intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

23
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm ra những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật về thẩm phán và công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

  1. §¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt vò thu hiÒn x©y dùng ®éi ngò thÈm ph¸n ®¸p øng víi yªu cÇu c¶i c¸ch t- ph¸p ë viÖt nam hiÖn nay Chuyªn ngµnh: Lý luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt M· sè : 60 38 01 LuËn v¨n th¹c sü luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: pgs. TS. Hoµng thÞ kim quÕ Hµ Néi - 2008 1
  2. §¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt vò thu hiÒn x©y dùng ®éi ngò thÈm ph¸n ®¸p øng víi yªu cÇu c¶i c¸ch t- ph¸p ë viÖt nam hiÖn nay LuËn v¨n th¹c sü luËt häc Hµ Néi - 2008 2
  3. Mục lục Trang Mở đầu 01 Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Toà án và đội ngũ thẩm phán 07 1.1. Một số vấn đề lý luận về Toà án 07 1.1.1. Khái niệm Toà án 07 1.1.2. Vị trí, vai trò của Toà án 10 1.2. Một số vấn đề lý luận về Thẩm phán 15 1.2.1. Khái niệm Thẩm phán 15 1.2.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán 16 1.2.3. Điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán 20 1.2.4. Phân loại thẩm phán 29 1.2.5. Khái quát tiến trình phát triển các quy định của pháp luật về thẩm phán ở Việt Nam 32 Chương 2. thực trạng công tác xây dựng Đội ngũ 1
  4. thẩm phán trong thời gian qua và yêu cầu cải cách tư pháp ở việt nam trong giai đoạn hiện nay 37 2. 1. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Việt nam trong thời gian qua 37 2.1.1. Thực trạng về số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm phán và tình hình xét xử trong thời gian qua 37 2.1.2. Công tác quy hoạch, tuyển dụng và bổ nhiệm thẩm phán 42 2.1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán 52 2.1.4. Cơ chế kiểm tra giám sát đội ngũ Thẩm phán 63 2.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay 70 2.2.1. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay 70 2.2.2. Một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành Toà án trong xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp 75 Chương 3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán HIệN NAY 77 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay 77 3.2. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng 2
  5. yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay 82 3.2.1. Đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán 82 3.2.2. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán 85 3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát 87 kết luận 93 Tài liệu tham khảo 96 3
  6. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Nhờ có sự đổi mới về kinh tế và quyết tâm thực hiện công cuộc cải cách hành chính mà Việt Nam đang là nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới; cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống chính trị - xã hội ổn định, quan hệ quốc tế được mở rộng. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị trường cùng với các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế thì ngày càng có nhiều vụ việc phức tạp, các loại án hình sự ngày càng tinh vi, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng lớn, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, lao động... ngày càng gia tăng về cả số lượng và sự phức tạp, đặc biệt khi nó xuất hiện yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, giá trị lợi ích vật chất trong các vụ án ngày càng lớn. Do đó, để đưa ra được phán quyết thấu tình đạt lý, phù hợp với thông lệ, tập quán pháp luật quốc tế đòi hỏi thẩm phán phải tâm huyết với nghề, không ngừng học tập nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ xét xử của mình. Nghề thẩm phán là nghề xét xử, mục đích là đưa lại sự công bằng cho xã hội, đảm bảo sự ổn định, phát triển và mang ý nghĩa xã hội to lớn. Chính vì thế người thẩm phán được Visanhsky, một trong những người xây dựng ngành Tư pháp Nga sau cách mạng tháng Mười khẳng định “thẩm phán người thầy của cuộc sống”. Gần 100 năm nay, điều Ông nói vẫn đúng, lời nói đó vượt qua mọi ranh giới quốc gia và khoảng cách về thời gian. Thẩm phán với nghề nghiệp xét xử đã và đang thực sự là biểu tượng cho khát vọng của nhân loại về một sự công bằng cho đới sống xã hội. Vinh quang của nghề thẩm phán trước hết phải nói đến là nghề nghiệp mang tính xã hội cao, bởi lẽ công việc của thẩm phán luôn liên quan đến nhiều cá nhân, 4
  7. tổ chức trong xã hội. Nghề nghiệp xét xử của thẩm phán liên quan đến số phận, danh dự, uy tín. tài sản, thậm chí nó quyết định cả tính mạng của con người. Toà án, cụ thể hơn là thẩm phán là người đại diện cho quyền lực nhà nước để đưa ra các phán quyết và khi các phán quyết đó có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân liên quan đều phải tuân thủ chấp hành. Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo ngành toà án, đội ngũ thẩm phán nước ta không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, kết quả xét xử của họ đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, đặc biệt là đứng trước các yêu cầu, thách thức của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì đội ngũ thẩm phán của chúng ta còn nhiều hạn chế, bất cập, tình trạng “thiếu” về số lượng và “yếu” về chất lượng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhiều lúc. Một bộ phận không nhỏ thẩm phán suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, yếu kém về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đã làm sai lệch vụ án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, xây dựng đội ngũ thẩm phán trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và năng lực công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là rất quan trọng, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và ngành toà án phải tăng cường chỉ đạo và thực hiện quyết liệt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng này để thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Từ thực tiễn đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình là “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, với mong muốn thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay để góp phần phát hiện những bất cập, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở 5
  8. nước ta, tìm ra những nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế đó. Từ đó, đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc xây dựng đội ngũ thẩm phán có phẩm chất đạo đức và đủ năng lực chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới là rất cần thiết. Đây là lĩnh vực được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu quan trọng liên quan đến lĩnh vực này như: Sổ tay Thẩm phán; Các phẩm chất cơ bản của thẩm phán của tác giả Đặng Thị Thanh Nga (Tạp chí Luật học số 5/2002); Kỹ năng giao tiếp của thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự; ThS. Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Luật học số 2/2005); Một số suy nghĩ về những việc thẩm phán không được làm quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002, Nguyễn Thị Hồng Tươi (Tạp chí Toà án nhân dân số 1/2003); Một số vấn đề về mô hình nhân cách thẩm phán, ThS, Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2005); Những phẩm chất, nhân cách của thẩm phán trong giai đoạn hiện nay, ThS. Đặng Thanh Nga (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003); Suy nghĩ về những điều thẩm phán phải làm, thẩm phán được làm, chính sách chế độ đối với thẩm phán, Nguyễn Hồng Tươi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 5/2002). Nhìn chung, các bài viết trên của các tác giả được thể hiện ở nhiều cấp độ nghiên cứu khác nhau, góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yếu dưới dạng các bài nghiên cứu trên các tạp chí chưa có đề cập một cách có hệ thống về xây dựng đội ngũ thẩm phán để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục tiêu 6
  9. Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm ra những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật về thẩm phán và công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn diện một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002 và các quy định của pháp luật thực định về tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán. Đánh giá thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay để làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ thẩm phán và những yêu cầu, đòi hỏi đối với thẩm phán; chỉ ra được những bất cập, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán; làm rõ hơn những yếu tố tích cực, tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng của thẩm phán cũng như việc tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp và tương đối “nhạy cảm”. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ luật học, dựa trên nền tảng các chức năng, nhiệm vụ của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung để nghiên cứu và tiếp cận các nội dung xây dựng đội ngũ thẩm phán. Tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, trọng tâm sau: Khái niệm, vị trí vai trò quan trọng của thẩm phán ở Việt Nam và một số nước trên thế giới; Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thẩm phán và công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay, qua đó chỉ ra những bất cập, hạn chế 7
  10. về chất lượng, số lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như những bất cập trong công tác tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán ở nước ta hiện nay; Những yêu cầu, đòi hỏi trong công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Từ đó đề xuất được một số giải pháp quan trọng để xây dựng và phát triển đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu xây dựng một nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Nội dung quan điểm chỉ đạo công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán, cán bộ tư pháp trong Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về thẩm phán, điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán và văn bản chính sách của Nhà nước về xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp cụ thể được sử dụng đó là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn. 6. ý nghĩa và những điểm mới của đề tài Đề tài “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cách tư pháp ở Việt Nam” được nghiên cứu để đạt được kết quả sau: 8
  11. Đây là luận văn được nghiên cứu ở bậc cao học có tính hệ thống, toàn diện về công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Đề tài có tính hệ thống hoá một cách toàn diện những quy định của pháp luật nước ta về thẩm phán từ năm 1945 đến nay. Xác định được hiệu quả sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán, qua đó chỉ ra các điểm hạn chế của pháp luật thực định về nội dung này, giúp các nhà lập pháp hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giúp cho ngành Toà án thấy được vị trí, vai trò quan trọng của công tác xây dựng chiến lược đào tạo thẩm phán cũng như đội ngũ “nguồn” để tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán. Mặt khác, thông qua việc so sánh, tìm hiểu các quy định của pháp luật một số nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới như Hàn Quốc, Pháp, Malayxia... về điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán cũng như kinh nghiệm xây dựng đội ngũ thẩm phán, đội ngũ “nguồn” để tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán của họ. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Đặc biệt là các quy định liên quan đến trách nhiệm của ngành Toà án trong việc xây dựng kế hoạch chiến lược đào tạo thẩm phán và đội ngũ “nguồn” để bổ nhiệm thẩm phán đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ của công tác cải cách tư pháp nhằm xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương, 6 mục. 9
  12. Chương 1 Một số vấn đề lý luận về Toà án và đội ngũ thẩm phán 1.1. Một số vấn đề lý luận về Toà án 1.1.1. Khái niệm Toà án Cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, để đảm bảo cho sự thực thi của pháp luật, nhà nước thiết lập một hệ thống cơ quan chuyên xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội nhằm đảm bảo trật tự xã hội, quyền và lợi ích của nhà nước và xã hội được duy trì, hệ thống cơ quan đó chính là toà án. Dưới chế độ phong kiến, nhà vua là người đứng đầu nhà nước nắm trong tay tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính vì thế những quan lại cai trị cấp dưới vừa là người thi hành pháp luật đồng thời là người xét xử. Đến khi nhà nước tư bản ra đời với nhiều học thuyết phân chia quyền lực nhà nước khác nhau thì các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân chia rõ ràng hơn. Đặc biệt khi học thuyết “Tam quyền phân lập” của Môngtexkiơ ra đời, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tách biệt và đối trọng với nhau và ba quyền này được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau tương ứng là cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì việc thực thi quyền xét xử do một hệ thống cơ quan chức năng riêng biệt đảm nhiệm đó là toà án với các thẩm phán là công chức nhà nước thực hiện nhiệm vụ xét xử. Theo cuốn Từ điển Luật học thì Toà án được hiểu là “cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước, đảm nhiệm chức năng xét xử”. Đây cũng là khái niệm được sự thống nhất cao của các quốc gia trên thế giới và các nhà nghiên cứu luật học. Trong đó, tuỳ từng quốc gia khác nhau Toà án - hệ thống cơ 10
  13. quan xét xử có những đặc thù riêng và được phân chia theo các loại hình, cấp xét xử khác nhau. Trong hệ thống toà án một số nước phương Tây, ngoài hệ thống các cấp toà án xét xử vụ án hình sự, dân sự, thương mại, lao động, hành chính, họ còn thành lập Toà án hiến pháp để thực hiện chức năng bảo vệ các nguyên tắc của hiến pháp, kiểm tra tính hợp hiến của các luật hay các văn bản quản lý khác. Ví dụ: ở Pháp, Toà án hiến pháp được gọi là Hội đồng bảo hiến. Nhiệm vụ của Hội đồng này là: phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và quy tắc hành chính; Tham gia ý kiến về các đề nghị sửa đổi Hiến pháp do Uỷ ban Quốc hội chuyển giao; Hội đồng bảo hiến giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc bầu cử Quốc hội và tổng thống cũng như các cuộc trưng cầu dân ý, kiểm tra tính hợp pháp của sự kiêm nhiệm chức vụ của các nghị sỹ [49, tr 498] . ở Đức, Toà án hiến pháp liên bang có thẩm quyền giải thích hiến pháp khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của liên bang và các địa phương. Trong lịch sử phát triển, thì toà án còn được thành lập bởi các tổ chức quốc tế để giải quyết các tranh chấp mang tính quốc tế như Toà án quốc tế là tổ chức của Liên hợp quốc gồm 15 thẩm phán do Đại Hội đồng và Hội đồng bảo an bầu ra cùng một lúc, với nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại. Trong đó thẩm phán được bầu hoàn toàn mang tư cách cá nhân, không đại diện cho quốc gia và quyền lực nhà nước và thẩm phán là công dân của 15 quốc gia khác nhau. Trong các thẩm phán phải có đủ đại diện của các nền văn hoá và các hệ thống pháp luật. Toà án này quyết nghị theo hình thức biểu quyết đa số nhưng tối thiểu phải có 9 thẩm phán tham dự xét xử. Trong trường hợp có ngang phiếu thì phiếu của chánh án có vai trò quyết định. Toà án này có hai chức năng, thứ nhất là: giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia khi có sự đồng ý của các bên. Quyết định của Toà án quốc tế có tính chất 11
  14. sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Trường hợp một bên không đồng ý thì bên kia có quyền nhờ Hội đồng bảo an can thiệp, theo đó Hội đồng bảo an sẽ ra kiến nghị hoặc quyết định áp dụng những biện pháp bắt buộc thi hành. Chức năng thứ hai của toà án này là làm tư vấn pháp luật cho Đại hội đồng, cho các cơ quan của Liên hiệp quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc. Ngoài Toà án quốc tế trên còn có các toà án quốc tế khác như: Toà án quân sự quốc tế là Toà án Nuyrămbe và Toà án Tôkyô; Toà án quốc tế về Luật biển. Khái niệm “Toà án nhân dân” hiện nay chỉ được sử dụng ở các quốc gia theo chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba. Trong quá khứ việc sử dụng thuật ngữ “Toà án nhân dân” đã từng tồn tại ở Đức với tên gọi là Toà án Nhân dân Đức, là toà án do Đảng Công nhân Đức Quốc gia XHCN thành lập từ năm 1934 như một toà án đặc biệt để xét xử những người chống đối chế độ với các tội danh “phản quốc” và “tiết lộ bí mật quốc gia” (theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia). ở Việt Nam, ngay từ khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 thiết lập Toà án quân sự để “xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì đó có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật”. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển lịch sử, đến nay theo Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định và Điều 1 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 tiếp tục khẳng định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, căn cứ vào cách phân chia khác nhau chúng ta có thể phân toà án thành các loại sau: Căn cứ vào nguyên tắc cấp và phạm vi xét xử, hệ thống các toà án của nước ta bao gồm: TANDTC, TAND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung 12
  15. ương, các TAND cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và các toà án quân sự. Căn cứ vào tính chất các vụ án do toà án xét xử, toà án nhân được phân thành các toà tư pháp và toà án hành chính trong đó toà án hành chính để xét xử các tranh chấp về hành chính. Còn toà tư pháp gồm: Toà hình sự xét xử các vụ án hình sự; Toà dân sự để xét xử các vụ án tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình; Toà án kinh tế để xét xử các vụ án tranh chấp về kinh tế, thương mại; Toà án lao động để xét xử các vụ tranh chấp về lao động. Trong thời gian tới với tinh thần của công cuộc cải cách tư pháp chúng ta sẽ thành lập Toà hôn nhân và gia đình, Toà án dành cho trẻ vị thành niên nhằm đáp ứng được những đặc thù của các loại vụ án này, đảm bảo cho quyền và lợi ích của nhà nước, xã hội và các cá nhân liên quan được thực thi tốt hơn, nâng cao tính chuyên nghiệp của các thẩm phán trong từng loại hình toà án này. Hệ thống Toà án quân sự là một hệ thống toà án có đặc thù riêng, nó chỉ thực hiện chức năng xét xử những vụ án mà bị cáo là những quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của pháp luật (chủ yếu là xét xử người có hành vi phạm tội làm thiệt hại đến quân đội), vì thế nó không chia thành các toà chuyên trách về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Toà án quân sự bao gồm: Toà án quân sự trung ương, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực. Tóm lại, với nghĩa rộng Toà án được hiểu là cơ quan đảm nhiệm chức năng xét xử và giải quyết các tranh chấp về các hành vi vi phạm pháp luật, quốc gia và quốc tế; vi phạm các thông lệ và tập quán quốc tế được hầu hết các quốc gia thừa nhận. Theo nghĩa hẹp, với tư cách là một trong những cơ quan tư pháp thuộc bộ máy của một nhà nước thì khái nhiệm Toà án được hiểu là: Toà án là một cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước 13
  16. chuyên đảm nhận chức năng xét xử các vụ án: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, lao động và hành chính. 1.1.2. Vị trí, vai trò của Toà án Chúng ta biết rằng, để bảo vệ, duy trì sự ổn định và phát triển của mình, Nhà nước thường sử dụng quyền lực của mình thông qua hệ thống chính trị và đặc biệt là hệ thống các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong hệ thống các cơ quan này, có thể nói cơ quan tư pháp mà đại diện tiêu biểu là Toà án có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là các nước xây dựng và thực hiện triệt để thuyết “tam quyền phân lập” để tạo dựng sự “cân bằng”, “đối trọng” về quyền lực giữa hệ thống ba cơ quan và để duy trì sự ổn định và phát triển quyền lực nhà nước trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, quốc gia nào cũng cần có hệ thống các cơ quan tư pháp đủ mạnh để bảo vệ sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức và ngay cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Bởi lẽ, với chức năng, nhiệm vụ xét xử và thực hành quyền công tố, Toà án và Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật và đưa pháp luật vào thực thi trong đời sống xã hội. Khi mà đời sống xã hội có nhiều mối quan hệ đa chiều, đan sen cộng với các yếu tố nước ngoài xuất nhiện ngày càng nhiều dẫn đến các tranh chấp, các hành vi vi phạm pháp luật ngày càng phức tạp, các bên trong quan hệ xã hội không thể tự mình điều chỉnh các mối quan hệ về lợi ích được nữa mà nó đòi hỏi sự cần thiết phải điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, đồng thời nó cũng đòi hỏi sự can thiệp, giúp đỡ của cơ quan tư pháp, các tổ chức trọng tài (người thứ ba trung lập để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn). Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc để xứng tầm với chức năng, nhiệm vụ được giao, khẳng định vị trí, vai trò của mình trong thiết chế “tam quyền phân lập” đang đè nặng trên vai các cơ quan tư pháp nói chung và Toà án nói riêng. 14
  17. Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào thì Toà án cũng có một vị trí, vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật và đưa pháp luật vào thực thi trong đời sống xã hội. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử, thay mặt, nhân danh và sử dụng quyền lực của nhà nước để giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì thế, để bảo đảm sự nghiêm minh của nhà nước, giai cấp cầm quyền nào cũng làm mọi cách để thiết lập vị trí và nâng cao vai trò của toà án, lấy giá trị bảo vệ pháp luật của nó làm biểu tượng cho công bằng xã hội. Mặt khác, để thấy được vị trí, vai trò của Toà án chúng ta có thể so sánh việc giải quyết các tranh chấp trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại qua con đường tố tụng tại Toà án và tố tụng tại Trọng tài hoặc tổ chức hoà giải cơ sở. Chúng ta biết rằng, ở các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển thì các quan hệ kinh tế, thương mại ngày càng phát triển nhanh cả về số lượng và sự phức tạp của quan hệ do yếu tố nước ngoài xuất hiện và tác động đến các mối quan hệ đó, cộng với mặt trái của nền kinh tế thị trường là chạy theo lợi nhuận, đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu nên đã và đang sảy ra nhiều tranh chấp rất phức tạp mà tự các bên trong mối quan hệ đó không thể tự giải quyết được, họ cần có một “người thứ ba” đứng ra với tư cách là người trung lập để giúp họ giải quyết tranh chấp một cách công bằng và nhanh nhất đảm bảo lợi ích của các bên được tôn trọng và được bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất có thể. “Người thứ ba” mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn đó là toà án hoặc trọng tài, nói cách khác để giải quyết các tranh chấp trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại các bên tranh chấp có thể lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp không qua tố tụng tại toà án mà thông qua tổ chức hoà giải cơ sở hoặc trọng tài. Tố tụng toà án và tố tụng trọng tài đều là những hình thức giải quyết tranh chấp trong dân sự, kinh tế và thương mại, trong đó toà án và trọng tài đóng vai trò người trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp. Hoạt động 15
  18. giải quyết tranh chấp của toà án và trọng tài có đặc điểm chung là dựa trên những quy định của pháp luật, nội dung hợp đồng hoặc sự thoả thuận của các bên, từ đó đưa ra các phán quyết độc lập để giải quyết các tranh chấp và các bên có trách nhiệm thực hiện các phán quyết của toà án hoặc trọng tài vì thế tố tụng toà án và tố tụng trọng tài đều được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Tuy nhiên, hậu quả pháp lý của việc thực thi các phán quyết của toà án và trọng tài có sự khác biệt quan trọng. Trong quá trình tố tụng, toà án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự cộng đồng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trong khi đó các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội - nghề nghiệp. Do đó, trong tố tụng toà án, khi bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mà các bên không tự nguyện thi hành thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết bởi một cơ quan thi hành án có thẩm quyền để luôn bảo đảm đảm rằng các bản án, quyết định của toà án phải được tuân thủ một cách tuyệt đối. Trong khi đó ở nhiều quốc gia và ở Việt Nam trong thời gian trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì hầu hết các phán quyết của trọng tài thường không được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì bên kia có quyền đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại toà án. Mặt khác, ta thấy rằng các phán quyết của trọng tài, hay tổ hoà giải cơ sở luôn có tính chất sơ, chung thẩm không thể kháng cáo trước bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Hơn nữa một trong những nguyên tắc của tố tụng trọng tài là không công khai (điều này thường xuất phát từ yêu cầu của các bên nhằm bảo vệ những lợi ích nhất định của họ như uy tín, thương hiệu, bí mật kinh doanh...) do đó ngoài nguyên đơn và bị đơn thường trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần thiết. Xuất phát từ một số điểm hạn chế trên, trong thời gian qua ở Việt Nam khi các trung tâm trọng tài, các tổ chức hoà giải cơ 16
  19. sở chưa phát triển mạnh, chưa tạo được uy tín cao, chưa khẳng định được “chỗ đứng” trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại thì toà án và tố tụng toà án vẫn đang có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng mà các bên tranh chấp trong đời sống dân sự nói chung thường xuyên sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Vị trí, vai trò của toà án còn được thể hiện trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp khác như: Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Trong các mối quan hệ này Toà án luôn giữ ở vị trí trung tâm và có sự ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động cuối cùng của hệ thống các cơ quan tư pháp. Ví dụ như: Để giải quyết một vụ án hình sự nếu Cơ quan điều ta, Viện kiểm sát đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình mà Toà án không thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử sẽ dẫn đến kết quả vụ án xử không đúng người, đúng tội, hình phạt không công bằng và nghiêm minh, không có tính phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Mặt khác trong quá trình thụ lý hồ sơ, trước khi đưa ra xét xử nếu Toà án thấy, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra thực hiện chưa đủ bằng chứng, chứng cứ để luận tội thì Toà án trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung..., Đặc biệt khi pháp luật tố tụng đang đặc biệt quan tâm, đề cao tố tụng tranh tụng thì vị trí, vai trò của Toà án càng được khẳng định rõ hơn trách nhiệm của mình để đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng trong việc xét xử một vụ án. Do vị trí, vai trò quan trọng của Toà án nên ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công vào ngày 19/8/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời với Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình thì 11 ngày sau, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33 thiết lập Toà án quân sự để “xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì đó có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà 17
  20. binh tự xử lấy theo quân luật”. Từ đó, ngày 13/9/1945 trở thành mốc son lịch sử quan trọng, đánh dấu sự ra đời của ngành Toà án Việt Nam. Tuy nhiên, xét về mặt lịch sử hình thành Toà án với đúng nghĩa của nó như hiện nay thì “Toà án xuất hiện ở Việt Nam lần đầu tiên từ thời Pháp thuộc, do ảnh hưởng của nền tư pháp chính quốc” [48, tr.547]. Loại hình toà án ở thời kỳ này rất phức tạp về hình thức vì khi đó ở nước ta tồn tại đồng thời hai hệ thống chính quyền: chính quyền đô hộ của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến bản xứ. Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước nói chung và của ngành Toà án nói riêng, các quy định về ngành Toà án nhân dân đã nhiều lần được cải cách, sửa đổi và ngày càng khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò quan trọng của ngành trong hệ thống các cơ quan tư pháp cũng như trong đời sống xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tóm lại, Toà án là cơ quan xét xử của nhà nước, nó có vai trò và vị trí hết sức quan trọng trong việc duy trì, bảo vệ sự tôn trọng và thực thi pháp luật trong đời sống xã hội. Bằng hoạt động xét xử của mình, Toà án đảm bảo không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội và là “trung gian” để giải quyết các tranh chấp khác trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại và các tranh chấp khác thuộc thẩm quyền. Đồng thời, toà án còn có vị trí, vai trò quan trọng trong kết quả hoạt động của cả hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung, chính vì thế trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “Toà án là trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, hoạt động xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp” [2] 1.2. Một số vấn đề lý luận về Thẩm phán 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2