intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

24
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử của TAND quận Đống Đa đối với các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xét xử của TAND quận Đống Đa và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xét xử loại vụ án này trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ TRANH CHẤP VỀ TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ TRANH CHẤP VỀ TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ HÀ NỘI - 2014 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Ngọc Vân 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THÔNG QUA 6 HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 1.1. Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng thông qua hợp 6 đồng tặng cho quyền sử dụng đất 1.1.1. Khái niệm về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 6 1.1.2. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi hai vợ 12 chồng được tặng cho chung 1.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng thông qua hợp 24 đồng tặng cho quyền sử dụng đất 1.2.1. Căn cứ xác định 24 1.2.2. Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng là quyền sử dụng đất 27 Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TẶNG 31 CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Nhận xét chung về tình hình tranh chấp và giải quyết tranh 31 chấp quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội 2.1.1. Khái quát một số vấn đề về điều kiện kinh tế - xã hội quận 31 Đống Đa ảnh hưởng đến các tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn 4
  5. 2.1.2. Nhận xét và đánh giá chung 34 2.2. Thủ tục và đường lối giải quyết các tranh chấp về tài sản là 49 quyền sử dụng đất được tặng cho của vợ chồng khi ly hôn 2.2.1. Thủ tục giải quyết 49 2.2.2. Đường lối giải quyết 51 2.2.3. Nguyên tắc chung chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn 55 2.2.4. Một số trường hợp cụ thể 62 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP 74 LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 3.1. Về phương diện lập pháp 74 3.1.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự 74 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật đất đai 77 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình 78 3.1.4. Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự 81 3.2. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải 84 quyết tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 3.2.1. Nâng cao trình độ, giáo dục phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản 84 lĩnh chính trị cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 3.2.2. Phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật liên quan đến tài sản 86 của vợ chồng nói chung và quyền sử dụng đất của vợ chồng nói riêng 3.2.3. Một số kiến nghị trong công tác thi hành án 87 3.2.4. Nghiên cứu, thành lập Tòa án hôn nhân và gia đình và người 88 chưa thành niên phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 5
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình QSDĐ : Quyền sử dụng đất TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao UBND : Ủy ban nhân dân 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật, hàng năm Tòa án nhân dân (TAND) trong cả nước nói chung và TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nói riêng thụ lý xét xử hàng chục ngàn vụ án về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) trong đó có nhiều vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất (QSDĐ). Tòa án đã áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ, các quy định có liên quan của Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác để xét xử. Việc xét xử tại TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nhìn chung là kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là quyền lợi của phụ nữ và trẻ em - được dư luận xã hội đồng tình và ủng hộ. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho QSDĐ trong thời gian qua cũng cho thấy, còn nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng tới chất lượng xét xử loại vụ án này, cụ thể là: - Vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ không chỉ liên quan đến vợ, chồng mà còn liên quan đến cha mẹ chồng, cha mẹ vợ… là người có tài sản tặng cho nhưng nhiều trường hợp Tòa án không đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều đó đã vi phạm quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). - Áp dụng chưa đúng quy định của Luật HN&GĐ về tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng, quy định của BLDS, của Luật Đất đai về tặng cho bất động sản… nên có sai sót trong việc xác định tài sản riêng, tài sản chung, hiệu lực của việc tặng cho tài sản là QSDĐ. - Quan hệ HN&GĐ ở nước ta vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục, tập quán nhất là tập quán cha mẹ cho con trai, con dâu tài sản nhưng không 7
  8. làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật. Khi ly hôn giữa con trai và con dâu, giữa con gái với con rể, thì cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ có tranh chấp, đòi lại tài sản. Có Tòa án công nhận việc tặng cho tài sản; có Tòa án lại không công nhận, buộc con trai, con dâu trả lại cho cha mẹ chồng tài sản hoặc ngược lại. Việc xét xử ở các cấp Tòa án không thống nhất về vấn đề này. - Nhiều quy định của các văn bản pháp luật nêu trên chậm được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn nên chưa bảo đảm việc áp dụng thống nhất trong cả nước. - Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện việc xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho QSDĐ qua thực tiễn tại TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nhằm đánh giá thực trạng hoạt động xét xử loại vụ án này của TAND Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đưa ra những khó khăn, vướng mắc, rút ra được những nguyên nhân để trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp khắc phục, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, là vấn đề rất cần thiết và rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề tặng cho tài sản nói chung và tặng cho tài sản là QSDĐ cũng như việc xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho QSDĐ nói riêng có tính thời sự, được xã hội rất quan tâm. Ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về các vấn đề trên, như: Tòa án với việc giải quyết những vụ việc về hôn nhân và gia đình - những tồn tại, vướng mắc và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Hà Nội, năm 2001; Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Cường, Hà Nội, năm 2005; Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Hà Nội, năm 2005; Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng 8
  9. cho quyền sử dụng đất, Luận án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Hải An, Hà Nội, năm 2011); Phân định tài sản của vợ và chồng khi ly hôn, của Kiều Thanh Nghĩa, Tạp chí TAND, số 4 và 5, năm 2000; Một số ý kiến về phân định tài sản của vợ chồng khi ly hôn, của Tưởng Duy Lượng, Tạp chí TAND, số 4 và 5, năm 2000; Những khó khăn, vướng mắc khi xác định đã cho hay chưa cho trong trường hợp các con ra ở riêng cha mẹ có giao một số tài sản cho con sử dụng; Một số kiến nghị về hướng giải quyết, của Tưởng Duy Lượng, Tạp chí TAND, tháng 4/2007; Ngoài ra có một số bài nghiên cứu về thực tiễn giải quyết các tranh chấp về tài sản chung vợ chồng trong các vụ án ly hôn của một số luật gia, thẩm phán… trong một số tạp chí chuyên ngành như Tạp chí TAND, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí luật học... Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến các tranh chấp về tài sản của vợ chồng tặng cho tài sản nói chung trong các vụ án về HN&GĐ mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ trong các vụ án ly hôn và thực tiễn xét xử loại tranh chấp này tại TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Do đó, vấn đề này cần được tập trung nghiên cứu nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập và hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: "Xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa " là nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử của TAND quận Đống Đa đối với các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xét xử của TAND quận Đống Đa và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xét xử loại vụ án này trong thời gian tới. 9
  10. Trên cơ sở mục đích nghiên cứu được đặt ra, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau đây: - Khái quát các quy định của pháp luật hiện hành về tặng cho tài sản là QSDĐ, các nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn. - Phân tích, đánh giá thực trạng xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản QSDĐ. Qua đó nêu được những kết quả, khó khăn, vướng mắc, các nguyên nhân. - Kiến nghị giải pháp khắc phục vướng mắc, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của TAND quận Đống Đa về giải quyết các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Phạm vi nghiên cứu đề tài là thực tiễn giải quyết tranh chấp về tặng cho QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn; các vụ việc thực tiễn gắn với hoạt động xét xử loại án này tại TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể theo truyền thống như: phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, tổng kết thực tiễn… được thực hiện trong quá trình phân tích nội dung của đề tài. 6. Kết quả của đề tài nghiên cứu Kết quả của việc nghiên cứu đề tài: - Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, sự phù hợp của quy định pháp luật với thực tiễn đời sống xã hội. 10
  11. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp về tặng cho tài sản là QSDĐ tại TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội - Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong đó có kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Xác định tài sản của vợ chồng thông qua hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật hiện hành. Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. 11
  12. Chương 1 XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THÔNG QUA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 1.1. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THÔNG QUA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 1.1.1. Khái niệm về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất Theo quy định tại Điều 19 Hiến pháp năm 1980 thì: Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên, thiên nhiên trong lòng đất, vùng biển, thềm lục địa… đều thuộc sở hữu toàn dân. Điều 17 và Điều 18 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung vào ngày 25/12/2001) cũng khẳng định: đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời… đều thuộc sở hữu toàn dân; các chủ thể khác chỉ có QSDĐ, tức là chỉ "có quyền khai thác các thuộc tính của đất để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước" [45]. QSDĐ là quyền tài sản, quyền này trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Khoa học luật quốc tế quan niệm, quốc gia là thực thể được hình thành trên cơ sở có lãnh thổ, có dân cư và quyền lực nhà nước với thuộc tính chính trị - pháp lý bao trùm là chủ quyền quốc gia. Đất đai là bộ phận quan trọng nhất cấu thành lãnh thổ quốc gia cùng với vùng trời, vùng biển và hải đảo. Chủ quyền lãnh thổ là một trong những thuộc tính quan trọng nhất của Nhà nước. Bởi vậy, đất đai nói chung không thể là đối tượng của giao dịch dân sự. Mỗi quốc gia đều có chủ quyền trên lãnh thổ của mình và bởi vậy quy chế về đất đai của các quốc gia là khác nhau. Trải qua những chính sách về đất đai dựa trên những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước ở từng thời kỳ khác nhau mà chính sách của Nhà nước cũng thay đổi để phù hợp với các điều kiện nhất định. 12
  13. Trước Hiến pháp năm 1980, pháp luật nước ta ghi nhận cho công dân có quyền sở hữu đất đai. Từ Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Hiến pháp năm 1980 còn quy định: Nghiêm cấm việc mua bán chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức. Từ sau Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993, thì đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý nhưng Nhà nước giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được sử dụng ổn định lâu dài và có năm quyền của người sử dụng đất, trong đó chưa quy định về quyền được tặng cho QSDĐ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có các quy định của pháp luật làm cơ sở cho việc xác định căn cứ xác lập QSDĐ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Luật Đất đai năm 1993 và BLDS năm 1995 trước đây đã quy định những căn cứ xác lập QSDĐ của cá nhân, hộ gia đình: Được Nhà nước giao đất; được Nhà nước cho thuê đất; được người khác chuyển QSDĐ phù hợp với những quy định của BLDS và pháp luật đất đai. Theo quy định này thì người "có đất" chỉ được công nhận là hợp pháp khi "đất đó" có được từ các căn cứ trên. Những quy định của BLDS năm 2005 và các văn bản pháp luật đất đai quy định về căn cứ xác lập QSDĐ của cá nhân, hộ gia đình trên đây đã tạo cơ sở pháp lý cho "người có đất" thực hiện được các quyền của người sử dụng đất, trong đó có quyền được để lại thừa kế QSDĐ. Tuy nhiên, với thực tế sôi động của thị trường bất động sản diễn ra ngày càng phổ biến thì những quy định của BLDS năm 1995 cũng như Luật Đất đai năm 1993 và các văn bản pháp luật khác về căn cứ xác lập QSDĐ là còn chưa đầy đủ, chưa dự liệu được một cách xác thực với những quan hệ về đất đai đã và đang diễn ra trên thực tế. Luật Đất đai năm 2003 ra đời cùng với các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai đã quy định thêm một số căn cứ xác lập QSDĐ mà trên thực tế đã diễn ra làm phát sinh QSDĐ, Cụ thể hóa những 13
  14. căn cứ mà các văn bản pháp luật trước đây dự liệu, Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ cũng như BLDS năm 2005 đều tiếp tục quy định những căn cứ đó. Để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất và tạo điều kiện cho các quan hệ dân sự về đất đai được lưu thông phù hợp với cơ chế thị trường, Nhà nước cho phép các chủ thể được chuyển QSDĐ thông qua các hình thức: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho QSDĐ và góp vốn bằng giá trị QSDĐ. Về bản chất chuyển QSDĐ là giao dịch dân sự, trong đó đối tượng của giao dịch là QSDĐ. QSDĐ là chế định pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm quy định về các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình sử dụng đất. Quyền sử dụng đất là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất, thông qua việc được độc lập quyền giao đất, cho thuê đất, Nhà nước trao cho người sử dụng đất việc thực hiện thời hạn thuê đất nhận giao đất những quyền và nghĩa vụ nhất định trong đó có sự phân biệt theo loại đất, theo đối tượng sử dụng, theo hình thức thuê đất hoặc giao đất [27]. Theo đó, QSDĐ là một quyền năng mà Nhà nước trao cho người sử dụng đất, nhằm mang lại lợi ích cho người sử dụng đất và cho xã hội. QSDĐ là quyền về tài sản gắn liền với một tài sản đặc biệt đó là đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 đều khẳng định người sử dụng đất có QSDĐ. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất đai với QSDĐ bởi có sự khác nhau về cả nội dung, ý nghĩa cụ thể. - Quyền sở hữu đất đai là quyền ban đầu (có trước), còn QSDĐ là quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, cho phép nhận chuyển QSDĐ hay công nhận QSDĐ. 14
  15. - Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn QSDĐ lại không trọn vẹn, đầy đủ. Vì, thứ nhất là người sử dụng đất không có đầy đủ các quyền năng như Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Thứ hai là không phải người nào cứ có QSDĐ hợp pháp là có đủ các quyền chuyển quyền của người sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 có sự phân biệt giữa các chủ thể sử dụng đất. Chẳng hạn chủ hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê mới có quyền chuyển đổi QSDĐ nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình khác (Điều 113 Luật Đất đai năm 2003), tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất hàng năm chỉ có quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê mà không được thực hiện các quyền chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ thuê (Điều 111 Luật Đất đai năm 2003). Hoặc chỉ những người sử dụng đất theo hình thức giao đất có trả tiền sử dụng đất và thuê đất theo phương thức trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đất hoặc đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất 5 năm mới được pháp luật cho hưởng đầy đủ các quyền chuyển QSDĐ. - Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền tồn tại độc lập, còn QSDĐ lại là quyền phụ thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở chỗ: người sử dụng đất chỉ được sử dụng đất trong phạm vi nhất định (về diện tích đất, thời gian sử dụng đất, mục đích sử dụng đất). Như vậy, QSDĐ là quyền của người sử dụng đất có quyền khai thác các thuộc tính của đất đai một cách hợp pháp phục vụ cho mục đích của mình và quyền chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, người có QSDĐ không có toàn bộ các quyền năng như quyền sử dụng tài sản khác mà chủ sở hữu tài sản đó vốn có, như không có các quyền mua bán, tiêu hủy tài sản… Mà được chuyển QSDĐ thông qua các hình thức: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho 15
  16. QSDĐ, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi theo quy định của Luật Đất đai. Chuyển QSDĐ được hiểu là: Sự chuyển dịch QSDĐ từ chủ thể này sang chủ thể khác theo quy định của BLDS và pháp luật về đất đai. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối của quy luật giá trị, phần lớn các giao dịch dân sự đều thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Con người thường sử dụng hợp đồng như một phương tiện để trao đổi các lợi ích vật chất nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sản xuất, sinh hoạt, tiêu dùng. Tuy nhiên, có những trường hợp việc chuyển giao tài sản và chuyển giao sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác lại không có tính đền bù, ngang giá. Bởi lẽ con người còn sử dụng hợp đồng như một phương tiện để giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau, một trong các trường hợp thực tế đó chính là hợp đồng tặng cho tài sản. Hợp đồng tặng cho tài sản là một loại hợp đồng dân sự, do đó nó có nét đặc trưng của hợp đồng dân sự, để đưa ra khái niệm về hợp đồng tặng cho QSDĐ trước hết cần xuất phát từ khái niệm hợp đồng dân sự: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [29]. Đồng thời cần xem xét khái niệm tặng cho tài sản dưới nhiều góc độ khác nhau như: "Tặng cho là để tỏ lòng quý mến" [30]; hay "Tặng cho là trao cho để khen gợi, khuyến khích để tỏ lòng quý mến" [48]; hoặc "Tặng cho là chuyển hẳn cho người khác dùng cái của mình mà không nhận lại cái gì" [47]. Như vậy việc tặng cho tài sản dựa trên yếu tố tình cảm, động viên, khuyến khích giữa bên tặng cho và bên được tặng cho. Để việc tặng cho được xác lập thì lời đề nghị của người tặng cho không đủ mà cần phải có sự chấp nhận của người được tặng cho, do vậy tặng cho tài sản là một hợp đồng. Như vậy, có thể nói hợp đồng tặng cho tài sản là một quan hệ tặng cho được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên để thỏa mãn các nhu cầu về sản 16
  17. xuất, kinh doanh hoặc các nhu cầu về sinh hoạt hàng ngày, còn pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản là sự quy định của Nhà nước đối với các bên trong việc thỏa thuận về tặng cho tài sản. Sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng tặng cho và quy định của pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu các bên thỏa thuận tặng cho nhau tài sản theo đúng quy định của pháp luật thì được Nhà nước công nhận sự thỏa thuận đó và hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ. Trường hợp các bên có những thỏa thuận không phù hợp với quy định của pháp luật thì sẽ không được công nhận; hợp đồng tặng cho này có thể bị vô hiệu và không có giá trị tại thời điểm ký kết. Quyền tài sản là quyền của chủ thể đối với một loại tài sản, nên có thể khẳng định, hợp đồng tặng cho QSDĐ là một dạng của hợp đồng tặng cho tài sản. Điều 722 BLDS năm 2005 quy định: "Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên tặng cho giao quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai" [29]. Có thể thấy, khái niệm trên đã thể hiện được khá đầy đủ đặc điểm của hợp đồng tặng cho QSDĐ. Khái niệm trên sẽ ngắn gọn hơn nếu như không có cụm từ "còn bên được tặng cho đồng ý nhận", vì chỉ khi bên được tặng cho đồng ý nhận thì mới có việc xác lập, giao kết hợp đồng. Việc bên tặng cho thể hiện ý chí muốn tặng cho và bên được tặng cho đồng ý nhận chính là đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Trên cơ sở kế thừa và phát triển khái niệm nêu trên chúng ta có khái niệm hợp đồng tặng cho QSDĐ như sau: Hợp đồng tặng cho QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên tặng cho giao QSDĐ cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù theo quy định của pháp luật. Dưới phương diện khách quan, hợp đồng tặng cho QSDĐ là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh 17
  18. quan hệ tặng cho QSDĐ. Đây chính là các quy định về điều kiện (Điều 470 BLDS 2005), nội dung (Điều 723 BLDS năm 2005), hình thức và hiệu lực (Điều 467 BLDS 2005) của hợp đồng tặng cho QSDĐ và Quyền và nghĩa vụ (Điều 724, 725, 726 BLDS 2005) của các bên khi tặng cho QSDĐ. 1.1.2. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi hai vợ chồng đƣợc tặng cho chung 1.1.2.1. Căn cứ xác định * Vợ chồng được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân Tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung [29]. Việc xác định QSDĐ là tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân- quan hệ vợ chồng. Theo khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000: "Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân" [25]. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi kết hôn tức là ngày Ủy ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn- nơi thường trú của vợ hoặc chồng công nhận, vào Sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ chồng. Để xác định đúng khối tài sản chung vợ chồng thì trước tiên và quan trọng là phải xác định đúng thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng. Theo nguyên tắc chung trong Luật HN&GĐ năm 2000 thì quan hệ vợ chồng được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn (khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000). Tuy nhiên do tác động của các yếu tố như điều kiện lịch sử, phong tục tập quán và nhận thức pháp luật nên trong một số thời điểm nhất định, pháp luật về 18
  19. HN&GĐ vẫn thừa nhận quan hệ hôn nhân thực tế. Do đó, thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng trong một số trường hợp cũng khác nhau. - Trường hợp sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 Trong khoảng thời gian trước ngày 03/01/1987 tức là trước khi Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực thi hành, tại Điều 11 Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định: "Việc kết hôn phải được ủy ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật" [21]. Theo quy định trên thì việc kết hôn phải được đăng ký thì mới có giá trị về mặt pháp luật. Tuy nhiên trong thời kỳ này yếu tố phong tục tập quán còn ăn sâu trong tư tưởng người dân nên dẫn đến một thực trạng: phần lớn việc kết hôn chỉ tuân theo những phong tục, tập quán ở mỗi địa phương mà không tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trước thực tế trên, để đảm bảo quyền lợi cho vợ, chồng và các thành viên trong gia đình thì pháp luật trong từng thời kỳ đã có quy định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế. Căn cứ vào các quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ; tại khoản 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ và tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 thì có thể kết luận: + Việc đăng ký kết hôn được Nhà nước khuyến khích, không coi là nghĩa vụ bắt buộc và việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về thời gian; + Quan hệ vợ chồng được công nhận kể từ ngày họ bắt đầu sống chung như vợ chồng, chứ không phải từ ngày họ đăng ký kết hôn; 19
  20. + Nếu có yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000. - Trường hợp sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 Tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết [25]. Tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định: Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng [2]. Theo quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 thì thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng được xác định như sau: + Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến hết ngày 01/01/2003 mà nam nữ sống chung như vợ chồng đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày bắt đầu sống chung như vợ chồng. Đối với các trường hợp, trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2001 cho đến hết ngày 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2