nhất và cũng có những điểm khác biệt. Có quốc gia quy định thẩm quyền của trọng tài rất hạn chế (chỉ trong lĩnh vực thương mại, thậm chí đối với một số loại mặt hàng trong thương mại). Có quốc gia quy định thẩm quyền của trọng tài rất rộng (kể cả tranh chấp về hôn nhân gia đình, ví dụ như ở Hoa Kỳ). Có quốc gia phân định thẩm quyền trọng tài làm hai loại: thẩm quyền đối với lĩnh vực nội thương và thẩm 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2