intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, liên hệ vào thực tiễn của ngành Toà án Thái Nguyên

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

26
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là tìm hiểu, phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của việc nâng cao năng lực đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân, đồng thời trên cơ sở thực trạng và chất lượng đội ngũ thẩm phán nói chung và của ngành Toà án Thái Nguyên. Luận văn nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, liên hệ vào thực tiễn của ngành Toà án Thái Nguyên

  1. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................. 2 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ ....... 7 1.1. Hoạt động xét xử của Toà án và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. ......................................................................................... 7 1.1.1. Hoạt động xét xử của Toà án: ................................................. 7 1.1.2. Vai trò của Thẩm phán trong công tác xét xử. ...................... 14 1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán. . 17 1.2.1. Quan niệm về đạo đức: ......................................................... 17 1.2.2. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán: ...................... 18 Chương 2: NHỮNG ĐÒI HỎI VÀ YÊU CẦU CƠ BẢN PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA THẢM PHÁN. ....................................................................................... 24 2.1. Các quy định của pháp luật về Thẩm phán. ................................. 24 2.2. Yêu cầu để đảm bảo thực hiện quyền của Thẩm phán là khi xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật. .......................................................... 31 2.3. Sự đòi hỏi và yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. ............................................................................ 36 2.4. Đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. ........................... 37 2.5. Đáp ứng yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội. ............................ 38 2.6. Từ thực trạng đội ngũ Thẩm phán................................................. 39 2.6.1. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán nói chung. ........................... 39 2.6.2. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán của ngành Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên. ........................................................................... 44 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU VỀ NĂNG LỰC CHUYÊN MÔN VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP ..... 50 3.1. Các giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán, liên hệ với thực tế của ngành Toà án Thái Nguyên. ................................. 50 3.1.1. Cần phải có quy hoạch để tạo nguồn Thẩm phán: ................ 51 3.1.2. Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo nguồn Thẩm phán. ........ 52 3.1.3. Tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán: .................................... 60 3.1.4. Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ Thẩm phán. ................................................... 68 3.2. Một số giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán. ...... 77 3.2.1. Cần phải tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho thẩm phán. 78 3.2.2. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người thẩm phán. ................................... 78 3.2.3. Coi trọng việc tự rèn luyện và bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của người thẩm phán. ..................................................................... 79 1
  2. 3.2.4. Ngành Toà án tỉnh Thái Nguyên xây dựng quy định tiêu chuẩn về đạo đức, lối sống của cán bộ công chức, trong đó có đội ngũ thẩm phán. ....................................................................................................... 80 3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán phải có quan điểm đãi ngộ Thẩm phán tương xứng với trách nhiệm nghề nghiệp. ............................................................................ 82 3.3.2. Bảo vệ Thẩm phán: ............................................................... 86 3.4. Tăng cường công tác giám sát của của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử. .......................... 89 3.5. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Toà án là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ thẩm phán Toà án.. 90 KẾT LUẬN ........................................................................................... 92 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương trình tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu: "Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt giam giữ, truy tố, xét xử, thi hành án không để xảy ra những trường hợp oan sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án các cấp, tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng ...." Cải cách tư pháp là một bộ phận quan trọng của công cuộc cải cách Bộ máy Nhà nước ta hiện nay. Cải cách tư pháp phải gắn với đổi mới lập pháp và cải cách hành chính. Trong những năm vừa qua thực hiện công cuộc cải cách Tư pháp, chất lượng hoạt động Tư pháp được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định của sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2
  3. Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" cũng đã nêu lên những mặt còn hạn chế của công tác tư pháp và đặt ra mục tiêu cải cách tư pháp là "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có kết quả và hiệu lực cao" và xác định Toà án có vị trí trung tâm và hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm của hoạt động tư pháp. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ "Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm". Trong hoạt động xét xử thẩm phán có vai trò trung tâm vì chỉ có thẩm phán mới có tư cách nhân danh Nhà nước thực hiện công việc xét xử để phán xét một người có tội hay không có tội. Thẩm phán cũng là người tham gia giải quyết các tranh chấp khác trong xã hội khi có yêu cầu tại Toà án và việc giải quyết đó được thể hiện bằng một bản án hay một quyết định. Và khi bản án, quyết định đó được tuyên ra, có hiệu lực pháp luật thì buộc các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân phải có nghĩa vụ thi hành. Vì thế hoạt động của Toà án, chất lượng xét xử của Toà án phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ thẩm phán. Hiến pháp 1992 sửa đổi, Luật tổ chức Toà án 2002, pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 quy định điều kiện, tiêu chuẩn đội ngũ thẩm phán, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán... Từ những quy định trên đã góp phần nâng cao một bước chất lượng của đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay. 3
  4. Tuy nhiên Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Báo cáo tổng kết công tác ngành TAND hàng năm đã chỉ rõ: + Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp còn bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. + Trong nên kinh tế thị trường hiện nay, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, đội ngũ thẩm phán ở nước ta còn nhiều hạn chế, không ít thẩm phán trước những tác động của cơ chế thị trường đã sa ngã, một số không chịu học tập vươn lên. Nguyên nhân của những yếu kém là: Công tác cán bộ của các cơ quan Tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ Tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật giảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán đang là vấn đề cấp bách hiện nay và đây cũng là một trong những nội dung cơ bản trong tiến trình cải cách tư pháp của ngành Toà án nhân dân. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài: "Xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, liên hệ vào thực tiễn của ngành Toà án Thái Nguyên" để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật tại khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. 2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU: Xây dựng đội ngũ Thẩm phán là một trong những yêu cầu của cải cách tư pháp. Vì vậy, vấn đề trên cũng đã được đề cập, được đăng tải trên 4
  5. một số tạp chí như: Tạp chí TAND, Thông tin khoa học pháp lý, Tạp chí luật học, Bộ tư pháp có đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng quy chế Thẩm phán" TAND tối cao có đề tài: "Những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ TAND; Đề tài "Đổi mới công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán TAND địa phương". Tiến sỹ Phan Văn Lợi đã chủ biên về chế định Thẩm phán một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tiến sỹ Phan Hữu Thư có bài đạo đức nghề luật đăng trên tạp chí luật học vv... Tuy nhiên, trong các tài liệu đó cũng chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất về thẩm phán chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống và đồng bộ về các giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn cùng với việc phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán. 3- MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. a, Mục đích của đề tài là tìm hiểu, phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của việc nâng cao năng lực đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân, đồng thời trên cơ sở thực trạng và chất lượng đội ngũ thẩm phán nói chung và của ngành Toà án Thái Nguyên. Luận văn nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán. b, Để thực hiện mục đích đề tài có những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu vị trí, vai trò của Toà án, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử của Toà án. Đồng thời làm rõ những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của thẩm phán, tính tất yếu khách quan của việc nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán. - Phân tích, đánh giá thực trạng và chất lượng đội ngũ thẩm phán, đưa ra được các giải pháp có cơ sở lý luận thực tiễn và có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán ngành Toà án nói chung và của ngành Toà án Thái Nguyên nói riêng. 5
  6. 4- ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về chế định thẩm phán trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 trở lại đây. Luận văn có tham khảo kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán của một số nước và có gắn với kinh nghiệm thực tế của tỉnh miền núi Thái Nguyên. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật, các giải pháp trong thực tiễn để nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán, có liên hệ thực tiễn của ngành Toà án tỉnh Thái Nguyên. 5- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI: Trên cơ sở giải quyết sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản của đề tài mà luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán và từ đó đã có những đề xuất, kiến nghị có giá trị tham khảo trong quá trình xây dựng đội ngũ thẩm phán, nhất là trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tiến hành cải cách tư pháp hiện nay. 6- NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI. - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động xét xử của Toà án, tác giả đã chỉ ra được một số hạn chế của đội ngũ thẩm phán Toà án. - Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán. - Trên cơ sở đó đã có một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật trong phương hướng xây dựng đội ngũ thẩm phán: + Tuyển chọn Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển hoặc sát hạch. + Quy định thời gian dự bị của thẩm phán. + Kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán. + Bảo vệ thẩm phán. + Công khai bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. 7- CƠ SỞ PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 6
  7. Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng. Đặc biệt các vấn đề về cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ thẩm phán nói chung và của ngành Toà án Thái Nguyên nói riêng. Đề tài được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó sử dụng một cách phù hợp các phương pháp: - Phân tích lô gíc. - Thống kê tổng hợp. - Điều tra xã hội học. 8- BỐ CỤC LUẬN VĂN. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn có 3 chương, bao gồm 14 mục. KẾT LUẬN Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ 1.1. Hoạt động xét xử của Toà án và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. 1.1.1. Hoạt động xét xử của Toà án: Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phân nhiệm trong việc thực hiện 3 quyền: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Trong bộ máy Nhà nước, TAND có vị trí quan trọng đặc biệt, Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi bổ sung). Điều 1 - Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định: "Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác theo luật định là các cơ quan xét xử của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam". 7
  8. Đối với TAND xét xử là chức năng chính, chủ yếu trong hoạt động của Toà án "nhiệm vụ của Toà án là xét xử để đi đến quyết định người bị truy tố có tội hay không có tội, tội đó cần trừng trị hay tha bổng, hình phạt ở mức nào là hợp lý, hợp tình, bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật. Nghiêm là tội nào phải chịu mức hình phạt ấy theo pháp luật đã quy định, làm cho kẻ phạm tội phải chấp hành, phải hối hận và phải cải tạo sửa chữa, đồng thời minh là phải bảo đảm tính công bằng xã hội, quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân phải được tôn trọng. Phương châm "không để lọt kẻ gian, không làm oan người ngay là rất quan trọng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử"1 [59, tr 79]. Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân là phương pháp cơ bản đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế XHCN được giữ vững. Hoạt động xét xử nhằm bảo vệ chế độ XHCN, chế độ kinh tế, chính trị, xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền con người. Hoạt động xét xử của TAND không phải là hoạt động xây dựng pháp luật, không phải là hoạt động phán quyết của cấp trên đối với cấp dưới trong quản lý hành chính và đây cũng không phải là phán quyết của bản thân một Toà án nào đó, lại càng không phải phán quyết của một cá nhân trong bộ máy Toà án hay chỉ một người có chức, có quyền nào đó mà là hoạt động thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với các vụ án cụ thể. Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật nhưng cũng là hoạt động sáng tạo của toà án, bởi vì khi xây dựng pháp luật, nhà làm luật thường không lường hết được các tình tiết, các hoàn cảnh sự việc, hành vi diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, do đó khi giải quyết những sự việc đó, Toà án không thể từ chối xét xử vì không có luật mà "phải tìm ra, xây dựng lên một giải pháp pháp lý bằng cách dựa vào phong tục cổ truyền, tài liệu 8
  9. soạn thảo, các văn kiện luật và nhất là các nguyên tắc tổng quát của pháp luật"2 [27, tr.15]. Yêu cầu đặt ra đối với công tác xét xử là phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật vì "ở việc khác, sai lầm đã là nguy hiểm, ở việc xét xử nếu sai lầm càng nguy hiểm hơn nhiều"3 [59, tr. 51]. Trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế và tiến hành cải cách tƣ pháp hiện nay thì Toà án càng đƣợc chứng minh là có vai trò trung tâm quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nƣớc ta, vai trò đó đƣợc thể hiện nổi bật nhƣ: Thứ nhất: Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để phán quyết, do đó các phán quyết của Toà án được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Chỉ có Toà án mới có tư cách nhân danh Nhà nước thực hiện công việc xét xử để phán xét một người có tội hay không có tội, tuyên một bản án để định rõ tội trạng và hình phạt tương ứng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và giải quyết các tranh chấp khi có yêu cầu tại Toà án. Một nguyên tắc được thừa nhận chung của nền văn minh pháp lý nhân loại và được quy định trong pháp luật Việt Nam là: "Không ai được coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật"4 [1, 2]. Khác với hoạt động lập pháp và hành pháp, hoạt động xét xử không những nhân danh Nhà nước mà còn nhân danh công lý. Vì nhiều khi Toà án còn phải xét xử cả quyết định và hành vi của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, chủ thể của hoạt động Tư pháp không chỉ căn cứ vào pháp luật mà còn căn vào công lý, nhất là đối với các vụ án hình sự. Khi đó, Toà án chỉ nhân danh Nhà nước thì không đúng với bản chất của hoạt động Tư pháp, sẽ có sự thiên lệch, cho lên Toà án phải nhân danh công lý, trong nhiều trường hợp nhân danh Nhà nước cũng là nhân danh công lý5 [27, tr.12]. Trong xã hội ta, việc kết tội một công dân là việc làm hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng, sức khoẻ, tự do, nhân phẩm, 9
  10. danh dự, tài sản cũng như các quyền và lợi ích của họ "Bản án đối với người phạm tội là một sự kiện quan trọng đối với bản thân họ, đối với gia đình họ, đối với xã hội"6 [59, tr.51]. Và chính vì thế mà chỉ có Toà án là cơ quan có đủ điều kiện, được pháp luật giao quyền xác định một người có tội hay không có tội và áp dụng loại và mức hình phạt nào cho phù hợp pháp luật, đảm bảo thực hiện mục đích trừng trị kết hợp với cải tạo và giáo dục, kết hợp giữa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. Trong điều kiện hiện nay chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ Quốc tế, tiến hành cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Chức năng của Toà án ngày càng được mở rộng, bên cạnh việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình. Toà án còn xét xử các vụ án tranh chấp kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật nhất là các vụ án có yếu tố nước ngoài sẽ ngày càng nhiều lên. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay thì "Toà án là cơ quan công lý, là Toà án của nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng, không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền XHCN"7[59, tr. 90]. Và như Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: Toà án có vai trò trung tâm của hệ thống Tư pháp và xét xử là trọng tâm của hoạt động Tư pháp. Mọi hoạt động tố tụng mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành, thậm chí các hoạt động của các cơ quan bổ trợ Tư pháp như: cơ quan Giám định, Công chứng, Tổ chức luật sư đều chỉ có ý nghĩa trợ giúp cho hoạt động xét xử của Toà án. Thứ hai: Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Bằng hoạt động xét xử của mình, Toà án trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong cơ chế phân 10
  11. công và phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, Tư pháp. Với tư cách là một trong ba nhánh quyền lực. Hoạt động của Toà án không chỉ là một hoạt động áp dụng pháp luật đơn thuần để giải quyết những vi phạm pháp luật cụ thể, mà bằng hoạt động của mình, Toà án đã tác động tích cực trở lại đối với hoạt động lập pháp và hành pháp, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quản lý hành chính, các hành vi hành chính. Có nhiều cách khác nhau để kiểm tra kiểm soát tính hợp pháp của hành vi hành chính, nhưng sự kiểm soát bằng Toà án là hiệu quả nhất. Toà án cũng xét xử cả hành vi của Quốc hội (cơ quan quyền lực) đảm bảo tính hợp hiến của các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành. Sự Tài phán của thể chế Tư pháp đối với hành vi của lập pháp và hành pháp có ý nghĩa kiểm soát tính hợp pháp, hợp hiến hành vi của chính quyền, một yêu cầu chủ yếu của Nhà nước pháp quyền như Ăng ghen đã chỉ rõ: "Điều kiện đầu tiên của tự do, đó là tất cả các quan chức Nhà nước đều phải chịu trách nhiệm về hành vi chức vụ của mình đối với bất kỳ công dân nào trước Toà án"8 [29, tr.208]. Chính vì thế, việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục rất chặt chẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự... Còn việc xử lý của các cơ quan hành chính Nhà nước được tiến hành theo các thủ tục đơn giản hơn, nhanh gọn hơn. Thủ tục xét xử đó là những quy định pháp lý Dân chủ, công khai và có hiệu lực thực thi cao hơn các thủ tục xử lý hành chính. Vì thế xét xử không chỉ đòi hỏi chính xác về nội dung và còn phải đảm bảo đầy đủ, đúng đắn về thủ tục. Bằng việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật chẳng những có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo họ mà đồng thời còn góp phần phòng ngừa ngăn chặn tội phạm. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, hoạt động xét xử của Toà án đã tạo ra được trật tự pháp luật, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, thực hiện có hiệu quả chính 11
  12. sách quản lý xã hội kết hợp biện pháp giáo dục phòng ngừa là cơ bản và trấn áp trừng trị kẻ phạm tội. Đây chính là phương châm hoạt động thường xuyên, tích cực của Toà án để đẩy lùi tội phạm và tạo điều kiện tốt cho công tác phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, và việc xét xử góp phần đắc lực cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là sự đòi hỏi của người dân, đòi hỏi của xã hội đối với cơ quan Toà án. Toà án phải thật sự là chỗ dựa tin cậy của người dân "yêu cầu chung của đất nước đặt ra đối với các cơ quan Tư pháp nói chung, với ngành TAND nói riêng là phải phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân"9 [59, tr. 97 - 98]. Bằng việc xét xử của mình, cùng với việc ra các bản án, quyết định, Toà án còn ra các kiến nghị yêu cầu các cơ quan, các tổ chức xã hội chấn chỉnh, áp dụng các biện pháp để khắc phục các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm và vi phạm pháp luật tại các cơ quan tổ chức đó. Bằng hoạt động xét xử cùng với các cơ quan khác "cơ quan Thanh tra, kiểm tra Nhà nước, Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, điều tra, kiểm sát, xét xử có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình"10 [5] và phối hợp với các cơ quan hữu quan như: Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan Công an, Thanh tra, Tư pháp, Mật trận tổ quốc và các thành viên của mặt trận đơn vị vũ trang nhân dân, nghiên cứu và thực hiện những chủ trương, biện pháp để nhằm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Và cũng chính bằng hoạt động xét xử của mình, bằng việc ra các bản án, quyết định đúng pháp luật. Bản án của Toà án cũng chính là sự đánh giá chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát, cơ quan điều tra và mọi 12
  13. hoạt động của các cơ quan Tư pháp phải xoay quanh và phục vụ chính cho hoạt động xét xử của Toà án. Thứ ba: Hoạt động xét xử của Toà án cuối cùng được thể hiện bằng việc ra một bản án, quyết định, đó chính là sự thể hiện tập trung ở những giá trị xã hội; giá trị dân chủ, nhân bản và giá trị giáo dục tư tưởng. Bằng hoạt động của mình "Toà án phối hợp với cơ quan Nhà nước, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà và tạo điều kiện cho việc thi hành bản án, quyết định của Toà án"11 [4, tr.3]. Bản án, quyết định của Toà án không chỉ nhằm mục đích trừng trị đơn thuần về thể xác hoặc tinh thần mà chủ yếu giúp cho người phạm tội thấy được lỗi lầm, mở đuờng cho họ ăn năn hối cải, trở thành người công dân có ích cho xã hội. Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử của Toà án đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, giúp cho người dân hiểu luật mà còn thấy được cần phải có luật trong cuộc sống hàng ngày. Giáo dục pháp luật qua việc xét xử tại phiên toà có ý nghĩa và vai trò rất to lớn, vì hoạt động xét xử là một dạng của hoạt động bảo vệ pháp luật, chủ yếu là vạch rõ hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Ngoài phương pháp thuyết phục, hoạt động xét xử tại các phiên toà là quá trình tác động trực tiếp lên ý thức và hành vi không những của cá nhân người vi phạm pháp luật và tội phạm và còn của đông đảo người đến tham dự phiên toà, nhằm tạo lên ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử có sức mạnh và hiệu quả rất cao vì nó không phải chỉ là sự tuyên truyền bằng lời nói hay bằng văn bản bình thường, mà nó được thực hiện trực tiếp thông qua các phiên toà xét xử 13
  14. các vụ án, nhất là thông qua các phiên toà lưu động, bằng cả quá trình tố tụng, bằng sự phán quyết công minh và bằng chính bản thân các bản án, quyết định đúng pháp luật. Và "Bằng kết quả xét xử, Toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất của bản chất Nhà nước ta, của nền công lý nước ta, Toà án của chế độ ta là Toà án của nhân dân, do dân và vì nhân dân phục vụ"12 [59, tr. 97, 98]. Thứ tư: Thông qua hoạt động xét xử, Toà án có vai trò bảo đảm thực hiện các quyền Dân chủ, các quyền con người. Các giá trị chung của quyền con người: danh dự, nhân phẩm, các quyền về kinh tế, chính trị - xã hội được Toà án bảo vệ thông qua công tác xét xử như: quyền yêu cầu Toà án bảo vệ; nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bất khả xâm phạm cá nhân, quyền bất khả xâm phạm đời tư, điều đó thể hiện sự dân chủ của một xã hội, sự tôn trọng con người của xã hội. Đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.Điều đó cũng được thể hiện thông qua sự độc lập xét xử xủa Toà án. 1.1.2. Vai trò của Thẩm phán trong công tác xét xử. "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án"13[6]. Là chức danh cán bộ tạo nên thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ, công chức của Toà án nhân dân, có vai trò chủ yếu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân. Thẩm phán không chỉ có vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn có vai trò quyết định trong toàn bộ hoạt động tố tụng tư pháp theo quy định của pháp luật. Nói một cách khác, Thẩm phán là người có vai trò chính trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Toà án. Thẩm phán là ngƣời có vị trí trung tâm trong hoạt động tƣ pháp. Để đưa ra được các quyết định khởi tố, truy tố và xét xử các vụ án, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải dựa vào các chứng cứ và các quy 14
  15. định của pháp luật về các hoạt động tố tụng này. Về nguyên tắc, các chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập có trong hồ sơ vụ án, và các chứng cứ do các bên đương sự hay người đại diện hợp pháp, luật sư bào chữa của họ trong vụ án đưa ra đều không có giá trị; Nếu các chứng cứ đó không được Hội đồng xét xử thẩm tra đánh giá tại phiên toà. Trong mối liên hệ đó, nếu việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật của thẩm phán không đúng đắn và đầy đủ, hoặc vì lý do nào đó chỉ hoàn toàn dựa vào chứng cứ và những tài liệu có trong hồ sơ do cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập mà không có sự đối chiếu, kiểm tra kết luận một cách khách quan, toàn diện về tính đúng đắn và hợp pháp của các chứng tại phiên toà, thì việc phán quyết của Toà án sẽ không đảm bảo được yêu cầu khách quan là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thẩm phán là ngƣời có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử . Trong hoạt động xét xử của TAND, Thẩm phán là nhân tố cơ bản, là nhân vật trung tâm. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm toàn bộ về những phán quyết của mình kể cả việc phải chịu hậu quả pháp lý khi để xẩy ra sai sót. Chỉ có Thẩm phán mới có quyền nhân danh Nhà nước phán xử, để tuyên một bản án, để tuyên một người có tội hay không có tội. Hoạt động xét xử của Thẩm phán liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt hoạt động xét xử của Thẩm phán một mặt tác động tích cực đến đương sự này, mặt khác lại tác động tiêu cực đến đương sự khác. Vì vậy việc xét xử của Thẩm phán mang lại lợi ích cho nhiều người nhưng cũng không ít trường hợp đương sự không vừa lòng với quyết định của Toà án. Các vụ án có được xét xử kịp thời, đúng pháp luật, trừng trị nghiêm khắc kẻ phạm tội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước và các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hay không? Việc xét xử của Toà án có góp phần 15
  16. vào việc răn đe phòng ngừa các vi phạm pháp luật, và có tác dụng trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân hay không?, phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ Thẩm phán Toà án. Đảm bảo sự công bằng trong hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý, do vậy công bằng trong hoạt động xét xử là yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của người Thâm phán. Như trong thư gửi Hội nghị cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1948, Chủ tich Hồ Chí Minh đã nói: "Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư". Công bằng trong xét xử là công bằng đối với tất cả mọi người, bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì, chức vụ gì đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng tội trạng và hậu quả của hành vi phạm tội. Công bằng ở đây là không được thiên lệch, không được nhân nhượng về bên nào, tất cả các đượng sự, bị cáo không phân biệt thành phần xuất thân, địa vị xã hội, thành phần kinh tế đều phải được bình đẳng như nhau trước pháp luật, các hành vi, quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Thẩm phán nhìn nhận đánh giá một cách khách quan giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm trước pháp luật của tội phạm. Xác định tội danh đúng là tiền đề quan trọng để cho việc lượng hình đảm bảo khách quan, đảm bảo chính xác, đảm bảo sự công bằng. Quyết định hình phạt công bằng có nghĩa là hình phạt được tuyên đối với bị cáo phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của bị cáo thực hiện. Sự tương xứng ấy cũng thể hiện khắc phục những mặc cảm, những định kiến, những khuynh hướng cực đoan dễ nẩy sinh trong tâm lý người xét xử, công bằng còn đòi hỏi các quyền của đương sự, của bị cáo, người bị hại phải được bảo vệ bằng pháp luật. Một đòi hỏi nữa của công bằng là người không phạm tội phải được minh oan và được khôi phục mọi quyền lợi đầy đủ và kịp thời theo Nghị quyết 388 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. 16
  17. 1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán. 1.2.1. Quan niệm về đạo đức: Đạo đức, theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hoá thông tin năm 2001, là: Đạo lý và đức hạnh, lẽ tốt nên theo14[34, tr.287]. Theo từ điển tiếng việt - Viện ngôn ngữ học - NXB Đà Nẵng năm 2005 thì: Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có15 [35, tr.290]. Mỗi một xã hội có quan niệm của mình về đạo đức. Đạo đức vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp sâu sắc, bên cạnh đó đạo đức còn bị chi phối bởi tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc. Trong xã hội, con người luôn có nhu cầu hướng tới các giá trị đạo đức, hướng tới cái thiện, nhân đạo, lẽ công bằng. Để có được những phẩm chất đạo đức tốt, người thẩm phán phải có một quá trình tu dưỡng, rèn luyện vất vả. Trong đời sống xã hội, mọi hành vi của con người phải được đánh giá từ phương diện đạo đức và như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Người cách mạng phải có đạo đức như cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo..."16 [42, tr.17]. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, trong việc đánh giá, xây dựng đội ngũ cán bộ Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi "Đạo đức" là cái "Gốc", là nền tảng của người cán bộ cách mạng, nếu không có đạo đức thì dù tài mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Đối với cán bộ ngành Tư pháp người căn dặn: "Các chú hiện nay làm công tác Tư pháp, công tác xử án. Vậy muốn làm tốt công tác ấy thì làm thế nào? Trước hết phải đề cao lòng yêu nước, thương đồng bào, phải căm ghét bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai của chúng... Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, phải 17
  18. làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ"17[42, tr. 45 - 46]. Bản thân pháp luật không thể tạo ra được các giá trị đạo đức. Tuy nhiên chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng góp phần loại bỏ những thói hư tật xấu, xây dựng lên những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ, tạo lên sự ổn định xã hội. Xu hướng hiện nay là pháp luật ngày càng ghi nhận nhiều hơn nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ. Khi đạo đức đã xuống cấp thì pháp luật có hay đến mấy cũng trở thành vô nghĩa. Con người trong xã hội nói chung và đối với đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, nếu không nhận biết về các chuẩn mực đạo đức thì cũng dễ dàng vi phạm pháp luật và ngược lại sự vi phạm pháp luật, pháp luật không nghiêm là tiền đề để làm rối loạn kỷ cương đạo đức xã hội. Vì vậy, quy phạm đạo đức có vai trò làm định hướng cho nhà làm luật trong việc xác định tội phạm hoá hay phi tội phạm hoá các hành vi18 [25, tr.360]. Chính vì vậy mà khi phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị công tác tư pháp toàn quốc tháng 4/2004 Chủ tịch nước Trần Đức Lương trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã nói: Đội ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất đạo đức trong sáng làm việc vì dân, có bản lĩnh và năng lực là một điều kiện vô cùng quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ cải cách Tư pháp. Do vậy chúng ta phải thật chú trọng đến việc bồi dưỡng, giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ. Bên cạnh những tấm gương dũng cảm, tận tuỵ vì công việc thì trong đội ngũ cán bộ Tư pháp cũng còn một số người sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm, không chịu học tập nâng cao trình độ còn vi phạm pháp luật đã gây ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Tư pháp19 [21]. 1.2.2. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán: Đạo đức nghề nghiệp là một trong các nội dung được bàn luận nhiều hiện nay, làm nghề gì thì cũng phải cần có đạo đức của nghề đó. Đạo đức 18
  19. nghề nghiệp là đạo đức được hình thành trên cơ sở hoạt động nghề nghiệp của cá nhân, của một nhóm người, một tổ chức người nhất định, nó mang đầy đủ các yếu tố của đạo đức xã hội, không được trái với đạo đức xã hội. Đạo đức nghề nghiệp liên quan đến hoạt động nghề nghiệp mà nghề nghiệp đó có sự tác động, sự ảnh hưởng nhất định đến sinh mạng chính trị, đến tính mạng, sức khoẻ, đến tài sản của cá nhân, tổ chức. Đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán là một loại hình đạo đức được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động xét xử. Vì việc xét xử của thẩm phán là xét xử đối với hành vi cụ thể của cá nhân, của tổ chức. Chính vì thế, nếu như người thẩm phán chỉ cần vì lý do gì đó không xem xét sự việc một cách khách quan, thận trọng, không xuất phát từ lương tâm của mình thì có thể sẽ gây ra hậu quả không tốt, làm thiệt hại đến lợi ích vật chất hoặc tinh thần của cá nhân, tổ chức. Đạo đức nghề nghiệp thẩm phán được hình thành và phát triển thông qua quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong hoạt động xét xử của thẩm phán, yếu tố đạo đức không chỉ đơn thuần là phẩm chất đạo đức của bản thân người Thẩm phán mà còn là việc vận dụng các phạm trù đạo đức vào trong việc giải quyết vụ án trên cơ sở pháp luật, thực tế chứng minh, trong lịch sử, pháp luật chưa bao giờ lấn át được đạo đức. Trong trường hợp thiếu quy định của pháp luật cụ thể hoặc có mẫu thuẫn giữa pháp luật với đạo đức truyền thống thì phải lấy đạo đức để áp dụng20 [42, tr.9]. Điều này phải được thể hiện cụ thể trong hoạt động xét xử của Thẩm phán từ cách giao tiếp, thẩm vấn, điều hành phiên toà, đặc biệt là trong các quyết định phán quyết của Thẩm phán, người thẩm phán phải biết phối hợp các ưu thế của pháp luật và đạo đức đến mức thành một nghệ thuật xét xử. Trong điều kiện hiện nay như ý kiến phát biểu của Chủ tích nước Trần Đức Lương tại Hội nghị công tác tư pháp toàn quốc tháng 2/2002: Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân thì thái độ phục vụ nhân dân là 19
  20. một tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ đảng viên, đặc biệt là cán bộ Tư pháp. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán không phải bỗng dưng mà có, mà được tạo nên bởi các yếu tố: Lƣơng tâm là yếu tố tạo lên đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán. Lương tâm: Theo từ điển tiếng việt - Viện ngôn ngữ học năm 2005 là: Yếu tố nội tâm tạo cho mỗi người khả năng tự đánh giá hành vi của mình về mặt đạo đức, và do đó tự điều chỉnh hành vi của mình21 [35, tr.600]. Người thẩm phán có tinh thần trách nhiệm là thực hiện công việc theo đúng lương tâm của mình, lương tâm và trách nhiệm có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn bó với nhau. Càng độc lập bao nhiêu thì Thẩm phán càng phải có lương tâm, càng phải có trách nhiệm bấy nhiêu. Càng có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm đạo đức nghề nghiệp thì trong hoạt động xét xử càng tránh được sự vi phạm, tránh được oan, sai bấy nhiêu, một người có lương tâm sẽ có sự phán quyết khách quan, sự nhìn nhận đúng đắn trước hành vi của một con người. Lao động của thẩm phán là hoạt động sáng tạo, là thứ lao động nghề nghiệp liên quan đến việc áp dụng pháp luật. Nhưng các văn bản pháp luật đó dù có đầy đủ và chính xác bao nhiêu thì cũng không thể nào quy định được hết các tình huống xẩy ta trong xã hội, và lúc đó người thẩm phán phải thể hiện tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, cộng với khả năng phân tích sáng tạo và biện chứng không cứng nhắc, siêu hình22 [44, tr. 5 - 6]. Các quy định của pháp luật được ban hành ra không phải để dành riêng cho từng trường hợp cụ thể mà người Thẩm phán lúc đó tiến hành giải quyết công việc buộc phải áp dụng các điều khoản đó cho từng trường hợp cụ thể, không phải vụ việc nào cũng như vụ việc nào, mỗi vụ có hành vi khác nhau, tính chất phức tạp khác nhau, mối quan hệ khác nhau. Vì thế người thẩm phán phải phân tích các sự kiện, đánh giá các 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2